TS. Nguyễn Thị Thuỳ Duyên
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn,
Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh
(Quanlynhanuoc.vn) – Tư tưởng chính trị “Nhân nghĩa” của Nguyễn Trãi là một nội dung cơ bản, quan trọng trong việc giúp triều đình phong kiến nhà Hậu Lê trị vì đất nước. Tư tưởng đó phản ánh giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp của dân tộc, lấy Nhân dân làm trung tâm, gốc của mọi hoạt động. Bài viết làm rõ những nội dung cơ bản tư tưởng chính trị “Nhân nghĩa” của Nguyễn Trãi; qua đó rút ra ý nghĩa đối với việc xây dựng bộ máy nhà nước tinh, gọn, mạnh, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả hiện nay; tập trung đánh giá thực trạng và đề xuất một số biện pháp để xây dựng bộ máy nhà nước tinh, gọn, mạnh đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới.
Từ khoá: Tư tưởng chính trị, nhân nghĩa, Nguyễn Trãi, bộ máy nhà nước.
1. Đặt vấn đề
Nguyễn Trãi (1380-1442) hiệu là ức trai, quê ở xã Nhị Khê, huyện Thường Tín, Thành phố Hà Nội trong một gia đình có truyền thống yêu nước, thương dân. Chính vì vậy, Nguyễn Trãi đã tiếp thu, hấp thụ được nhiều tư tưởng nhân văn tiến bộ của gia đình. Sinh ra và lớn lên vào giai đoạn lịch sử thời Hậu Lê với sự hưng thịnh của triều đình phong kiến trên các mặt của đời sống xã hội, đặc biệt trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm của nhà Minh (Trung Quốc), đưa đất nước thoát khỏi sự áp bức, bóc lột tàn bạo, dã man. Triều đình phong kiến nhà Hậu Lê đứng đầu là Lê Lợi đã thi hành nhiều chính sách quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, giáo dục để an dân, bảo vệ vững chắc giang sơn đất nước vừa mời giành được.
Với tư cách là một vị quan trong triều đình, Nguyễn Trãi đã tích cực, chủ động phò vua, giúp nước, xây dựng xã hội “thái bình thiên quốc” để muôn dân được “Muôn thuở nền thái bình vững chắc”. Tư tưởng chính trị của Nguyễn Trãi là những quan điểm thân dân, gắn bó với Nhân dân, đem lại những điều kiện thuận lợi nhất để Nhân dân tự do phát triển; xây dựng bộ máy giúp việc cho nhà vua thật sự trong sạch, liêm khiết trong quá trình làm việc… Những tư tưởng nhân văn về chính trị của Nguyễn Trãi đến nay vẫn còn nguyên giá trị, là cơ sở, tiền đề quan trọng để Đảng, Nhà nước ta kế thừa, vận dụng linh hoạt, sáng tạo vào thực hiện cuộc cách mạng về tinh, gọn, mạnh bộ máy nhà nước hoạt động hiệu năng, hiệu quả, hiệu lực đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
2. Tư tưởng chính trị của Nguyễn Trãi nội dung cốt lõi là “an dân” phản ánh giá trị nhân văn sâu sắc của truyền thống lịch sử, văn hoá dân tộc
Tư tưởng chính trị của Nguyễn Trãi hình thành và phát triển bắt nguồn từ truyền thống yêu nước đấu tranh chống giặc ngoại xâm của ông cha trong lịch sử; được nâng lên tầm cao mới trở thành giá trị nhân văn sâu sắc, hướng đến bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền của đất nước, Nhân dân có cuộc sống bình yên để chăm lo phát triển đời sống. Những tư tưởng chính trị của Nguyễn Trãi được biểu hiện thông qua các tác phẩm: Quân trung từ mệnh tập, Bình Ngô Đại cáo, Ức Trai thi tập, Quốc âm thi tập… Thông qua các tác phẩm này những tư tưởng về chính trị, quân sự, văn hoá, ngoại giao được thể hiện sinh động, phản ánh những sắc thái, đường nét của dân tộc Việt Nam nói chung và phương sách duy trì, quản lý xã hội của triều đình phong kiến nhà Hậu Lê. Trong hệ thống tư tưởng chính trị của Nguyễn Trãi, tư tưởng về “Nhân nghĩa” chiếm một vị trí quan trọng đối với cuộc đời, sự nghiệp hoạt động của ông, đó là hệ thống những quan niệm, tư tưởng thể hiện sự trung thành với nhà vua, với Nhân dân, suốt đời phò vua, giúp nước.
