Thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững tại các tỉnh Nam Trung Bộ 

ThS. Nguyễn Thị Lệ Hằng
Trường Chính trị tỉnh Khánh Hoà

(Quanlynhanuoc.vn) – Nghiên cứu đánh giá thực trạng những kết quả đạt được và tồn tại, hạn chế, đồng thời đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả triển khai chính sách giảm nghèo trong khu vực Nam Trung Bộ, cụ thể là tại các tỉnh: Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận và Bình Thuận. Kết quả nghiên cứu không chỉ góp phần vào việc hoàn thiện chính sách ở địa phương mà còn cung cấp cơ sở thực tiễn cho việc xây dựng chiến lược giảm nghèo bền vững ở các vùng có đặc thù tương tự trên phạm vi cả nước.

Từ khóa: Giảm nghèo bền vững; thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững; Nam Trung bộ.

1. Đặt vấn đề

Giảm nghèo bền vững là một trong những mục tiêu quan trọng hàng đầu của sự phát triển kinh tế – xã hội, đồng thời, cũng là thước đo phản ánh sự tiến bộ và công bằng trong một quốc gia. Ở Việt Nam, trong bối cảnh chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách nhằm giảm nghèo, từng bước cải thiện đời sống Nhân dân và thu hẹp khoảng cách giàu nghèo giữa các vùng miền.

Khu vực Nam Trung Bộ, với đặc điểm địa hình đa dạng gồm cả vùng ven biển, đồng bằng và miền núi, là khu vực có tiềm năng phát triển kinh tế lớn. Tuy nhiên, đây cũng là vùng đối mặt với nhiều thách thức trong giảm nghèo bền vững. Các yếu tố, như: thiên tai, biến đổi khí hậu, sự chênh lệch về kinh tế – xã hội và khả năng tiếp cận nguồn lực phát triển chưa đồng đều đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả thực hiện chính sách giảm nghèo. Một số tỉnh trong khu vực đã đạt được những kết quả tích cực, song tình trạng tái nghèo vẫn còn tồn tại, đặc biệt tại các khu vực miền núi, ven biển và nơi có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. Chính vì vậy, nghiên cứu thực trạng và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững tại các tỉnh Nam Trung Bộ là rất cần thiết hiện nay.

2. Chủ trương của các tỉnh Nam Trung Bộ về thực hiện giảm nghèo bền vững

Các tỉnh Nam Trung Bộ, bao gồm: Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận và Bình Thuận đã và đang thực hiện nhiều chủ trương quan trọng nhằm giảm nghèo bền vững, gắn với các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội. Đây là khu vực có địa hình đa dạng với đồng bằng ven biển, miền núi và hải đảo cùng đặc điểm dân cư phong phú, bao gồm nhiều dân tộc thiểu số. Những yếu tố này vừa mang lại tiềm năng phát triển, vừa đặt ra thách thức trong việc bảo đảm giảm nghèo bền vững. 

Thực hiện Nghị quyết số 24/2021/QH15 ngày 28/7/2021 của Quốc hội về phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 – 2025; Quyết định số 90/QĐ-TTg ngày 18/01/2022 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 – 2025; Quyết định số 24/2021/QĐ-TTg ngày 16/7/2021 của Thủ tướng Chính phủ ban hành quy trình rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo hằng năm và quy trình xác định hộ làm nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và diêm nghiệp có mức sống trung bình giai đoạn 2022 – 2025…

Theo đó, các tỉnh Nam Trung Bộ đã kịp thời ban hành các văn bản chỉ đạo thực hiện. Cụ thể: UBND tỉnh Khánh Hòa đã ban hành Kế hoạch số 9209/KH-UBND ngày 28/9/2022 về thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững tỉnh Khánh Hòa giai đoạn 2021 – 2025; Kế hoạch số 890/KH-UBND ngày 07/3/2022 của UBND tỉnh Ninh Thuận về triển khai thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững tỉnh Ninh Thuận giai đoạn 2021-2025; Kế hoạch số 4424/KH-UBND ngày 19/11/2021 của UBND tỉnh Bình Thuận về thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 – 2025… 

Hằng năm, các tỉnh Nam Trung Bộ đều ban hành các kế hoạch thực hiện công tác giảm nghèo trên địa bàn các tỉnh. Nhìn chung, chủ trương giảm nghèo bền vững của các tỉnh Nam Trung Bộ được xây dựng dựa trên sự kết hợp giữa lý luận và thực tiễn gắn với đặc thù của từng địa phương. Những nỗ lực này không chỉ giúp cải thiện đời sống người dân mà còn tạo động lực phát triển kinh tế – xã hội, hướng tới mục tiêu giảm nghèo bền vững và toàn diện trong khu vực.

