Công tác cán bộ, công chức, người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã tại tỉnh Bình Dương

ThS. Lê Thị Kim Liên
Đảng ủy Phường Mỹ Phước, thành phố Bến Cát, tỉnh Bình Dương

ThS. Lê Minh Phúc
Văn phòng Thành ủy Bến Cát, tỉnh Bình Dương

(Quanlynhanuoc.vn) – Lực lượng cán bộ, công chức, người hoạt động không chuyên trách cấp xã giữ vai trò quan trọng trong bộ máy chính quyền cấp cơ sở ở Việt Nam, bảo đảm việc thực thi các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, trực tiếp phục vụ Nhân dân tại địa phương. Việc xây dựng, củng cố đội ngũ cán bộ, công chức, người hoạt động không chuyên trách cấp xã gắn với xây dựng cơ chế hoạt động giữa các nhóm lực lượng này trong tình hình hiện naygiải pháp củng cố vững chắc lòng tin của Nhân dân với Đảng và chính quyền.

Từ khóa: Cán bộ, công chức, người hoạt động không chuyên trách, cấp xã.

1. Quy định chung về cán bộ, công chức, người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã

Pháp luật cán bộ, công chức hiện hành quy định về cán bộ, công chức, người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã như sau1:

(1) Cán bộ cấp xã: là công dân Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị – xã hội.

Cán bộ cấp xã có 11 chức vụ, gồm: Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy; Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân; Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân; Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh; Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam; Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam (áp dụng đối với xã, phường, thị trấn có hoạt động nông, lâm, ngư, diêm nghiệp và có tổ chức Hội Nông dân Việt Nam); Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam. Đây là đội ngũ giữ vị trí lãnh đạo, chủ chốt trong hệ thống chính trị cấp xã.

(2) Công chức cấp xã: là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.

Công chức cấp xã có 6 chức danh gồm: Chỉ huy trưởng ban chỉ huy quân sự, năn phòng – thống kê, địa chính – xây dựng – đô thị và môi trường (đối với phường, thị trấn) hoặc địa chính – nông nghiệp – xây dựng và môi trường (đối với xã); tài chính – kế toán; tư pháp – hộ tịch; văn hóa – xã hội.

(3) Người hoạt động không chuyên trách: Luật Cán bộ, công chức không giải thích khái niệm “không chuyên trách” nhưng có giao Chính phủ quy định khung số lượng, chế độ, chính sách (Điều 84).

Qua rà soát các văn bản của Nhà nước nhận thấy: trước năm 2003, cán bộ ở cấp xã được gọi chung là “cán bộ, công chức”. Khi Chính phủ ban hành Nghị định số 121/2003/NĐ-CP ngày 21/10/2003 quy định về chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn thì khái niệm “cán bộ chuyên trách” và “cán bộ không chuyên trách” cấp xã ra đời. Đến năm 2009, khái niệm “cán bộ chuyên trách” không còn được sử dụng trong hệ thống văn bản hành chính nhà nước, còn khái niệm cán bộ không chuyên trách” được thay bằng “người hoạt động không chuyên trách”2.

Năm 2013, Chính phủ ban hành Nghị định số 29/2013/NĐ-CP ngày 08/4/2013 có nội dung giao Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quy định cụ thể số lượng và chức danh, mức phụ cấp của từng chức danh, mức phụ cấp kiêm nhiệm những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã; bảo đảm tương quan hợp lý với hệ số lương của cán bộ, công chức cấp xã và khuyến khích những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã có trình độ đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ. Đến Nghị định số 33/2023/NĐ-CP ngày 10/6/2023, Chính phủ nêu rõ nhiệm vụ của người hoạt động không chuyên trách là thực hiện các nhiệm vụ theo quy định tại điều lệ tổ chức mà mình là thành viên, của pháp luật liên quan và của cấp có thẩm quyền quản lý; phối hợp, giúp cán bộ, công chức cấp xã thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao, bảo đảm các lĩnh vực công tác của cấp ủy, chính quyền địa phương cấp xã đều có người đảm nhiệm, theo dõi thực hiện.

