ThS. Nguyễn Thị Ngọc
Học viện Hành chính và Quản trị công
(Quanlynhanuoc.vn) – Mặc dù đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong công tác giảm nghèo, song tình trạng nghèo ở các dân tộc thiểu số vẫn đang là một trong những thách thức đối với khu vực Tây Nguyên. Bài viết phân tích, đánh giá thực trạng, chỉ ra hạn chế và đề xuất các giải pháp giảm nghèo bền vững đối với đồng bào dân tộc thiểu số ở khu vực Tây Nguyên.
Từ khoá: Giảm nghèo bền vững; vùng đồng bào dân tộc thiểu số; khu vực Tây Nguyên.
1. Đặt vấn đề
Tỷ lệ nghèo ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số tại Tây Nguyên có sự thay đổi, được cải thiện và đang tiếp tục đạt được những kết quả tích cực. Song tình trạng nghèo ở các xã, thôn thuộc vùng dân tộc thiểu số hay các huyện nghèo ở khu vực Tây Nguyên vẫn đang là một trong những thách thức lớn đối với khu vực này. Tính đến tháng 12/2024, toàn khu vực Tây Nguyên có 4.785 xã thuộc vùng dân tộc thiểu số, giảm 2.532 xã so với năm 20201. Toàn khu vực còn 1.489 thôn đặc biệt khó khăn, giảm 595 thôn so với năm 20202.
Trong nhiều năm qua, để hiện thực hóa chiến lược công tác dân tộc và mục tiêu giảm nghèo bền vững, Chính phủ và chính quyền địa phương các tỉnh Tây Nguyên đã xây dựng, ban hành, triển khai thực hiện nhiều chính sách giảm nghèo đối với vùng dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, kết quả giảm nghèo đa chiều chưa thực sự bền vững, nguy cơ tái nghèo còn cao3. Tại các xã, thôn thuộc vùng dân tộc thiểu số, nhiều hộ dân tộc thiểu số vẫn đang sống trong cảnh nghèo đói. Hiện trạng này dễ dẫn đến những nguycơ bất ổn về tinh thần, xã hội và chính trị. Chính vì vậy, cuộc đấu tranh chống lại nghèo đói luôn được đặt vào trung tâm trong mọi chương trình hành động của chính quyền các tỉnh khu vực Tây Nguyên.
2. Thực trạng giảm nghèo bền vững vùng đồng bào dân tộc thiểu số khu vực Tây Nguyên
Theo số liệu thống kê ở cả 5 tỉnh khu vực Tây Nguyên cho thấy, số lượng hộ nghèo giảm từ 175.772 hộ năm 2017 xuống còn 78.179 hộ năm 2023; số hộ nghèo dân tộc thiểu số giảm từ 129.465 năm 2017 xuống còn 78.179 năm 2023. Đây là một tín hiệu khả quan, ghi nhận sự nỗ lực của các chủ thể trong công tác giảm nghèo chung và giảm nghèo đối với đồng bào dân tộc thiểu số tại Tây Nguyên. Nhờ nỗ lực trong thực hiện mục tiêu giảm nghèo của người dân, chính quyền địa phương cũng như sự quan tâm, đầu tư của Đảng và Nhà nước thông qua các chương trình, chính sách giảm nghèo trong gần 10 năm qua, công tác giảm nghèo tại khu vực này đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Số hộ nghèo trong giai đoạn 2017 – 2023 đã giảm một nửa, thể hiện qua bảng 1.