3. Thực trạng thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững tại các tỉnh Nam Trung Bộ

a. Kết quả đạt được

Những năm qua, các tỉnh Nam Trung Bộ, như: Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận và Bình Thuận đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ trong việc thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững. Những kết quả này không chỉ thể hiện sự nỗ lực của chính quyền địa phương và Nhân dân mà còn phản ánh hiệu quả của các chủ trương, chính sách đúng đắn, phù hợp với điều kiện thực tiễn của khu vực.

Một là, tỷ lệ hộ nghèo giảm rõ rệt. Theo báo cáo của các địa phương, tỷ lệ hộ nghèo và hộ cận nghèo tại các tỉnh Nam Trung Bộ đã giảm đáng kể qua từng năm. Tính đến năm 2024, nhiều huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn trong khu vực đã thoát khỏi tình trạng nghèo đói nhờ các chương trình hỗ trợ và phát triển kinh tế. Cụ thể:

Bảng 1Tỷ lệ hộ nghèo và hộ cận nghèo tại các tỉnh Nam Trung Bộ tính đến tháng 12/2024

TỉnhSố hộ nghèoTỷ lệ (%)Hộ cận nghèoTỷ lệ (%)
Phú Yên8.4813,22%17.6916,72
Khánh Hòa4.6941,32%12.6573,66%
Ninh Thuận4.9712,6%7.4403,89
Bình Thuận5.2101,54%9.9952,97%
(Nguồn: Tác giả tổng hợp từ Báo cáo của Ban Chỉ đạo Chương trình giảm nghèo bền vững các tỉnh Nam Trung Bộ)

Như vậy, tỉnh Khánh Hòa ghi nhận tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 6,45% (năm 2016) xuống dưới 1,32% (năm 2024); trong khi Phú Yên, Ninh Thuận và Bình Thuận cũng đạt được những kết quả tương tự nhờ triển khai đồng bộ các chính sách giảm nghèo đa chiều. 

Hai là, hạ tầng kinh tế – xã hội tại vùng khó khăn được cải thiện. Chính quyền các tỉnh Nam Trung Bộ đã ưu tiên đầu tư mạnh mẽ vào hạ tầng kinh tế – xã hội ở các khu vực nghèo, bao gồm hệ thống giao thông, điện, nước sạch và trường học. Những dự án, như: xây dựng đường giao thông nông thôn, kênh mương thủy lợi và trạm y tế đã tạo điều kiện thuận lợi cho người dân phát triển kinh tế và nâng cao chất lượng cuộc sống. Đặc biệt, chương trình xây dựng nông thôn mới đã giúp cải thiện diện mạo của nhiều địa phương, nâng cao khả năng tiếp cận các dịch vụ công của người dân. 

Theo báo cáo của Ủy ban nhân dân tỉnh Khánh Hòa: “Tại các huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn, vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo của tỉnh Khánh Hòa cũng được hỗ trợ đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng – kinh tế xã hội liên kết vùng, phục vụ dân sinh, sản xuất thương mại, lưu thông hàng hóa và cung cấp các dịch vụ xã hội cơ bản; ưu tiên đầu tư cơ sở hạ tầng thiết yếu gồm đường giao thông, trường học, cơ sở y tế, cầu, hạ tầng điện, công trình thủy lợi”1. Tỉnh Ninh Thuận đã: “đầu tư 29 công trình hạ tầng thiết yếu phục vụ sản xuất, dân sinh, như: giao thông, thủy lợi, điện, trường học, y tế, nước sinh hoạt,… Đối tượng thụ hưởng là người dân thuộc huyện Bác Ái và Nhân dân thuộc xã bãi ngang Phước Dinh”2.