Qua hệ thống hóa các quy định từng thời kỳ, nhận thấy các văn bản đều không giải thích khái niệm “không chuyên trách”. Do đó, nhận thức về đội ngũ này hiện nay không đồng nhất, có quan điểm cho rằng “không chuyên trách” là không chuyên sâu, không đảm nhiệm một công việc cụ thể nào; hoặc “không chuyên trách” là hoạt động một nữa thời gian giờ làm việc hành chính so với cán bộ, công chức; hoặc là những người không hưởng lương, chỉ hưởng phụ cấp vì vậy không yêu cầu cao về trách nhiệm thi hành công vụ.

(4) Về số lượng cán bộ, công chức, người hoạt động không chuyên trách: pháp luật quy định rõ số lượng cán bộ, công chức, người hoạt động không chuyên trách được tính theo đơn vị hành chính loại I, II, III. Cụ thể: cán bộ, công chức ở phường từ 19 đến 23 người; đối với xã, thị trấn từ 18 đến 22 người (số lượng này được phân bổ trong số 11 chức vụ cán bộ và 6 chức danh công chức).

Người hoạt động không chuyên trách có số lượng từ 10 đến 14 người, không phân biệt phường hay xã, thị trấn. Quy định hiện hành cho phép tăng số lượng công chức, người hoạt động không chuyên trách nếu có tăng quy mô dân số và tăng diện tích tự nhiên nhưng không quy định tăng số lượng cán bộ.

Như vậy, cán bộ, công chức, người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã là đội ngũ có trách nhiệm bảo đảm thực thi các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, trực tiếp phục vụ Nhân dân ở cấp xã. Lực lượng này thực hiện nhiệm vụ ở các lĩnh vực công tác Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể, trong đó cán bộ là lực lượng trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành hoạt động của bộ máy cấp xã.

2. Thực trạng công tác cán bộ, công chức, người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã tại tỉnh Bình Dương

Tỉnh Bình Dương có diện tích 2.694,64 km2; dân số khoảng 2,6 triệu người, gồm 9 đơn vị hành chính cấp huyện (5 thành phố, 4 huyện), 91 đơn vị hành chính cấp xã (39 xã, 47 phường, 5 thị trấn). Đến năm 2024, toàn tỉnh Bình Dương có 29 khu công nghiệp với diện tích gần 13.000 ha và 12 cụm công nghiệp với tổng diện tích khoảng 790 ha; tỷ lệ đô thị hóa đạt 85% (đứng thứ 2 cả nước), thu nhập bình quân đầu người đạt 181,2 triệu đồng (cao nhất cả nước)3.

Đạt được thành tựu nêu trên là do cấp ủy, chính quyền tỉnh Bình Dương qua các thời kỳ đều rất quan tâm, chú trọng đến công tác xây dựng đội ngũ cán bộ nói chung và đội ngũ cán bộ, công chức, người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã nói riêng. Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác xây dựng đội ngũ cán bộ.

Nổi bật là việc quan tâm công tác đào tạo, bồi dưỡng, thu hút nhân tài. Thời điểm tách tỉnh Sông Bé vào năm 1999, Tỉnh ủy đã ban hành Nghị quyết số 42-NQ/TU ngày 10/10/1997 về công tác cán bộ đến năm 2005 và những năm tiếp. Qua đó, chỉ đạo cấp ủy, lãnh đạo chính quyền cấp xã hằng năm hoặc khi cần thiết phải rà soát đội ngũ cán bộ về chất lượng, số lượng, cơ cấu, độ tuổi, đánh giá các tiêu chuẩn cụ thể của từng chức danh cán bộ, công chức theo các nội dung cơ bản về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, năng lực, uy tín, chiều hướng, triển vọng phát triển, khả năng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ khi được bố trí vào chức vụ cao hơn. Sau đó, Tỉnh ủy đã ban hành Kế hoạch số 20-KH/TU ngày 10/5/2002 và Chương trình hành động số 16-CTr/TU ngày 22/7/2002, Quyết định số 665-QĐ/TU ngày 20/10/2003 đề ra những nhiệm vụ chủ yếu về xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở và quy định tạm thời tiêu chuẩn chức danh cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Hội đồng nhân dân tỉnh Bình Dương ban hành nhiều nghị quyết quy định về chế độ, chính sách, thu hút, đào tạo đối với cán bộ cấp xã như: Nghị quyết số 41/2009/NQ-HĐND ngày 16/12/2009 về hỗ trợ đối với công chức cấp xã có trình độ sơ cấp chuyên môn, thực hiện chế độ phụ cấp, hỗ trợ những người hoạt động không chuyên trách cấp xã; quy định chức danh những người hoạt động không chuyên trách; Nghị quyết số 21/2019/NQ-HĐND ngày 12/12/2019; Nghị quyết số 16/2023/NQ-HĐND ngày 26/7/2023 quy định về số lượng, chức danh, một số chế độ, chính sách, mức hỗ trợ đối với người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã; Nghị quyết số 08/2006/NQ-HĐND ngày 14/7/2006, Nghị quyết số 37/2009/NQ-HĐND ngày 16/12/2009, Nghị quyết số 58/2011/NQ-HĐND ngày 09/12/2011, Nghị quyết số 05/2019/NQ-HĐND ngày 31/7/2019 quy định về chính sách thu hút, chế độ hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tỉnh, trong đó có quy định về chế độ thu hút người có trình độ đại học, sau đại học về công tác tại cấp xã; hỗ trợ đối với cán bộ, công chức, những người hoạt động không chuyên trách cấp xã đang làm việc có trình độ đại học, sau đại học.

Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương đã ban hành nhiều quy định về cán bộ, công chức, người hoạt động không chuyên trách cấp xã, như: Quyết định số 50/2007/QĐ-UBND ngày 31/5/2007 về tiêu chuẩn chức danh cán bộ chuyên trách và công chức xã, phường, thị trấn, theo đó quy định tiêu chuẩn về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đối với các chức danh chủ chốt cấp xã phải có trình độ trung cấp chuyên môn trở lên và đã qua các lớp bồi dưỡng quản lý hành chính nhà nước, nghiệp vụ quản lý kinh tế; Quyết định số 116/2007/QĐ-UBND ngày 07/11/2007 về việc ban hành quy định về chế độ tuyển dụng cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn với nội dung yêu cầu từng chức danh cán bộ, công chức được tuyển dụng phải có các văn bằng, chứng chỉ phù hợp với yêu cầu của chức danh dự tuyển; Quyết định số 16/2013/QĐ-UBND ngày 17/6/2013 về việc ban hành quy định về tiêu chuẩn, chức danh công chức cấp xã; Quyết định số 2647/QĐ-UBND ngày 10/9/2020 và Quyết định số 10/2024/QĐ-UBND ngày 20/5/2024 quy định ngành đào tạo phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ của từng chức danh công chức cấp xã… đây là cơ sở, căn cứ để thực hiện công tác quy hoạch, tạo nguồn, tuyển dụng, sử dụng, bồi dưỡng, đào tạo nâng cao; đánh giá và thực hiện các chế độ, chính sách đối với công chức cấp xã.

Từ khi thành lập cho đến nay, tỉnh Bình Dương đã tổ chức được 7 khóa tạo nguồn cán bộ chủ chốt cho cấp xã với tổng số 716 học viên. Trong số này, có nhiều cán bộ đã được bố trí các chức vụ chủ chốt ở cấp xã hoặc công tác tại các phòng, ban cấp huyện và các sở, ban, ngành cấp tỉnh.

Theo báo cáo của Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương4, tính đến ngày 31/12/2024, tổng số cán bộ, công chức cấp xã trong toàn tỉnh là 2,157 người (945 cán bộ, 1.212 công chức). Trong đó: cán bộ có trình độ đại học, sau đại học là 907 người (tỷ lệ 95,9%), cao đẳng và trung cấp 30 người; trình độ lý luận chính trị đạt cử nhân và cao cấp là 277 người, trung cấp là 650 người. Công chức có trình độ đại học, sau đại học là 1.202 người (tỷ lệ 99,2%), cao đẳng và trung cấp 10 người; trình độ lý luận chính trị đạt cử nhân và cao cấp 11 người, trung cấp 874 người, sơ cấp và chưa qua đào tạo 327 người.

Kết quả nêu trên cho thấy, số lượng cán bộ, công chức ở cấp xã trên toàn tỉnh có trình độ đại học, sau đại học và lý luận chính trị từ trung cấp trở lên rất cao. Đây là kết quả của sự nổ lực không ngừng trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã của hệ thống chính trị các cấp ở tỉnh Bình Dương.