Bảng 1. Số lượng và tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số khu vực Tây Nguyên giai đoạn 2017 – 2023
TT | Tỉnh | Năm 2017 | Năm 2023 | ||||
Số hộ nghèo | Số hộ nghèo dân tộc thiểu số | Tỷ lệ % | Số hộ nghèo | Số hộ nghèo dân tộc thiểu số | Tỷ lệ % | ||
1 | Đắk Lắk | 66.956 | 42.774 | 63,88 | 46.091 | 31.229 | 67,76 |
2 | Đắk Nông | 25.141 | 15.211 | 60,5 | 8.838 | 6.419 | 72,63 |
3 | Gia Lai | 45.340 | 39.217 | 86,5 | 31.502 | 28.173 | 89,43 |
4 | Kon Tum | 26.164 | 24.236 | 92,63 | 10.220 | 9.716 | 95,06 |
5 | Lâm Đồng | 12.168 | 8.027 | 65,97 | 3.912 | 2.642 | 67,53 |
Toàn khu vực | 175.772 | 129.465 | 73,66 | 100.563 | 78.179 | 77,74 |
Từ bảng 1 có thể thấy, ở cả 5 tỉnh, tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số trong tổng số hộ nghèo gia tăng dần qua các năm. Sự gia tăng trung bình chung của toàn khu vực là 4,08% trong vòng 6 năm, từ 73,66% năm 2017 lên 77,74% năm 20234. Tình trạng nghèo đã và đang có xu hướng tập trung ở nhóm các dân tộc thiểu số, hộ dân tộc Kinh chỉ chiếm tỷ lệ hơn 20% trong tổng số hộ nghèo.
Thực tế số lượng hộ dân tộc thiểu số nghèo và cận nghèo trong tổng số hộ dân tộc thiểu số có giảm nhưng vẫn chiếm tỷ lệ cao trong tổng số hộ dân tộc thiểu số5. Trong giai đoạn 2017 – 2023, số lượng và tỷ lệ hộ dân tộc thiểu số nghèo và cận nghèo ở Tây Nguyên có xu hướng giảm dần, từ 197.311 hộ (chiếm 39,67%) năm 2017 giảm xuống 142.402 hộ (chiếm 26,78%) năm 2023. Ở cả 5 tỉnh, số lượng và tỷ lệ hộ dân tộc thiểu số nghèo, cận nghèo đều giảm. Mặc dù vậy, số lượng và tỷ lệ hộ dân tộc thiểu số nghèo và cận nghèo ở các tỉnh Tây Nguyên vẫn khá cao. Tỷ lệ hộ dân tộc thiểu số nghèo và cận nghèo chung của toàn vùng là 26,78%. Trong đó, một số tỉnh, như: Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông có tỷ lệ hộ dân tộc thiểu số nghèo và cận nghèo cao (lần lượt là 33,91%, 31,66% và 27,76%). Lâm Đồng là tỉnh có tỷ lệ hộ dân tộc thiểu số nghèo và cận nghèo thấp nhất trong khu vực với 8,75%6.
Về số lượng và tỷ lệ hộ nghèo, hộ cận nghèo ở các xã thuộc vùng dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên còn tương đối cao so với tổng số hộ dân. Mặc dù chiếm tỷ lệ khá thấp trong tổng số hộ dân nhưng số lượng và tỷ lệ hộ nghèo, hộ cận nghèo ở các xã thuộc vùng dân tộc thiểu số lại chiếm tỷ lệ cao trong tổng số hộ nghèo, hộ cận nghèo của toàn khu vực và của từng địa phương. Có thể thấy qua bảng 2 dưới đây:
Bảng 2. Số lượng và tỷ lệ hộ nghèo, hộ cận nghèo ở các xã thuộc vùng dân tộc thiểu số khu vực Tây Nguyên giai đoạn 2017 – 2023
TT | Tỉnh | Năm 2017 | Năm 2023 | ||||