Ba là, phát triển sinh kế gắn với đặc thù địa phương.  Các tỉnh Nam Trung Bộ đã triển khai thành công nhiều chương trình hỗ trợ sinh kế cho các hộ nghèo, tập trung vào phát huy thế mạnh của từng địa phương. Tại Bình Thuận và Ninh Thuận, các dự án nuôi trồng thủy sản, phát triển nghề muối và trồng cây công nghiệp, như: nho, táo đã giúp người dân tăng thu nhập ổn định. Ở Phú Yên, chương trình phát triển nông nghiệp hữu cơ, kết hợp với chăn nuôi gia súc đã mang lại hiệu quả kinh tế cao, “tổ chức thực hiện 54 dự án hỗ trợ phát triển sản xuất nông nghiệp… với tổng số hộ tham gia là 353 hộ, trong đó có 120 hộ nghèo, 204 hộ cận nghèo và 29 hộ mới thoát nghèo. Tổng kinh phí thực hiện là 11.507 triệu đồng”3. Ngoài ra, nhiều địa phương đã tổ chức đào tạo nghề, chuyển giao công nghệ và hỗ trợ vay vốn ưu đãi giúp các hộ nghèo vươn lên thoát nghèo bền vững.

Bốn là, chất lượng giáo dục và y tế được cải thiện và nâng cao. Nhờ chính sách hỗ trợ học phí, cấp học bổng và xây dựng trường học, tỷ lệ trẻ em nghèo được đến trường tại các tỉnh Nam Trung Bộ đã tăng lên đáng kể. Thực hiện Nghị định số 86/2015/NĐ-CP ngày 02/10/2015 của Chính phủ quy định về cơ chế thu, quản lý học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân và chính sách miễn giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập từ năm học 2020 – 2021 và Nghị định số 145/2018/NĐ-CP ngày 16/10/2018 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 86/2015/NĐ-CP ngày 02/10/2015… các tỉnh Nam Trung Bộ đã thực hiện chính sách miễn giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập theo Nghị định số 81/2021/NĐ-CP ngày 27/8/2021 và Thông tư liên tịch số 09/2016/TTLT-BGDĐTBTC-BLĐTBXH ngày 30/3/2016 của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Tài chính, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội cho nên kết quả hỗ trợ tiền chi phí học tập, cấp bù học phí cho học sinh thuộc diện hộ nghèo, hộ cận nghèo được kịp thời.

Bên cạnh đó, các chương trình chăm sóc sức khỏe, cấp thẻ bảo hiểm y tế miễn phí cho người nghèo đã cải thiện rõ rệt chất lượng đời sống và khả năng tiếp cận dịch vụ y tế của người dân. Tại tỉnh Phú Yên, trong năm 2023, đã: “cấp 16.257 thẻ bảo hiểm y tế cho người nghèo; 33.676 thẻ bảo hiểm y tế cho người thuộc hộ cận nghèo; 39.525 thẻ bảo hiểm y tế cho người thuộc hộ gia đình nông, lâm, ngư, diêm nghiệp có mức sống trung bình (trong đó ngân sách địa phương đã hỗ trợ 7.000 triệu đồng). Ngoài ra, đã cấp cho 47.210 thẻ bảo hiểm y tế cho người dân sống ở vùng đặc biệt khó khăn và người dân tộc thiểu số. Giúp cho người nghèo, cận nghèo, người dân tộc thiểu số và người dân có mức sống trung bình được tiếp cận dịch vụ khám, chữa bệnh ban đầu”4.

Các tỉnh Nam Trung Bộ đã chú trọng hỗ trợ các nhóm yếu thế, như: đồng bào dân tộc thiểu số, phụ nữ, trẻ em nghèo. Các chính sách đặc thù dành cho đồng bào dân tộc thiểu số ở Ninh Thuận, Bình Thuận hay Phú Yên đã giúp giảm thiểu chênh lệch về kinh tế và xã hội giữa các nhóm dân cư, đồng thời thúc đẩy hòa nhập và phát triển bền vững. Những chính sách này đặc biệt có ý nghĩa ở vùng sâu, vùng xa, nơi điều kiện giáo dục và y tế còn nhiều hạn chế.  