Về phân bổ số lượng biên chế: thực hiện quy định của pháp luật, hằng năm, Ủy ban nhân dân tỉnh trình Hội đồng nhân dân tỉnh ban hành nghị quyết phê duyệt số lượng cán bộ, công chức cấp xã và người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã theo từng đơn vị hành chính cấp huyện trên cơ sở có cân nhắc tăng thêm biên chế công chức, người hoạt động không chuyên trách do tăng diện tích tự nhiên và tăng quy mô dân số.

Năm 2024, Hội đồng nhân dân tỉnh ban hành nghị quyết phân bổ 2.600 cán bộ, công chức (tăng theo diện tích tự nhiên 66 người, tăng theo quy mô dân số 519 người) và năm 2025 phân bổ 2.610 cán bộ, công chức (tăng thêm theo diện tích tự nhiên 77 người, tăng thêm theo quy mô dân số 516 người). Số lượng phân bổ tăng chủ yếu là do tăng quy mô dân số ở 5 thành phố trong tỉnh. Nguyên nhân do các đơn vị hành chính này có các khu, cụm công nghiệp đang hoạt động nên dân cư ở các tỉnh, thành khác đến sinh sống và làm việc đông.

Tuy nhiên, với đặc điểm văn hóa vùng miền, số lượng dân cư này không ổn định do thường xuyên thay đổi nơi ở và nơi làm việc (nhất là người lao động tự do) dẫn đến việc phân bổ số lượng biên chế cũng tăng/giảm theo ở từng địa bàn, đòi hỏi cơ quan chức năng phải có dữ liệu dân cư “sạch, sống” trên từng đơn vị hành chính. Đồng thời, dự phòng được trường hợp dân di cư sang địa bàn khác sinh sống thì phải giảm phân bổ biên chế ở địa phương đó trong năm tiếp theo. Đây là vấn đề khó cho công tác cán bộ vì đã tuyển dụng công chức, người hoạt động không chuyên trách vào làm thì không thể sa thải vì lý do giảm dân số. Chính vì vậy, cơ quan có thẩm quyền không phân bổ đủ biên chế cho cấp xã nơi có đông dân cư tạm trú dẫn tới quá tải công việc cho cán bộ ở địa phương này.

Tại Thành phố Bến Cát, đầu năm 2025, Ủy ban nhân dân Thành phố ban hành Quyết định số 272/QĐ-UBND ngày 20/01/2025 với nội dung phân bổ tổng số lượng cán bộ, công chức, người hoạt động không chuyên trách cho các xã, phường trên địa bàn Thành phố là 441 người; tổng dự phòng là 68 người (25 công chức, 43 không chuyên trách). Phường Thới Hòa là đơn vị hành chính loại I có 37,93 km2 và dân số 64.401 người được phân bổ tổng biên chế 59 người, gồm: cán bộ, công chức 37 người (tăng thêm theo quy mô dân số và diện tích là 14 người), người hoạt động không chuyên trách 22 người (tăng thêm theo quy mô dân số và diện tích là 8 người).

Trong khi đó, xã Phú An cũng là đơn vị hành chính loại I có diện tích tự nhiên 19,76 km2, dân số 17.061 người được phân bổ tổng số lượng 50 người, gồm: cán bộ, công chức 28 người (tăng thêm theo quy mô dân số và diện tích là 6 người), người hoạt động không chuyên trách 22 người (tăng thêm theo quy mô dân số và diện tích là 8 người). Có thể thấy, phường Thới Hòa có diện tích tự nhiên gần gấp đôi diện tích tự nhiên xã Phú An, dân số cao hơn gấp 3,5 lần dân số xã Phú An nhưng tổng số lượng biên chế phường Thới Hòa chỉ được phân bổ hơn 9 người. Theo Nghị định số 33/2023/NĐ-CP và Văn bản số 4368/BNV-CQĐP ngày 09/8/2023 của Bộ Nội vụ với diện tích tự nhiên và quy mô dân số hiện có, phường Thới Hòa phải được phân bổ tăng thêm 25 công chức và 25 người hoạt động không chuyên trách, nhưng thực tế chỉ được phân bổ tăng 14 công chức và 8 người không chuyên trách (không đạt 50% mức tăng thêm). Việc phân bổ biên chế nêu trên chưa đáp ứng nhu cầu thực tiễn trong công tác quản lý nhà nước, phục vụ nhân dân ở phường Thới Hòa.