Tổng số hộ nghèo và cận nghèo | Số hộ nghèo và cận nghèo ở các xã dân tộc thiểu số | Tỷ lệ % | Tổng số hộ nghèo và cận nghèo | Số hộ nghèo và cận nghèo ở ở các xã dân tộc thiểu số | Tỷ lệ % | ||
1 | Đắk Lắk | 109.660 | 109.660 | 100,0 | 80.376 | 54.678 | 68,02 |
2 | Đắk Nông | 35.780 | 35.780 | 100,0 | 20.035 | 15.796 | 78,84 |
3 | Gia Lai | 78.746 | 78.746 | 100,0 | 67.251 | 50.175 | 74,6 |
4 | Kon Tum | 34.552 | 34.552 | 100,0 | 16.788 | 13.930 | 82,97 |
5 | Lâm Đồng | 27.435 | 27.435 | 100,0 | 11.345 | 8.997 | 79,3 |
Toàn khu vực | 286.123 | 286.123 | 100,0 | 198.795 | 143.576 | 73,32 |
Từ bảng 2, cho thấy, số lượng và tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo ở các xã thuộc vùng dân tộc thiểu số tại khu vực Tây Nguyên vẫn còn rất cao. Đây là khu vực tập trung nghèo, đói chủ yếu của từng địa phương và toàn khu vực. Ở cả 5 tỉnh, tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo đều ở mức cao, trung bình lên đến 73,32%. Ngay cả địa phương đạt nhiều kết quả khả quan trong giảm nghèo ở vùng dân tộc thiểu số như Lâm Đồng thì tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo ở các xã thuộc vùng dân tộc thiểu số của địa phương này cũng lên đến 79,3%. Điều này có nghĩa là nghèo, đói đang tập trung phần lớn ở vùng dân tộc thiểu số, nơi mà công tác giảm nghèo bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố.
Theo báo cáo kết quả giảm nghèo ở các huyện nghèo thuộc các tỉnh khu vực Tây Nguyên cũng đạt được những kết quả tích cực, song tình trạng nghèo ở các địa phương này vẫn rất đáng lo ngại. Theo quy định của Chính phủ, giai đoạn 2017 -2025, toàn khu vực có 10 huyện nghèo. Tỉnh Kon Tum có 3 huyện nghèo gồm Kon Plông, Tu Mơ Rông và Ia H’Drai; tỉnh Gia Lai có 1 huyện nghèo là Krông Chro; tỉnh Lâm Đồng có 1 huyện nghèo là Đam Rông; tỉnh Đắk Lắk có 3 huyện nghèo gồm Lắk, M’Drắk, Ea Sup; tỉnh Đắk Nông có 2 huyện nghèo là Đắk Glong và Tuy Đức. Tình trạng nghèo ở các huyện nghèo thuộc khu vực Tây Nguyên vẫn còn khá cao. Tính đến năm 2023, tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo của một số huyện vẫn rất cao: huyện M’Dắk (43,56%), huyện Ea Súp (53,82%); huyện Krông Chro (48,46%), huyện Tu Mơ Rông (35,14%)8. Lâm Đồng chỉ có 1 huyện nghèo và đã không còn nằm trong danh sách huyện nghèo từ năm 2021, trong khi đó Kon Tum có 3 huyện nghèo từ năm 2016 nhưng đến năm 2023 không giảm được huyện nào; Đắk Nông có 2 huyện nghèo và đến năm 2023, vẫn còn nguyên 2 huyện nghèo. Đắk Lắk có 2 huyện nghèo năm 2017, đến năm 2021 có 1 huyện đã cải thiện tình trạng nghèo và ra khỏi danh sách huyện nghèo (huyện Lắk) nhưng lại bổ sung thêm 1 huyện vào danh sách huyện nghèo (huyện Ea Súp).
