TS. Vũ Thị Minh Ngọc
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
(Quanlynhanuoc.vn) – Xây dựng chính phủ kiến tạo, liêm chính trong bối cảnh cách mạng 4.0 hiện nay có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Trên cơ sở làm rõ khái niệm chính phủ kiến tạo, liêm chính, tác giả phân tích một số quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước phát triển, liêm khiết, phục vụ Nhân dân, vì Nhân dân để thấy giá trị đặc biệt của sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong quá trình xây dựng chính phủ kiến tạo, liêm chính ở Việt Nam trong bối cảnh cuộc cách mạng 4.0 hiện nay.
Từ khóa: Tư tưởng Hồ Chí Minh; chính phủ; liêm chính; kiến tạo; cách mạng 4.0.
1. Yêu cầu về học tập tư tưởng Hồ Chí Minh xây dựng chính phủ kiến tạo, liêm chính trong bối cảnh cách mạng 4.0
Ở Việt Nam, cách mạng công nghiệp 4.0 dần chuyển từ dạng khái niệm thành hiện thực. Trong bối cảnh này, hiệu quả quản lý nhà nước ảnh hưởng trực tiếp đến sự ổn định đời sống của người dân, bảo đảm ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Mặt khác, những cơ hội đồng hành cùng thách thức và nguy cơ cho toàn xã hội, mở ra nhiều triển vọng nhưng cũng đặt ra những thách thức lớn đối với công cuộc phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra quan điểm xây dựng Chính phủ có giá trị nền tảng tư tưởng cho việc xây dựng chính phủ kiến tạo ở nước ta hiện nay. Việc nghiên cứu và vận dụng quan điểm xây dựng chính phủ kiến tạo theo tư tưởng Hồ Chí Minh là việc làm thiết thực, góp phần nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên trong việc xây dựng chính phủ kiến tạo ở Việt Nam.
Thứ nhất, tư tưởng Hồ Chí Minh còn nguyên giá trị trong giai đoạn hiện nay, là kim chỉ nam cho một chính phủ vì dân, do dân, của dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh đặt lợi ích của Nhân dân lên hàng đầu. Một chính phủ kiến tạo, liêm chính phải hoạt động minh bạch, phục vụ Nhân dân, giảm quan liêu, tham nhũng, giống như tư tưởng Hồ Chí Minh về một nhà nước liêm chính, trong sạch.
Thứ hai, cách mạng công nghiệp 4.0 đặt ra yêu cầu đổi mới trong quản trị nhà nước. Công nghệ số, trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (Big Data) đang thay đổi cách thức quản lý và vận hành chính phủ. Học tập tư tưởng Hồ Chí Minh giúp định hướng việc ứng dụng công nghệ vào quản lý hiệu quả hơn, bảo đảm dân chủ, minh bạch. Xây dựng chính phủ điện tử, chính phủ số theo tư tưởng phục vụ Nhân dân, cắt giảm thủ tục hành chính rườm rà.
Thứ ba, xây dựng một chính phủ liêm chính, chống quan liêu, tham nhũng theo tư tưởng của Hồ Chí Minh: “Liêm chính là gốc của người làm quan”1, nếu không có liêm chính, đất nước sẽ suy vong.Bối cảnh cách mạng 4.0 mở ra cơ hội tăng cường giám sát, phòng, chống tham nhũng qua hệ thống dữ liệu minh bạch, chính phủ số. Nếu không học tập tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công vụ sẽ dẫn đến lạm quyền, tiêu cực, làm mất lòng tin của Nhân dân.
Thứ tư, trong bối cảnh số hóa, thực hiện hiệu quả nguyên tắc “dân biết, dân bàn, dân kiểm tra” theo tư tưởng Hồ Chí Minh sẽ giúp đề cao dân chủ thực chất, quyền giám sát của Nhân dân đối với bộ máy nhà nước. Công nghệ 4.0 giúp Chính phủ dễ dàng công khai, minh bạch thông tin (qua cổng dịch vụ công, dữ liệu mở, trí tuệ nhân tạo). Nhân dân có thể tham gia đóng góp ý kiến, phản biện chính sách trực tuyến, thúc đẩy quản trị công khai, hiệu quả.