Vấn đề thi tuyển công chức cấp xã được Ủy ban nhân dân các huyện, thành phố chủ động thực hiện theo thẩm quyền, bảo đảm tuyển dụng đúng quy định, quy chế và đáp ứng nhu cầu của từng xã, phường, thị trấn. Quy chế tuyển dụng công chức cấp xã do Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành có quy định trong trường hợp số lượng đăng ký dự tuyển dưới 20 người thì có thể phối hợp với các địa phương khác để tổ chức tuyển dụng. Cơ chế này giúp các đơn vị hành chính cấp huyện linh hoạt hơn trong tuyển dụng công chức theo nhu cầu thực tế phát sinh.

Về đội ngũ người hoạt động không chuyên trách: Hội đồng nhân dân tỉnh đã ban hành Nghị quyết quy định 26 chức danh người hoạt động không chuyên trách và nhiều chế độ, chính sách đối với các chức danh này (ngoài phụ cấp hàng tháng, còn có hỗ trợ trình độ đào tạo và nâng mức hỗ trợ trình độ đào tạo theo thời gian thâm niên, hỗ trợ công vụ với mức 25% tổng phụ cấp và hỗ trợ hiện hưởng, hỗ trợ khi thôi việc, chế độ nghỉ thai sản, phụ cấp kiêm nhiệm).

Hằng năm, Hội đồng nhân dân tỉnh thực hiện phân bổ số lượng người hoạt động không chuyên trách cho các huyện, thành phố trong tỉnh trên cơ sở diện tích và quy mô dân số của địa phương. Năm 2024, Hội đồng nhân dân tỉnh phân bổ 1.827 người hoạt động không chuyên trách (tăng thêm theo diện tích tự nhiên 66 người, tăng thêm theo quy mô dân số 519 người) và năm 2025 phân bổ 1.835 người (tăng thêm theo diện tích tự nhiên 77 người, tăng thêm theo quy mô dân số 516 người) cho các huyện, thành phố. So sánh số liệu phân bổ tổng số lượng cán bộ, công chức trong cùng thời kỳ thì tổng số lượng người hoạt động không chuyên trách được phân bổ hơn 2/3 tổng số lượng cán bộ, công chức trong bộ máy cấp xã.

Người hoạt động không chuyên trách được phân bổ từ 10 đến 14 người tùy thuộc cấp đơn vị hành chính loại I, II, III và không phân biệt phường hay xã, thị trấn; được bố trí trong số 26 chức danh mà Nghị quyết Hội đồng nhân dân tỉnh quy định. Các chức danh này gồm có trưởng, phó tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội (chủ tịch hội chữ thập đỏ, chủ tịch hội người cao tuổi, phó bí thư đoàn thanh niên...) do bầu cử theo điều lệ đoàn; các bộ phận giúp việc cho Đảng ủy (trưởng ban tuyên giáo, trưởng ban tổ chức, chủ nhiệm và phó chủ nhiệm ủy ban kiểm tra…) được bầu theo điều lệ Đảng; các chức danh còn lại hỗ trợ các việc công tác Đảng và chính quyền (thư ký đảng ủy, phụ trách công tác nội vụ, thi đua, tôn giáo, dân tộc…) do chủ tịch ủy ban nhân dân huyện, thành phố tuyển dụng.

Có thể thấy, người hoạt động không chuyên trách khá đông trong bộ máy cấp xã ở tỉnh Bình Dương. Lực lượng này được phân bổ ở cả lĩnh vực công tác đảng, chính quyền và đoàn thể; ở đơn vị đoàn thể được bố trí là cấp phó phải được bầu cử và phê duyệt kết quả bầu cử của cấp có thẩm quyền.

Đáng chú ý là chức danh phó chủ nhiệm ủy ban kiểm tra đảng ủy chỉ được bố trí 01 người hoạt động không chuyên trách ở nơi nào có từ 300 đảng viên trở lên; không được phân bổ thêm số lượng cho chức danh này dù số lượng đảng viên có vượt gấp nhiều lần mức 300 người. Đây là điều rất bất hợp lý trong thực tế mà đến nay chưa có cơ chế tháo gỡ.