Năm là, việc huy động hiệu quả nguồn lực xã hội trong thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững tại các tỉnh Nam Trung Bộ được chú trọng. Các chính sách, dự án giảm nghèo được Trung ương bố trí ngân sách hằng năm, trên cơ sở đó địa phương bố trí ngân sách địa phương theo quy định và huy động các nguồn khác để thực hiện các dự án chính sách đầy đủ, kịp thời, chăm lo đời sống cho các đối tượng khó khăn, nhất là người nghèo, người cận nghèo và hộ mới thoát nghèo và tạo được sự chuyển biến cơ bản về nhận thức, phương thức thực hiện các chính sách hỗ trợ an sinh xã hội. 

Đồng thời, các tỉnh Nam Trung Bộ đã thành công trong việc huy động các nguồn lực từ ngân sách nhà nước, doanh nghiệp, tổ chức phi chính phủ và sự đóng góp của cộng đồng để thực hiện các chương trình giảm nghèo. Nhiều doanh nghiệp lớn đã tham gia tài trợ, đầu tư vào các dự án phát triển kinh tế – xã hội tại khu vực, trong khi các tổ chức quốc tế hỗ trợ kỹ thuật và nguồn vốn để thực hiện các chương trình giảm nghèo bền vững. Nhiều dự án xây dựng nhà ở chống bão, phát triển hệ thống cảnh báo sớm và bảo vệ môi trường đã được triển khai, giúp giảm nguy cơ tái nghèo do thiên tai.

Sáu là, ý thức tự vươn lên tự thoát nghèo của người dân được nâng cao. Một trong những thành công lớn là sự thay đổi trong nhận thức của người dân về vai trò tự thân trong việc thoát nghèo. Các chương trình giảm nghèo không chỉ hỗ trợ vật chất mà còn giúp người dân nhận thức được giá trị của việc chủ động tìm kiếm cơ hội phát triển. Nhiều hộ gia đình đã thoát nghèo và vươn lên trở thành những điển hình tiêu biểu về phát triển kinh tế ở địa phương.

Có được những kết quả trên, ngoài việc triển khai hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, các tỉnh Nam Trung Bộ đã kịp thời ban hành nhiều chính sách về giảm nghèo, an sinh xã hội, như: chính sách bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội tự nguyện, nhà ở cho hộ nghèo, hộ cận nghèo, quy định mức chuẩn trợ giúp xã hội… Trong quá trình triển khai thực hiện công tác giảm nghèo, cấp ủy, chính quyền các cấp tại các tỉnh Nam Trung Bộ đã lồng ghép với kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội hằng năm và giai đoạn 2021 – 2025. Bên cạnh đó, lồng ghép chặt chẽ việc thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững; Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới; Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Từ nguồn ngân sách trung ương hỗ trợ, địa phương đối ứng và huy động các nguồn lực khác đã cơ bản đáp ứng nhu cầu triển khai thực hiện các tiêu chí thiếu hụt của hộ nghèo, huyện nghèo trên địa bàn các tỉnh Nam Trung Bộ.

b. Những hạn chế, tồn tại

(1) Tỷ lệ hộ cận nghèo ở các tỉnh Nam Trung Bộ vẫn còn khá cao, đặc biệt là ở các khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa. Các hộ cận nghèo, dù không thuộc diện nghèo theo chuẩn quốc gia nhưng vẫn gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống, thiếu thốn về tài chính, việc làm ổn định và khả năng tiếp cận các dịch vụ công.

(2) Tình trạng thiếu hụt và chất lượng hạ tầng còn yếu kém tại một số khu vực nghèo khó, đặc biệt là các xã miền núi và hải đảo. Hệ thống giao thông, nước sạch, điện và trường học ở nhiều nơi chưa được cải thiện đầy đủ, khiến người dân khó tiếp cận các dịch vụ thiết yếu.

(3) Việc khai thác tiềm năng trong phát triển kinh tế còn hạn chế (tại Ninh Thuận và Bình Thuận, mặc dù có lợi thế về nông nghiệp và thủy sản nhưng vẫn còn thiếu các mô hình sản xuất bền vững, ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất để nâng cao giá trị gia tăng). Một số dự án phát triển kinh tế dù được triển khai nhưng thiếu đồng bộ giữa các ngành, chưa tạo được sức lan tỏa mạnh mẽ, khiến người dân chưa có đủ điều kiện để thoát nghèo một cách bền vững. 