Trong “Bình Ngô Đại cáo” Nguyễn Trãi đã khẳng định một triết lý sâu sắc của tư tưởng chính trị xuyên suốt “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân. Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”. Đây chính là tư tưởng phản ánh những giá trị văn hoá truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam trong lịch sử dựng nước và giữa nước của ông cha. Mọi hành động, việc làm của triều đình phong kiến hướng đến việc cuối cùng là “yên dân”, trừ bạo (giặc ngoại xâm từ bên ngoài, bọn vua quan tham lam, ức hiếp, ăn chặn, nhũng nhiều, gây phiền hà cho Nhân dân).
Theo Nguyễn Trãi “Nhân nghĩa” là “yên dân”, trừ bạo có như vậy mới được lòng dân, xây dựng cơ đồ của triều đình phong kiến không bị lung lay, ảnh hưởng bởi bất kỳ một tác động, ảnh hưởng nào từ bên ngoài. “Nhân nghĩa” thể hiện niềm tin sắt son vào con người, vào những việc của triều đình có ích cho Nhân dân, cho đất nước. “Nhân nghĩa” là gốc bền vững của mọi công việc, hành động của triều đình; quan tâm, chăm lo đến Nhân dân đó là trách nhiệm, nghĩa vụ của những người nắm giữ những chức vụ quan trọng trong triều đình, đặc biệt là nhà vua. Nguyễn Trãi chỉ rõ: “phàm mưu việc lớn phải lấy nhân nghĩa làm gốc, nên công to phải lấy nhân nghĩa làm đầu. Chỉ nhân nghĩa có gồm đủ thì công việc mới xong xuôi”1.
Đối với dân tộc Việt Nam, trải qua biết bao đau thương, mất mát, hy sinh của các cuộc chiến tranh xâm lược từ bên ngoài rất thấm thía giá trị của độc lập, tự do. Vì vậy, tư tưởng chính trị Nhân nghĩa của Nguyễn Trãi mà trước hết là an dân thể hiện một quan điểm rất nhân văn tiến bộ, vượt qua khuôn khổ của chế độ phong kiến lúc bấy giờ, trở thành yếu tố cốt lõi hình thành, phát triển phẩm chất nhân cách cao đẹp của ông. Sau chiến thắng quân Minh xâm lược, Nguyễn Trãi đã khái quát, đúc kết một tư tưởng triết lý sâu sắc “Thuyền bị lật mới tin rằng dân như nước”. Sức mạnh của Nhân dân theo Nguyễn Trãi là vô địch, không súng ống, vũ khí tối tân hiện đại nào có thể chống lại được.
Nguyễn Trãi đã ví sức mạnh của Nhân dân như sức nước, khi sức nước đã mạnh ào ào đổ xuống có thể cuốn phăng mọi chướng ngại trước mặt. Quân Minh sang xâm lược nước ta đã tiến hành bắt bớ, chém giết vô cùng dã man, tàn bạo, gây trong Nhân dân sự oán hận, căm phẫn đến tột độ. Nguyễn Trãi đã chỉ rõ: “Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn. Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ… Lẽ nào trời đất dung tha”. Chính vì vậy, khi triều đình nhà Lê giương cao ngọn cờ chính nghĩa đã quy tụ, tập hợp được sức mạnh của Nhân dân, đi đến đâu nghĩa quân cũng nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ về mọi mặt góp phần đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn của quân xâm lược, bảo vệ từng tấc đất, tấc vàng thiêng liêng của ông cha. Với một trái tim nhân đạo, một tư tưởng chính trị nhân văn vì “Nhân nghĩa”, Nguyễn Trãi đã nhìn thấy, trong Nhân dân có một sức mạnh vô địch, nếu biết khai thác, sử dụng sẽ trở thành bức thành đồng kiên cố, vững chắc.