Chức danh thư ký đảng ủy phải thực hiện rất nhiều nhiệm vụ như tham mưu, giúp Đảng ủy xây dựng và ban hành nghị quyết, chương trình, kế hoạch thực hiện nhiệm vụ năm, quý, tháng, sơ kết, tổng kết; giúp Thường trực Đảng ủy theo dõi, xử lý các công việc hàng ngày của Đảng bộ, cụ thể là: quản lý đảng viên (phát triển đảng, đề nghị kết nạp Đảng, công nhận đảng viên chính thức, chuyển sinh hoạt Đảng, đề xuất chế độ trung cao, trao huy hiệu đảng, chính sách đảng viên từ trần, khen thưởng…), thực hiện công tác cán bộ và bảo vệ chính trị nội bộ theo thẩm quyền (quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá, xếp loại, đảng viên có yếu tố nước ngoài, đi nước ngoài…); tiếp nhận và xử lý văn bản đến, phát hành văn bản đi gắn với cập nhật và sử dụng các phần mềm quản lý văn bản…

Đối với Đảng bộ cấp xã nơi có đông dân cư, đông đảng viên thì khối lượng công việc nêu trên rất lớn, đòi hỏi thư ký đảng ủy phải tập trung toàn thời gian, tranh thủ làm thêm ngoài giờ hành chính mới có thể làm hết công việc. Tuy nhiên, số lượng phân bổ chỉ được 01 người, không được bố trí tăng số lượng cho chức danh này dẫn đến không đáp ứng được nhu cầu công việc thực tiễn. Nhận thấy bất cập đó, Tỉnh ủy Bình Dương đã ban hành Nghị quyết số 10-NQ/TU ngày 05/7/2023 có nội dung cho phép cấp xã được phân công 01 công chức để thực hiện nhiệm vụ thư ký đảng ủy, đồng thời cấp xã vẫn bố trí được 01 người hoạt động không chuyên trách để giúp việc cho công chức làm công tác thư ký đảng ủy. Đây là điểm đột phá mà tỉnh Bình Dương đã thực hiện góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy cấp xã.

Qua quá trình lãnh đạo, quản lý công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, người hoạt động không chuyên trách cấp xã thời gian qua, có thể thấy: cấp ủy, chính quyền tỉnh Bình Dương đã rất quan tâm công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, người hoạt động không chuyên trách cấp xã; đã có nhiều chủ trương, chính sách, quyết định đúng đắn, phù hợp với yêu cầu thực tiễn; quyết liệt trong lãnh đạo, tổ chức thực hiện công tác cán bộ cấp xã. Thường xuyên rà soát, đánh giá tiêu chuẩn, điều kiện của cán bộ, công chức cấp xã. Qua đó, đã ban hành nhiều quyết sách để chủ động tạo nguồn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức gắn với chính sách “thu hút nhân tài”, khuyến khích tự đào tạo… Từ đó, đẩy nhanh tiến trình nâng cao trình độ, chuẩn hóa đội ngũ cán bộ. Ở cấp xã, cán bộ, công chức, người hoạt động không chuyên trách không ngừng được nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò, chức trách, nhiệm vụ đối với công việc được giao; thường xuyên được cập nhật kiến thức mới, bồi dưỡng chuyên môn để vận dụng kiến thức vào thực tiễn, từ đó không ngừng cải tiến hiệu quả thực hiện nhiệm vụ.

Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, người hoạt động không chuyên trách cấp xã ở tỉnh Bình Dương thời gian qua vẫn còn một số hạn chế, đó là: bộ phận trực tiếp tham mưu, triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã còn hạn chế về năng lực tổng kết thực tiễn, đánh giá chiều sâu, tìm ra nguyên nhân chính của những thuận lợi, khó khăn và dự báo tình hình trong thời gian tới… Do đó, công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền có lúc chưa theo kịp tình hình thực tiễn.