(4) Sự thiếu chủ động của cộng đồng và các tổ chức xã hội trong việc tham gia vào quá trình giảm nghèo. Mặc dù có sự quan tâm của chính quyền nhưng nhiều người dân vẫn chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của việc thoát nghèo và tự vươn lên. Các chương trình tuyên truyền, giáo dục về giảm nghèo chưa thực sự hiệu quả, khiến người dân ở nhiều khu vực vẫn còn phụ thuộc vào các chính sách hỗ trợ mà chưa có ý thức thay đổi cách thức sản xuất và sinh sống. 

(5) Công tác quản lý và giám sát chưa chặt chẽ. Nhiều dự án hỗ trợ giảm nghèo chưa được đánh giá và điều chỉnh kịp thời, dẫn đến sự phân bổ nguồn lực không hợp lý và không đúng đối tượng. Việc thiếu sót trong việc theo dõi tiến độ thực hiện chính sách cũng như chưa có hệ thống đánh giá đầy đủ về hiệu quả của các chương trình giảm nghèo đã khiến cho một số chính sách không thực sự phát huy tác dụng như kỳ vọng. 

4. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững tại các tỉnh Nam Trung Bộ hiện nay

Thứ nhất, tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức và trách nhiệm của cộng đồng đối với công tác giảm nghèo tại các tỉnh Nam Trung Bộ. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền qua các phương tiện truyền thông đại chúng, như: truyền hình, đài phát thanh, báo chí và các trang mạng xã hội. Các cơ quan thông tin cần phối hợp với các tổ chức đoàn thể, chính quyền địa phương để đưa thông tin kịp thời đến với người dân, nhất là ở các vùng sâu, vùng xa. 

Đồng thời, tổ chức các buổi tọa đàm, hội thảo, diễn đàn về giảm nghèo tại các địa phương, tạo cơ hội để người dân trao đổi, học hỏi kinh nghiệm và nhận thức sâu hơn về các vấn đề liên quan đến công tác giảm nghèo. Các sự kiện này có thể được tổ chức dưới hình thức mở, mời các chuyên gia, nhà quản lý cũng như các hộ nghèo thành công chia sẻ kinh nghiệm và cách thức vượt qua khó khăn. Các cơ quan nhà nước và tổ chức xã hội có thể giới thiệu các chính sách mới, hỗ trợ trực tiếp cho các hộ nghèo. Chính quyền địa phương cần tổ chức các lớp đào tạo, tập huấn về kỹ năng sống, kiến thức pháp luật, kiến thức về các chính sách giảm nghèo và chuyển giao công nghệ cho người dân. Cộng đồng cần được trang bị kiến thức để hiểu rõ hơn về tầm quan trọng của việc thoát nghèo bền vững, từ đó chủ động tham gia vào các chương trình giảm nghèo cũng như cải thiện phương thức sản xuất và sinh kế của mình.

Thứ hai, tăng cường đầu tư vào hạ tầng cơ sở. Chính quyền các tỉnh Nam Trung Bộ cần ưu tiên phát triển hệ thống giao thông, điện, nước sạch, các cơ sở y tế, giáo dục ở những vùng nghèo, vùng sâu, vùng xa. Việc cải thiện hạ tầng không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho người dân trong việc sinh sống và phát triển kinh tế mà còn góp phần giảm thiểu rủi ro thiên tai và biến đổi khí hậu. Các chính sách khuyến khích đầu tư công và tư vào các dự án hạ tầng sẽ giúp thu hút nguồn lực, đồng thời tạo ra việc làm cho người dân địa phương. Tập trung ưu tiên nguồn lực đầu tư vào hạ tầng cơ sở và các chính sách an sinh xã hội, bảo đảm người nghèo và hộ nghèo có cơ hội tiếp cận và nhận được hỗ trợ các dịch vụ xã hội cơ bản.

Thứ ba, đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả ứng dụng khoa học – công nghệ vào sản xuất. Các tỉnh Nam Trung Bộ cần triển khai các chương trình đào tạo nghề gắn với nhu cầu thực tế của thị trường lao động, đồng thời tăng cường ứng dụng khoa học – công nghệ trong sản xuất nông nghiệp, thủy sản và công nghiệp chế biến. Các mô hình nông nghiệp thông minh, canh tác hữu cơ, sản xuất sạch sẽ là những hướng đi phù hợp, giúp nâng cao giá trị gia tăng cho sản phẩm nông sản, tạo ra thu nhập ổn định cho hộ nghèo. Chính quyền địa phương cần phối hợp với các viện nghiên cứu và doanh nghiệp để đưa khoa học – công nghệ vào các khu vực nghèo, giúp người dân tiếp cận các phương thức sản xuất tiên tiến, giảm chi phí và tăng hiệu quả.