Trong giai đoạn 2017 – 2023, nhờ các chính sách giảm nghèo của Nhà nước, khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của hộ nghèo nói chung và hộ nghèo vùng dân tộc thiểu số ở khu vực nói riêng ngày càng được cải thiện. Mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của hộ nghèo ở các xã thuộc vùng dân tộc thiểu số Tây Nguyên giảm dần. Tuy nhiên, mức độ thiếu hụt của hộ nghèo đối với một số loại dịch vụ xã hội cơ bản vẫn còn khá cao, như: việc làm, tỷ lệ người phụ thuộc, bảo hiểm y tế. Tình trạng thiếu việc làm của hộ nghèo, hộ cận nghèo thuộc vùng dân tộc thiểu số khu vực Tây Nguyên rất chậm được cải thiện. Năm 2022, có đến 59.883 hộ nghèo, hộ cận nghèo thiếu hụt việc làm; năm 2023 có 50.548 hộ nghèo, cận nghèo thiếu việc làm9.
Chỉ số về số người phụ thuộc trong hộ gia đình cũng là một tiêu chí đo lường về mức độ thiếu hụt các dịch vụ xã hội cơ bản của hộ nghèo, hộ cận nghèo trong giai đoạn 2022 – 2025. Kết quả thống kê cho thấy, số lượng người phụ thuộc trong hộ gia đình của hộ nghèo, hộ cận nghèo thuộc vùng dân tộc thiểu số khu vực Tây Nguyên giảm rất chậm, vẫn ở mức cao và không đồng đều giữa các tỉnh trong khu vực. Một số địa phương như Đắk Nông có tỷ lệ người phụ thuộc trong hộ gia đình của hộ nghèo, hộ cận nghèo lên đến 67,14% năm 2022 và tăng lên 71,78% năm 2023. Kon Tum là địa phương có tỷ lệ người phụ thuộc thấp nhất trong khu vực. Các tỉnh khác có tỷ lệ người phụ thuộc của hộ nghèo, hộ cận nghèo trung bình trên 50%10.
Khả năng tiếp cận dịch vụ y tế của hộ nghèo, hộ cận nghèo ở vùng dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên chưa được cải thiện nhiều. Số lượng và tỷ lệ hộ nghèo, hộ cận nghèo thiếu hụt về tiếp cận các dịch vụ y tế ở cả 5 tỉnh đều cao. Đắk Lắk và Gia Lai là hai địa phương có số lượng hộ nghèo, hộ cận nghèo thiếu hụt bảo hiểm y tế cao hơn các tỉnh còn lại. Tỷ lệ hộ nghèo, hộ cận nghèo thiếu hụt bảo hiểm y tế cao nhất là Lâm Đồng (lần lượt là 77,71% và 77,25%)11. Các tỉnh còn lại như Đắk Nông, Kon Tum cũng có tỷ lệ hộ nghèo, hộ cận nghèo thiếu hụt tiếp cận dịch vụ bảo hiểm y tế ở mức cao.
3. Một số vấn đề đặt ra
Từ thực trạng trên, có thể thấy một số vấn đề đặt ra, đòi hỏi Nhà nước nói chung và chính quyền các tỉnh Tây Nguyên nói riêng cần quan tâm giải quyết nhằm góp phần giảm nghèo bền vững đối với vùng dân tộc thiểu số khu vực này như sau:
Một là, nghèo tập trung chủ yếu ở vùng dân tộc thiểu số, số lượng hộ nghèo ở vùng dân tộc thiểu số giảm chậm, tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số trong tổng số hộ nghèo ngày càng gia tăng. Ranh giới giữa hộ nghèo và hộ cận nghèo rất mong manh. Để nâng cao khả năng thoát nghèo bền vững cần phải tăng cường các yếu tố quan trọng thúc đẩy việc thoát nghèo, như: bản thân các hộ dân tộc thiểu số cần nỗ lực, cố gắng để thoát nghèo; có sự định hướng, hỗ trợ từ phía Nhà nước đối với các hộ dân tộc thiểu số trong việc thoát nghèo. Bối cảnh xã hội mới cũng đòi hỏi Nhà nước nói chung và các cấp chính quyền tại các tỉnh khu vực Tây Nguyên cần nỗ lực hơn nữa trong hoạt động thiết kế, ban hành, tổ chức quản lý, thực thi các chính sách giảm nghèo, bảo đảm có thể góp phần giúp hộ nghèo dân tộc thiểu số vươn lên thoát nghèo bền vững.