Thứ năm, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội trong thời đại mới. Chính phủ kiến tạo theo tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ là quản lý mà còn tạo điều kiện cho doanh nghiệp, người dân phát triển. Cách mạng công nghiệp 4.0 đòi hỏi Chính phủ phải linh hoạt, hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, giảm rào cản hành chính. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Việc gì có lợi cho dân thì hết sức làm”2, đây là nguyên tắc quan trọng của một chính phủ kiến tạo.
2. Định hình khái niệm chính phủ kiến tạo, liêm chính trên thế giới và ở Việt Nam
Những tư tưởng về liêm chính, kiến tạo, hành động… khi xác định hướng hoạt động của Chính phủ hoàn toàn không phải những ý tưởng mới xuất hiện trên thế giới. Khái niệm nhà nước kiến tạo phát triển được nhà nghiên cứu Chalmers Johnson đưa ra từ năm 1982, khi ông nghiên cứu về sự phát triển thần tốc của Nhật Bản và trong sự phát triển thần tốc đó có vai trò rất quan trọng của Nhà nước. Nhà nước Nhật Bản đã không chỉ tạo ra khuôn khổ cho sự phát triển, mà còn định hướng và thúc đẩy sự phát triển đó một cách quyết liệt với chiến lược nằm trong mệnh đề ngắn gọn “Kết hợp tinh thần truyền thống Nhật Bản và sự phát triển kinh doanh, học tập công nghệ phương Tây”3. Theo đó, nhà nước kiến tạo là “một mô hình quản lý trong đó nhà nước đề ra các chính sách mang tính định hướng phát triển, tạo môi trường và điều kiện cho các thành phần kinh tế phát huy mọi tiềm năng trong môi trường cạnh tranh và hội nhập quốc tế; tăng cường giám sát để phát hiện các mất cân đối có thể xảy ra, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô”4.
Sau này, ngoài các nước, như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc… đều được xem là những nhà nước kiến tạo phát triển. Có ba mô hình chính phủ: chính phủ điều chỉnh (chính phủ của các nước theo mô hình thị trường tự do); chính phủ kế hoạch hóa tập trung quan liêu (chính phủ của các nước phủ nhận vai trò của thị trường) và chính phủ kiến tạo phát triển (chính phủ của các nước coi trọng vai trò của thị trường nhưng không tuyệt đối hóa vai trò này, mà tích cực can thiệp để định hướng thị trường)5.
Ở Việt Nam, trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, chịu ảnh hưởng của một trong những tư tưởng Nho giáo tiến bộ nhất, các nhà cầm quyền ở Việt Nam đã coi trọng tư tưởng “dĩ dân vi bản” (lấy dân làm gốc), “dân duy bang bản, bản cố bang ninh” (dân chính là gốc rễ của đất nước, gốc rễ có vững chắc thì nước mới yên ổn). Dân là sức mạnh, nguồn sống của quốc gia, dân yên xã tắc yên, dân ấm no đất nước giàu mạnh. Vì vậy, người lãnh đạo, quản lý đất nước phải tâm niệm và thấm nhuần tư tưởng coi trọng Nhân dân, lấy Nhân dân làm gốc.
Ngày 25/11/1945, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ra Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc và chỉ thị đề ra là củng cố chính quyền với hai nhiệm vụ, đồng thời là “kháng chiến” và “kiến quốc” của Chính phủ. Như vậy, sau khi Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á hình thành thì chính phủ kháng chiến và kiến quốc cũng đã được thiết lập, xuất phát từ yêu cầu lúc bấy giờ của Cách mạng Việt Nam. Nhưng hai chữ “kiến quốc” khi ấy có lẽ bao trùm cả ý nghĩa “kiến tạo” ngày hôm nay. “Kiến tạo” là sự cụ thể hóa của “kiến quốc” trong điều kiện phát triển mới, căn cứ vào các nhiệm vụ quản lý nhà nước cụ thể và trên cơ sở những cam kết của các tầng lớp lãnh đạo quốc gia qua các thời kỳ đổi mới của đất nước.