Tình hình khối lượng công việc ngày càng tăng, một số nơi có quy mô dân số lớn do tỷ lệ người dân ở tỉnh, thành khác đến sinh sống, làm việc tăng nhiều nhưng việc phân bổ biên chế cho cấp xã còn để dự phòng khá nhiều; một số cán bộ có năng lực thì phải kiêm nhiệm nhiều việc dẫn đến quá tải nên có lúc chậm tiến độ xử lý công việc. Công tác đánh giá, xếp loại vẫn là khâu yếu, chưa trở thành thước đo phân loại, sử dụng đúng năng lực, sở trường và quy hoạch, bổ nhiệm cán bộ, công chức cấp xã bởi lý do thiếu hướng dẫn xây dựng và phân cấp phê duyệt bản mô tả vị trí việc làm đối với từng chức danh, các chỉ tiêu đánh giá còn định tính trong khi khối lượng công việc ngày càng phát sinh thêm và cán bộ phải thực hiện kiêm nhiều nhiệm vụ.

Nội dung chương trình các lớp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã vẫn chủ yếu là lý luận, chưa chú trọng đến thực hành, nhất là vận dụng lý luận vào thực tiễn. Cơ quan có thẩm quyền chưa ban hành quy định cụ thể việc quản lý, sử dụng đối với từng chức danh người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã cho phù hợp với thực tiễn của từng địa phương; nhiệm vụ của từng chức danh người hoạt động không chuyên trách cho phù hợp với yêu cầu thực hiện nhiệm vụ của từng cấp xã. Từ đó, việc nhận thức và sử dụng người hoạt động không chuyên trách chưa thống nhất, đồng bộ; không thực hiện được công tác điều động, bổ nhiệm dù có trình độ, có công hiến lâu dài và hoàn thành tốt nhiệm vụ.

3. Một số khuyến nghị về giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã trên địa bàn tỉnh Bình Dương

Thứ nhất, quan tâm đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác tổ chức cán bộ. Xác định đây là đội ngũ giữ vị trí rất quan trọng trong tham mưu, đề xuất những giải pháp, chính sách đột phá về công tác cán bộ. Do đó, đội ngũ này phải thật sự tinh, mạnh, liêm chính. Đồng thời, thực hiện tốt cơ chế thanh, kiểm tra, giám sát, đánh giá chặt chẽ hoạt động của đội ngũ này.

Thứ hai, tiếp tục nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ, công chức, người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã. Tổ chức bồi dưỡng, cập nhật kiến thức về quản lý hành chính, áp dụng pháp luật vào thực tiễn, chú trọng đào tạo các kỹ năng giao tiếp, ứng xử, giải quyết vấn đề xung đột, kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin, phần mềm chuyên dụng định kỳ hàng năm; tăng cường các chế độ, chính sách khuyến khích đào tạo sau đại học, ứng dụng trí tuệ nhân tạo; quan tâm nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ công chức.

Thứ ba, đột phá trong thực hiện công tác đánh giá, xếp loại kết quả thực hiện của cán bộ, công chức, người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã. Trước hết, chú trọng việc xây dựng mẫu biểu bản mô tả vị trí việc làm gắn với phân cấp phê duyệt đối với từng chức vụ, chức danh; lượng hóa các tiêu chuẩn chung của trung ương, nhất là tiêu chuẩn về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống để đưa vào bản mô tả vị trí việc làm; ban hành quy định nhận xét, đánh giá hằng tháng. Ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác đánh giá, xếp loại. Song song đó, tập huấn quy trình, cách thức thực hiện và kiểm tra, giám sát thường xuyên để bảo đảm hoạt động này thực hiện đúng trình tự, không hình thức.

Thứ tư, nghiên cứu ban hành quy định việc quản lý, sử dụng đối với từng chức danh người hoạt động không chuyên trách cho phù hợp với thực tiễn của tỉnh; ban hành quy định cụ thể nhiệm vụ của từng chức danh người hoạt động không chuyên trách cho phù hợp với yêu cầu thực hiện nhiệm vụ của từng xã, phường, thị trấn; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý cán bộ, công chức bằng phần mềm, số hóa nhằm giảm bớt nhân lực quản lý.

Thứ năm, thường xuyên sơ kết tổng, kết công tác cán bộ; tổ chức hội thảo dành riêng cho “nhân tài” ở cấp xã hiến kế, góp ý về các chính sách, giải pháp lãnh đạo đối với các vấn đề ở cấp xã nhằm tạo môi trường sáng tạo, cống hiến, gắn bó và trách nhiệm với địa phương. Kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xem xét có ý kiến, sửa đổi, bổ sung các bất cập, vướng mắc trong thực thi pháp luật cán bộ, công chức.