Hai là, tình trạng nghèo vùng dân tộc thiểu số và di cư tự do vẫn là những vấn đề đáng lo ngại ở khu vực Tây Nguyên. Do hậu quả của đói, nghèo cộng với sự thiếu hiểu biết, bị kẻ xấu lợi dụng, lôi kéo dẫn đến sự phản ứng tiêu cực của một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số đối với chính quyền. Các sự kiện bạo loạn năm 2001, 2004 và gần đây nhất là sự kiện khủng bố vào tháng 6/2023 tại Đắk Lắk cho thấy giải quyết vấn đề nghèo đói không chỉ xuất phát từ yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội mà còn từ yêu cầu chính trị.
Ba là, nghèo ở vùng dân tộc thiểu số có xu hướng dịch chuyển từ thiếu hụt các dịch vụ xã hội cơ bản sang nghèo về thu nhập. Sở dĩ có tình trạng này là do thu nhập của các hộ nghèo dân tộc thiểu số hiện nay chủ yếu vẫn dựa vào nông nghiệp là chính. Nền kinh tế ngày càng đòi hỏi đội ngũ lao động có tay nghề nhất định song lao động của các hộ nghèo vùng dân tộc thiểu số đa phần chưa qua đào tạo nên rất khó chuyển sang các lĩnh vực phi nông nghiệp. Giá cả tăng cao trong khi thu nhập không cải thiện làm cho các hộ nghèo dân tộc thiểu số tăng chi tiêu với thu nhập không đổi (thực tế thu nhập giảm). Song song với đó, nhiều chương trình giảm nghèo được triển khai đã tác động lên mọi mặt đời sống của người nghèo, khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản cũng được cải thiện đáng kể. Từ đó, cơ cấu hộ nghèo dân tộc thiểu số đang dịch chuyển từ thiếu hụt các dịch vụ xã hội cơ bản sang nghèo thu nhập.
Bốn là, sức ỳ, tính ỷ lại của hộ nghèo vùng dân tộc thiểu số vẫn là rào cản lớn cần tháo gỡ để bảo đảm đạt mục tiêu giảm nghèo bền vững tại Tây Nguyên. Trong thời gian tới, chính quyền cần chú trọng nâng cao ý thức thoát nghèo, giảm dần bao cấp và tiến tới loại bỏ tâm lý ỷ lại, trông chờ, giúp đồng bào dân tộc thiểu số chủ động thoát nghèo. Các chính sách và giải pháp giảm nghèo trong thời gian tới cần chuyển dần từ hỗ trợ trực tiếp dưới các hình thức cấp phát, cho không, bao cấp sang hỗ trợ gián tiếp như đào tạo nghề, phát triển giáo dục, khuyến nông, chuyển từ hỗ trợ đầu vào sang hỗ trợ phát triển chuỗi giá trị sản phẩm hiệu quả.
Năm là, cơ sở hạ tầng vùng dân tộc thiểu số tại Tây Nguyên nghèo nàn, chưa đáp ứng nhu cầu phát triển sản xuất và đời sống của người dân và cần nỗ lực hơn nữa để tạo điều kiện cho các hộ dân tộc thiểu số thoát nghèo. Việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng ở vùng dân tộc thiểu số vừa là vấn đề cơ bản, lâu dài vừa mang tính cấp bách nhằm giải quyết các khó khăn về sự thiếu hụt các hạng mục cơ sở hạ tầng thiết yếu. Các hạng mục cơ sở hạ tầng ở vùng dân tộc thiểu số cần được ưu tiên đầu tư xây dựng và hiện đại hóa gồm giao thông, thủy lợi, thông tin liên lạc, trường học, điện. Trong đó, trước hết cần ưu tiên đầu tư xây dựng, nâng cấp hệ thống giao thông, hệ thống thông tin liên lạc để kết nối vùng dân tộc thiểu số với vùng phát triển, rút ngắn khoảng cách chênh lệch về thu nhập cũng như đời sống văn hóa, tinh thần giữa các vùng khó khăn với các vùng phát triển.