Năm 1946, khi Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời để bảo đảm thực thi các quyền dân chủ, nhân quyền trong thực tiễn cuộc sống, tại Điều 1 quy định: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa. Tất cả quyền binh trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”; tại Điều 6 quy định: “Tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện: chính trị, kinh tế, văn hóa”. Như vậy, Hiến pháp năm 1946 khẳng định mạnh mẽ, “lấy dân làm gốc” luôn là giá trị cốt lõi để xây dựng chính quyền.
Mặc dù khái niệm chính phủ kiến tạo, liêm chính ở Việt Nam chưa có một khung lý thuyết có tính hệ thống nhưng trong bối cảnh hiện nay, có thể gắn liền chính phủ kiến tạo, liêm chính với những đặc điểm, như sau: là một mô hình nhà nước pháp quyền, dân chủ; các cơ quan nhà nước hoạt động công khai, minh bạch và có trách nhiệm giải trình; Đội ngũ công chức, viên chức được tuyển chọn cạnh tranh, công bằng, bảo đảm kiến thức, kỹ năng, thái độ phục vụ Nhân dân; Chính phủ không can thiệp sâu vào thị trường, nhưng thiết lập quan hệ chặt chẽ với doanh nghiệp và người dân, tạo điều kiện và hỗ trợ sự phát triển của doanh nghiệp và người dân.
Như vậy, khái niệm chính phủ kiến tạo, liêm chính hiện nay là một khái niệm có nội hàm mang tính kế thừa và được điều chỉnh cho phù hợp bối cảnh quản lý xã hội và quản lý phát triển xã hội với không gian và thời gian cụ thể. Chính phủ kiến tạo, liêm chính là kim chỉ nam cho lãnh đạo Chính phủ nỗ lực thực hiện các mục tiêu phát triển song hành tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội trong môi trường cạnh tranh và hội nhập quốc tế, tăng cường giám sát để thực hiện các mục tiêu phát triển xã hội đã đặt ra trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa hiện nay.
3. Kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh để xây dựng chính phủ kiến tạo, liêm chính
Ở Việt Nam, tư tưởng “dân là gốc” đã được tiếp thu, sáng tạo theo đúng bản sắc dân tộc. “Dân là gốc của nước nhà, gốc có vững thì nước mới yên”, “Cái gì dân muốn thì trời cũng phải thuận theo”6… Tư tưởng Hồ Chí Minh, trước hết, bắt nguồn từ các giá trị truyền thống của dân tộc, là sự kế thừa và phát triển các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc như vậy. Trong bối cảnh hiện nay, một chính phủ kiến tạo cần lắng nghe ý kiến Nhân dân, giải quyết các vấn đề của dân kịp thời; cắt giảm thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho Nhân dân và doanh nghiệp phát triển; phát triển chính phủ điện tử, nâng cao tính công khai, minh bạch.
Năm 1927, trong tác phẩm Đường Cách mệnh, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc”7. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trương xây dựng một chính phủ phục vụ Nhân dân. Người khẳng định: “Chính phủ là công bộc của dân vậy. Các công việc của Chính phủ làm phải nhằm vào một mục đích duy nhất là mưu cầu tự do hạnh phúc cho mọi người. Cho nên Chính phủ nhân dân bao giờ cũng phải đặt quyền lợi dân lên trên hết thảy. Việc gì có lợi cho dân thì làm. Việc gì có hại cho dân thì phải tránh”8.