Thứ tư, khuyến khích phát triển các mô hình sinh kế bền vững. Bên cạnh việc hỗ trợ người dân bằng các hình thức trợ cấp, chính quyền các tỉnh Nam Trung Bộ cần đẩy mạnh phát triển các mô hình sinh kế bền vững, dựa trên lợi thế đặc thù của từng vùng. Chẳng hạn, đối với các tỉnh có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho phát triển du lịch, chẳng hạn ở Khánh Hòa cần triển khai các mô hình du lịch cộng đồng, tạo cơ hội việc làm và thu nhập cho người dân địa phương. Các mô hình sản xuất, chế biến nông sản sạch, thủy sản bền vững cũng cần được chú trọng phát triển. Việc kết hợp phát triển các ngành nghề phi nông nghiệp, đặc biệt là thủ công mỹ nghệ, dịch vụ, du lịch cũng sẽ tạo ra cơ hội việc làm đa dạng cho người dân nghèo.

Thứ năm, tăng cường sự phối hợp giữa các cấp chính quyền và các tổ chức xã hội. Cần xây dựng cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa các cấp chính quyền, các tổ chức xã hội, doanh nghiệp và cộng đồng để thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững. Các tổ chức đoàn thể, tổ chức xã hội và doanh nghiệp có thể đóng góp nguồn lực, hỗ trợ các mô hình sản xuất, tạo việc làm và cung cấp các dịch vụ thiết yếu cho cộng đồng nghèo. Đồng thời, tăng cường sự giám sát và đánh giá việc thực hiện các chính sách, bảo đảm tính công bằng và minh bạch trong việc phân bổ nguồn lực hỗ trợ cho các hộ nghèo.

Thứ sáu, xây dựng hệ thống giám sát và đánh giá hiệu quả chính sách. Một trong những giải pháp quan trọng để nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững là xây dựng một hệ thống giám sát và đánh giá rõ ràng và minh bạch. Các tỉnh Nam Trung Bộ cần thiết lập các cơ chế giám sát hiệu quả đối với các chương trình hỗ trợ giảm nghèo, bao gồm việc theo dõi tiến độ thực hiện và đánh giá kết quả cụ thể. Các số liệu về tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo và mức độ tiếp cận các dịch vụ công cần được thu thập và công khai để bảo đảm chính sách được thực hiện đúng đối tượng và mang lại hiệu quả thiết thực.

Chú thích:
1. Ủy ban nhân dân tỉnh Khánh Hòa (2023). Báo cáo số 31/BC-UBND ngày 10/02/2023 về việc triển khai thực hiện các nghị quyết của Quốc hội về các chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 – 2025, giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 – 2025, phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 – 2025.
2. Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Ninh Thuận (2024). Tài liệu phục vụ họp Ban chỉ đạo các Chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2021 – 2025.
3, 4. Sở Lao động, Thương binh và Xã hội tỉnh Phú Yên (2024). Báo cáo số 25/BC-SLĐTBXH ngày 31/01/2024 về việc thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia giảm nghèo bền vững năm 2023 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2024.
Tài liệu tham khảo:
1. Quốc hội (2021). Nghị quyết số 24/2021/QH15 ngày 28/7/2021 phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 – 2025.
2. Thủ tướng Chính phủ (2022). Quyết định số 90/QĐ-TTg ngày 18/01/2022 về phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 – 2025.
3. Thực thi chính sách giảm nghèo theo chuẩn đa chiều ở tỉnh Vĩnh Long. https://www.quanlynhanuoc.vn/2020/01/27/thuc-thi-chinh-sach-giam-ngheo-theo-chuan-da-chieu-o-tinh-vinh-long.
4. Thực hiện chính sách giảm nghèo ở thành phố Buôn Ma Thuột – tỉnh Đắk Lắk.https://www.quanlynhanuoc.vn/2019/06/27/thuc-hien-chinh-sach-giam-ngheo-o-thanh-pho-buon-ma-thuot-tinh-dak-lak.