4. Kết luận

Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, người hoạt động không chuyên trách cấp xã có đạo đức, trình độ, năng lực, uy tín, tận tụy phục vụ nhân dân là giải pháp để xây dựng tỉnh Bình Dương phát triển bền vững theo hướng đô thị thông minh, văn minh, hiện đại mà Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XI nhiệm kỳ 2020 – 2025 đã đề ra. Do đó, các cấp chính quyền tỉnh Bình Dương cần tiếp tục quyết liệt trong lãnh đạo, chỉ đạo việc triển khai, quán triệt, tổ chức thực hiện nghiêm túc các quy định của Trung ương và của tỉnh đối với cán bộ, công chức cấp xã trong thời gian tới; chú trọng công tác sơ kết, tổng kết để kịp thời đề xuất, khắc phục các bất cập, chồng chéo trong thực tiễn; tiếp tục nghiên cứu, không ngừng bổ sung chính sách đào tạo, bồi dưỡng, thu hút, trọng dụng, giữ chân người có tài về công tác ở cấp xã.

Chú thích:
1. Chính phủ (2023). Nghị định số 33/2023/NĐ-CP ngày 10/6/2023 quy định về cán bộ, công chức cấp xã và người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố.
2. Chính phủ (2009). Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 quy định về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã.
3. Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh ủy Bình Dương (2025). “Thông tin nội bộ”, số tháng 3/2025.
4. Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương (2025). Công văn số 1412/UBND-NC ngày 14/3/2025 về việc báo cáo số lượng, chất lượng cán bộ, công chức cấp xã.
Tài liệu tham khảo:
1. Nguyễn Thanh Cư (2024). “Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở tỉnh Bình Dương”, http://tcnn.vn/news, ngày 17/6/2024.
2. Hội đồng nhân dân tỉnh Bình Dương (khoá VII) (2006). Nghị quyết số 08/2006/NQ-HĐND ngày 14/7/2006 về chính sách đào tạo, thu hút và phát triển nguồn nhân lực tỉnh Bình Dương.
3. Hội đồng nhân dân tỉnh Bình Dương (2009). Nghị quyết số 37/2009/NQ-HĐND ngày 16/12/2009 về chính sách thu hút, chế độ hỗ trợ đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tỉnh Bình Dương.
4. Hội đồng nhân dân tỉnh Bình Dương (2011). Nghị quyết số 58/2011/NQ-HĐND ngày 09/12/2011 về chính sách thu hút, chế độ hỗ trợ đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tỉnh Bình Dương.
5. Hội đồng nhân dân tỉnh Bình Dương (2019). Nghị quyết số 05/2019/NQ-HĐND ngày 31/7/2019 về chính sách thu hút, chế độ hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tỉnh Bình Dương.
6. Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương (2024). Quyết định số 10/2024/QĐ-UBND ngày 20/5/2024 quy định ngành đào tạo phù hợp với các chức danh công chức xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh Bình Dương.
7. Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương (2020). Quyết định số 2647/QĐ-UBND ngày 10/9/2020 quy định ngành đào tạo phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ của từng chức danh công chức cấp xã trên địa bàn tỉnh Bình Dương.
8. Hội đồng nhân dân tỉnh Bình Dương (2023). Nghị quyết số 56/NQ-HĐND ngày 08/12/2023 về phê duyệt số lượng cán bộ, công chức cấp xã và người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã trên địa bàn tỉnh Bình Dương năm 2024.
9. Hội đồng nhân dân tỉnh Bình Dương (2024). Nghị quyết số 54/NQ-HĐND ngày 12/12/2024 về phê duyệt số lượng cán bộ, công chức cấp xã và người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã trên địa bàn tỉnh Bình Dương năm 2025.
10. Ủy ban nhân dân Thành phố Bến Cát (2025). Quyết định số 272/QĐ-UBND ngày 20/01/2025 về việc phân bổ số lượng cán bộ, công chức, người hoạt động không chuyên trách và hợp đồng theo Nghị định số 111/2022/NĐ-CP cho các xã, phường trên địa bàn thành phố Bến Cát năm 2025.