Theo Nguyễn Trãi “Nhân nghĩa” phải gắn liền với những cơ chế, chính sách đúng đắn, phù hợp để an dân, tổ chức cuộc sống cho Nhân dân được hưởng cuộc sống mới sau khi đã kết thúc chiến tranh. Đây là nội dung được Nguyễn Trãi đặc biệt quan tâm, ông đã cùng với Lê Lợi và những bậc quan trong triều đình tiến hành ban bố rất nhiều sắc lệnh để miễn giảm thuế, chia lại ruộng đất cho người nông dân, mở những lớp thi để chọn người hiền tài cho các địa phương, cử người trấn giữ biên thuỳ để bảo vệ biên giới quốc gia… Vì thế, dân chúng tin tưởng, ủng hộ mọi quyết sách của triều đình, cùng với triều đình tham gia vào các hoạt động xã hội, tích cực, chủ động lao động sản xuất, giữ gìn trật tự xã hội, sẵn sàng ra nhập vào đội quân của triều đình khi có lệnh của nhà vua.
Là một nhà chính trị, Nguyễn Trãi rất gần gũi với Nhân dân, hiểu được nỗi cực khổ của Nhân dân trong suốt những năm dưới ách đô hộ của nhà Minh xâm lược; tư tưởng an dân, diệt trừ quân xâm lược, dập tắt muôn đời chiến tranh được Nguyễn Trãi thấm thía, trải nghiệm và chứng kiến sự mất độc lập, tự do, không được lòng dân của nhà Hồ. Cho nên, an dân phải lo cho dân, không để cho dân chúng bất an, lo lắng, không để những kẻ xâm lược bên ngoài đến cướp bóc, giết hại Nhân dân, diệt trừ hết quân xâm lược và bọn bán nước cầu vinh để dân chúng được sống trong bình yên, hạnh phúc.
Tư tưởng chính trị “Nhân nghĩa” của Nguyễn Trãi còn được thể hiện ở tinh thần, thái độ khoan dung đối với kẻ thù, luôn mở lối thoát cho kẻ thù khi đã ăn năn, hối cải, nhận ra những sai lầm. Đây chính là sự thể hiện tinh thần bang giao, hoà hiếu, không muốn gây thù chuốc oán với ai nhưng nếu kẻ thù cố tình muốn cướp nước ta, bắt Nhân dân ta phải phục tùng mệnh lệnh của kẻ không phải là người dân tộc Việt Nam. Vì chính nghĩa, vì giá trị của hoà bình, tự do, không có cách nào khác, Nhân dân ta buộc phải đứng lên tự vệ, bảo vệ giang sơn, gấm vóc của ông cha đã tạo dựng, xây đắp nên. Nhưng không phải vì thế mà Nhân dân ta truy diệt, đuổi cùng không cho quân thù có con đường sống. Trong quá trình tiến công nếu thấy quân thù đã suy yếu không còn khả năng phản kháng, chống cự mà xin đầu hàng, Nhân dân ta rất nhân văn, mở lối thoát cho kẻ thù xâm lược có cơ hội sống quay về đất nước. Tư tưởng đó thể hiện một tinh thần đoàn kết quốc tế, luôn coi trọng tính mạng con người, đề cao con người trong mọi điều kiện hoàn cảnh của ông cha ta và của Nguyễn Trãi – một tư tưởng lớn, một nhân cách lớn.
Nguyễn Trãi đã chỉ rõ: “Tướng giặc bị cầm, nó vẫy đuôi cầu sống. Thần vũ không giết, ta thể lòng trời để tỏ hiếu sinh… Thuyền đã vượt biển về mà còn hồn kinh phách lạc… Đã về nước mà còn ngực đập chân run. Chúng sợ chết tham sống mà thực muốn cầu hoà. Ta lấy toàn quân làm cốt mà cho dân được nghỉ. Chẳng những mưu kế cực kỳ sâu… xã tắc do đó được yên. Non sông do đó đổi mới”2.
Với tinh thần đó, khi nghĩa quân Lam Sơn khởi nghĩa đã nhanh chóng thu phục được quân thù cùng với sức mạnh về quân sự, nghệ thuật “Tâm công” đánh vào lòng người được Nguyễn Trãi vận dụng nhuần nhuyễn vào từng trận đánh, tạo thành sức mạnh tổng hợp đánh bại đội quân xâm lược của nhà Minh. Nguyễn Trãi đã cùng với các tướng sĩ nêu cao khí phách, bản lĩnh anh hùng của một dân tộc yêu chuộng hoà bình, mong muốn kết thúc chiến tranh để Nhân dân làm ăn, chăm lo đời sống “Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới. Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọn ngào” làm nên chiến thắng vang dội trong lịch sử, khiến quân thù phải khiếp vía, hồn bay, phách lạc, kết thúc chiến tranh, mở ra nền thái bình cho dân tộc. “Xã tắc từ đây bền vững. Giang sơn từ đây đổi mới. Kiền khôn bĩ rồi lại thái. Nhật nguyệt hối rồi lại minh. Muôn thuở nền thái bình vững chắc”.