Sáu là, sản xuất nông nghiệp vẫn là sinh kế chủ yếu của người nghèo dân tộc thiểu số tại Tây Nguyên. Do đó, trong thời gian tới cần quan tâm cung cấp các dịch vụ nghiên cứu nông nghiệp, dịch vụ khuyến nông, khuyến lâm, thú y, bảo vệ thực vật, gắn kết giữa sản xuất và thị trường; đồng thời, cung cấp dịch vụ tài chính, tín dụng cho hộ nghèo. Mô hình sinh kế cho giảm nghèo xác định trên cơ sở nhu cầu và năng lực của người thụ hưởng. Các giải pháp nhân rộng mô hình hỗ trợ sinh kế cho giảm nghèo nên được xác định trên cơ sở nhu cầu, năng lực của người thụ hưởng. Một mô hình sinh kế cho người nghèo cần bảo đảm các yêu cầu phù hợp với nhu cầu và năng lực tiếp nhận của người nghèo; yếu tố kỹ thuật (cây, con giống, sinh trưởng tốt, cho năng suất cao hơn cách làm cũ); hiệu quả về mặt tài chính (bán được, có lãi, lãi đủ để tái đầu tư).
4. Kết luận
Thực trạng nghèo tại Tây Nguyên tập trung chủ yếu và đang có xu hướng gia tăng ở các nhóm đồng bào dân tộc thiểu số. Do vậy, đòi hỏi các cấp chính quyền tại Tây Nguyên cần nỗ lực hơn nữa trong hoạt động thiết kế, ban hành, tổ chức quản lý, thực thi các quy định pháp lý, các chính sách giảm nghèo, bảo đảm có thể giúp hộ nghèo dân tộc thiểu số vươn lên thoát nghèo bền vững, góp phần thực hiện thành công Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 – 2030.
Chú thích:
1. Thủ tướng Chính phủ (2021). Quyết định số 861/QĐ-TTg ngày 04/6/2021 phê duyệt danh sách các xã khu vực III, Khu vực II, Khu vực I thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2026 – 2020 và giai đoạn 2021 – 2025.
2. Thủ tướng Chính phủ (2017). Quyết định số 582/QĐ-TTg ngày 28/4/2017 và Quyết định số 612/QĐ-TTg ngày 16/9/2021 phê duyệt danh sách thôn đặc biệt khó khăn, xã khu vực III, khu vực II, khu vực I thuộc vùng dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2016 – 2020.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập II. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 71.
4. Tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số là tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số so với tổng số hộ nghèo. Nói cách khác, tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số = hộ nghèo dân tộc thiểu số/tổng số hộ nghèo.
5. Tỷ lệ hộ dân tộc thiểu số nghèo = tỷ lệ hộ dân tộc thiểu số nghèo và cận nghèo/tổng số hộ dân tộc thiểu số.
6, 7, 8. Tính toán từ số liệu tại Quyết định số 862/QĐ-BLĐTBXH ngày 04/7/2018; Quyết định số 134/QĐ-BLĐTBXH ngày 31/01/2024 của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội về công bố kết quả rà soát hộ nghèo, cận nghèo các năm 2017 và 2023.
9, 10, 11. Bộ Lao động Thương binh và Xã hội (2023, 2024). Quyết định số 71/QĐ-LĐTBXH ngày 19/01/2023 và Quyết định số 134/QĐ-BLĐTBXH ngày 31/01/2024 công bố kết quả rà soát hộ nghèo, cận nghèo các năm 2022 và 2023.