Tư tưởng chính trị “Nhân nghĩa” của Nguyễn Trãi với những nội dung cơ bản, cốt lõi là an dân, trừ bạo, đề cao vai trò, vị trí của Nhân dân trong xã hội, khoan hồng với kẻ thù xâm lược… có giá trị lý luận, thực tiễn lịch sử, hiện tại và tương lai sâu sắc. Tư tưởng đó đã thể hiện tinh thần nhân văn, nhân đạo của dân tộc Việt Nam, góp phần làm phong phú thêm truyền thống văn hoá, đạo đức của dân tộc; đồng thời, cung cấp thêm những nội dung, phương sách quan trọng để triều đại phong kiến kế tiếp vận dụng linh hoạt, sáng tạo vào các giai đoạn, thời kỳ lịch sử cụ thể nhằm mục tiêu giữ vững độc lập, tự do của dân tộc.
Tư tưởng chính trị “Nhân nghĩa” của Nguyễn Trãi vượt không gian, thời gian, trở thành hệ giá trị văn hoá, đạo đức quan trọng của dân tộc, là những chỉ dẫn quý báu để Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng, Nhà nước ta hoạch định quan điểm, đường lối, cơ chế, chính sách phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, quan tâm, chăm lo đến quyền và lợi ích của Nhân dân; đặc biệt trong thực hiện cuộc cách mạng về xây dựng bộ máy nhà nước tinh, gọn, mạnh hoạt động hiệu năng, hiệu quả, hiệu lực, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ phát triển đất nước trong thời kỳ mới.
3. Ý nghĩa tư tưởng chính trị “Nhân nghĩa” của Nguyễn Trãi đối với việc xây dựng bộ máy nhà nước tinh, gọn, mạnh hoạt động hiệu năng, hiệu quả, hiệu lực hiện nay
Phát biểu khai mạc Hội nghị Trung ương 10 (khoá XIII) Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đã nêu những định hướng cơ bản về hoàn thiện quan hệ sản xuất: “Tinh gọn bộ máy tổ chức Đảng, Nhà nước, Quốc hội, các tổ chức chính trị – xã hội để hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đổi mới phương thức lãnh đạo cầm quyền của Đảng để đưa dân tộc ta tiến lên”3. Để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đó, một trong những nội dung, biện pháp quan trọng đẩy mạnh xây dựng bộ máy nhà nước theo hướng tinh, gọn, mạnh hoạt động hiệu năng, hiệu quả, hiệu lực trên cơ sở nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, truyền thống văn hoá, đạo đức dân tộc và những tư tưởng nhân văn tiến bộ của ông cha trong lịch sử, nhất là tư tưởng chính trị “Nhân nghĩa” của Nguyễn Trãi góp phần xây dựng Nhà nước ta thật sự là của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã quán triệt và kế thừa, vận dụng linh hoạt, sáng tạo tư tưởng chính trị “Nhân nghĩa” của Nguyễn Trãi vào xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, đạt được nhiều kết quả quan trọng trên các lĩnh vực, ngành nghề.
Đảng ta đã ban hành nhiều nghị quyết về sắp xếp, tinh gọn bộ máy đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá dất nước, mở cửa, hội nhập quốc tế: Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương (khoá XII) về đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị; Kết luận số 50-KL/TW ngày 28/02/2023 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW… Đánh giá về kết quả thực hiện nghị quyết, kết luận của Trung ương về sắp xếp, tinh gọn bộ máy Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định: “hệ thống tổ chức đảng các cấp, bộ máy nhà nước từ trung ương đến cơ sở, tổ chức cơ quan Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị – xã hội từng bước được đổi mới; phát huy hiệu lực, hiệu quả; chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của từng tổ chức trong hệ thống chính trị được phân định, điều chỉnh hợp lý hơn, từng bước đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”4.
Tuy nhiên, so với yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra việc sắp xếp, tinh gọn bộ máy trong hệ thống chính trị và các tổ chức chính trị – xã hội còn cồng kềnh, chồng chéo, hoạt động chưa hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả. Một số cơ quan, chức năng, ban, ngành từ trung ương đến địa phương còn trùng nhau về nội dung, tính chất công việc, chưa phân định rõ trách nhiệm và có sự phân cấp, phân quyền rõ ràng, minh bạch; đội ngũ cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị làm việc cầm chừng, chưa phát huy hết tiềm năng, thế mạnh của mình; việc giải quyết những thủ tục hành chính cho người dân và doanh nghiệp qua nhiều khâu, nhiều bước, thậm chí còn chậm giải quyết, xử lý, dẫn đến mất cơ hội, thời cơ phát triển. Kỷ cương, kỷ luật trong ứng xử của một bộ phận cán bộ, công chức không nghiêm, vi phạm quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước; tham nhũng, lãng phí, tiêu cực gây bức xúc trong Nhân dân, cản trở quá trình phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
Tổng Bí thư Tô Lâm đánh giá: “Bộ máy cồng kềnh gây lãng phí và kìm hãm sự phát triển… dẫn đến nhiều chủ trương, chính sách của Đảng chậm đi vào thực tiễn cuộc sống”5. Chính vì vậy, cần khắc phục một cách triệt để những hạn chế, bất cập nêu trên, đưa đất nước sang một giai đoạn phát triển mới, trước hết, hệ thống chính trị các cấp tư trung ương đến địa phương cần quán triệt và thực hiện nghiêm túc quan điểm, đường lối của Đảng, chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước về tinh giảm bộ máy. Các cơ quan, chức năng, ban ngành thực hiện cuộc cách mạng về tinh giảm bộ máy, hoạt động hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả.
Những cơ quan, ban, ngành có chức năng, nhiệm vụ gần giống nhau cần sát nhập lại; đề ra kế hoạch, chương trình, hành động mạnh mẽ, quyết liệt đối với cấp uỷ, tổ chức đảng, người đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa phương trong thực hiện kết luận, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, đứng đầu là Tổng Bí thư về sắp xếp, tinh giảm bộ máy nhà nước trong hệ thống chính trị các cấp. Nghiên cứu, đánh giá một cách căn cơ, toàn diện chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan, ban, ngành trong giai đoạn hiện nay, xác định chủ trương, biện pháp tách ra, sát nhập, giải thể hợp lý, hiệu quả, đạt được mục đích, yêu cầu, nhiệm vụ đã xác định.
Trách nhiệm của việc thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ này thuộc về cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp; xác định rõ tư tưởng, thái độ việc sắp xếp, tinh giảm bộ máy vì sự phát triển đi lên của dân tộc, đưa Việt Nam sánh vai cường quốc năm châu thế giới; gạt bỏ lợi ích cá nhân, thậm chí hy sinh quyền lợi riêng cho Đảng, Nhà nước và cho Nhân dân. Từ đó, nêu cao tinh thần đoàn kết, thống nhất về nhận thức, hành động trong cơ quan, đơn vị, địa phương đồng tình, ủng hộ quan điểm, đường lối của Đảng, chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước về tinh, gọn bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa phương.
Hai là, lựa chọn, sắp xếp đội ngũ cán bộ, công chức các cấp có tâm – tầm – trí, thật sự vì lợi ích quốc gia, dân tộc.
Việc sắp xếp, tinh gọn bộ máy trong hệ thống chính trị gắn liền với sắp xếp, bố trí đội ngũ cán bộ, công chức, đặc biệt là người trong cấp uỷ, tổ chức đảng, đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa phương. Hai hoạt động này tiến hành đồng thời, cùng lúc, không tách rời nhau. Đội ngũ cán bộ được lựa chọn, sắp xếp lại, nhất là người đứng đầu trong hệ thống chính trị phải thật tự tiêu biểu về phẩm chất đạo đức, lối sống, năng lực, phương pháp, tác phong công tác, có tâm – tầm – trí để lãnh đạo, quản lý và thu phục “nhân tâm” để thực hiện thắng lợi những đòi hỏi của tình hình nhiệm vụ đặt ra ngày càng cao hiện nay. Không để cơ quan nhà nước là “vùng trú ẩn an toàn” cho cán bộ yếu kém. Với yêu cầu cao hơn khi triển khai tổ chức mới, phải có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng lại cán bộ trước và sau khi sắp xếp lại tổ chức6.
Với tinh thần này, đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức khi được bổ nhiệm, sắp xếp vào vị trí công tác mới cần nêu cao tính tiền phong, gương mẫu, nói đi đôi với làm; xây dựng tác phong gần dân, trọng dân và tin ở dân; lắng nghe và giải quyết tốt những nguyện vọng, thắc mắc chính đáng, hợp pháp của Nhân dân; tạo điều kiện thuận lợi để người dân, doanh nghiệp được tham gia vào các hoạt động của hệ thống chính trị; tích cực, chủ động đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí trong cán bộ, đảng viên, công chức, nhất là người có chức vụ, quyền hạn; củng cố, giữ vững và tăng cường mối quan hệ gắn bó máu thịt với Nhân dân.
Ba là, quan tâm, chăm lo, bảo vệ và phát huy quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của Nhân dân.
Nhân dân là chủ thể, trung tâm của mọi sự phát triển, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu quyền lợi đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là trách nhiệm của dân”7. Theo đó, đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức dù nắm giữ, đảm nhiệm chức vụ gì đều phải quan tâm, chăm lo, bảo vệ và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện an sinh xã hội đi vào thực tiễn cuộc sống, đến được với mọi người dân.
Đẩy mạnh thực hiện phong trào thi đua yêu nước trong Nhân dân để khơi dậy tinh thần tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc, vươn lên trong công việc, cuộc sống, không cam chịu đói nghèo, lạc hậu. Đồng thời thực hiện có hiệu quả chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, xây dựng đời sống văn hoá mới, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Quán triệt và thực hiện nghiêm túc phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát và dân thụ hưởng”.
Mọi quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước xuất phát từ lợi ích của Nhân dân, đem lại những điều kiện thuận lợi nhất để Nhân dân được hưởng thành tựu của đất nước đạt được sau gần 40 năm đổi mới. Không ngừng củng cố, giữ vững và tăng cường mối quan hệ gắn bó máu thịt với Nhân dân, qua đó, xây dựng thế trận lòng dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc. Thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội, bảo đảm tính bền vững lâu dài của chính sách an sinh xã hội để không ai bị bỏ lại phía sau, có cơ hội, điều kiện phát triển vươn lên trong môi trường hoà bình, có tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ: “Chăm lo lợi ích, hạnh phúc của nhân dân là mục đích thiêng liêng, là lý tưởng cao quý của Đảng. Trong điều kiện hoà bình, xây dựng, chăm lo đời sống nhân dân là mục đích trực tiếp, là một nội dung quan trọng trong hoạt động của Đảng và các cơ quan Nhà nước, là vấn đề quyết định sự tín nhiệm và sự gắn bó của nhân dân đối với Đảng, là một động lực to lớn tạo ra phong trào hành động cách mạng của quần chúng”8.
4. Kết luận
Tư tưởng chính trị “Nhân nghĩa” của Nguyễn Trãi chứa đựng những nội dụng sâu sắc về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay. Kế thừa, bổ sung, phát triển tư tưởng chính trị “Nhân nghĩa” của Nguyễn Trãi là yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra cho chúng ta hiện nay để xây dựng, hoàn thiện bộ máy trong hệ thống chính trị theo hướng tinh, gọn, mạnh, hoạt động hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên tiên tiến, văn minh, hiện đại, sánh vai cường quốc năm châu thế giới. Tổng Bí thư Tô Lâm đã khẳng định: “chúng ta đã đủ thế và lực; đã đủ ý chí và quyết tâm để bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh của dân tộc”9.
Chú thích:
1, 2. Uỷ ban Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Sử học (1976). Nguyễn Trãi toàn tập. H. NXB Khoa học xã hội, tr. 106, 81.
3. Toàn văn phát biểu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm khai mạc Hội nghị Trung ương 10 (khoá XIII) của Đảng. https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn, ngày 18/9/2024.
4, 5. Tô Lâm (2024). Tinh – gọn – mạnh – hiệu năng – hiệu lực – hiệu quả. Tạp chí Cộng sản, ngày 05/11/2024.
6, 9. Toàn văn phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Hội nghị toàn quốc quán triệt, triển khai tổng kết việc thực hiện Nghị quyết số 18 và một số nội dung quan trọng khác. https://dangcongsan.vn, ngày 01/12/2024.
7. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 6. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 231.
8. Toàn văn bài phát biểu của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị triển khai Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và các chỉ thị, kết luận của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về công tác dân vận. https://baochinhphu.vn, ngày 27/5/2016.