Người chủ trương xây dựng nhà nước Việt Nam là Nhà nước dân chủ của dân, do dân, vì dân: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”9 (Trích trong tác phẩm “Dân vận” của Hồ Chí Minh, viết ngày 15/10/1949). Tư tưởng này trở thành nền tảng quan trọng trong xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam, bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân.
Có thể hiểu, Nhà nước của dân là nhà nước trong đó mọi quyền lực đều thuộc về Nhân dân. Người dân được hưởng mọi quyền dân chủ, nghĩa là có quyền làm bất cứ việc gì mà pháp luật không cấm và có nghĩa vụ tuân theo pháp luật. Nhà nước phải bằng mọi nỗ lực, hình thành các thiết chế dân chủ để thực thi quyền làm chủ của người dân. Các đại biểu đại diện của dân, do dân bầu cử ra, chỉ là thừa ủy quyền của dân, chỉ là công bộc của dân. Nhà nước do dân là Nhà nước do dân lựa chọn, bầu ra những đại biểu của mình, Nhà nước đó lại do dân phê bình, xây dựng, giúp đỡ. Tất cả các cơ quan nhà nước phải dựa vào Nhân dân, liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của Nhân dân. Nhà nước vì dân là nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của Nhân dân. Chỉ có một nhà nước thực sự của dân, do dân tổ chức, xây dựng và kiểm soát trên thực tế mới có thể là Nhà nước vì dân. Nhà nước không có đặc quyền đặc lợi, Nhà nước cần thực sự trong sạch, cần, kiệm, liêm, chính.
Vào thời điểm chính quyền cách mạng non trẻ đặt trong hoàn cảnh mọi ngành sản xuất sa sút, hàng hóa khan hiếm, cuộc sống Nhân dân cùng khổ, với “giặc đói”, “giặc dốt”, đồng thời với “giặc ngoại xâm”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra những nhiệm vụ: Một là, phát động một chiến dịch tăng gia sản xuất, một cuộc lạc quyên để giải quyết nạn đói; Hai là, mở một chiến dịch để chống nạn mù chữ, vì một dân tộc dốt là một dân tộc yếu, mà hiện tại hơn chín mươi phần trăm đồng bào chúng ta mù chữ; Ba là, phải có một hiến pháp dân chủ bằng cách tổ chức càng sớm càng hay cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu; Bốn là, mở một chiến dịch giáo dục lại Nhân dân bằng cách thực hiện: Cần, kiệm, liêm, chính để làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập; Năm là, bỏ ngay ba thứ thuế là thuế thân, thuế chợ, thuế đò và tuyệt đối cấm hút thuốc phiện; Sáu là, đề nghị Chính phủ tuyên bố tín ngưỡng tự do và lương giáo đoàn kết10.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã đưa ra việc thành lập các ủy ban nhân dân với 5 – 7 thành viên để cùng thống nhất thực hiện sáu nhiệm vụ cơ bản trên. Trong các ủy ban có sự phân công cụ thể: tổ chức và giám đốc các cơ quan y tế, vệ sinh, cứu tế, bài trừ hủ tục; tổ chức và điều khiển các cuộc giải trí công cộng, du lịch, ca kịch, chiếu bóng, hội hè; tổ chức và trông coi công cuộc giáo dục Nhân dân: mở trường học, chống nạn mù chữ, mở thư viện…
Đội ngũ cán bộ thực hiện hoạt động công vụ phải bảo đảm cần, kiệm, liêm, chính. Tính liêm chính, minh bạch trong xây dựng chính quyền cũng đã được thể hiện khá rõ nét trong tư tưởng Hồ Chí Minh với tác phẩm “Cần, Kiệm, Liêm, Chính” tháng 6-1949 với bút danh Lê Quyết Thắng. Trong đó, Liêm là “trong sạch không tham lam…”, “là không tham địa vị. Không ham tiền tài… chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ”. Chính “là không tà…, là thẳng thắn, đứng đắn”. Việc gì cũng phải công minh chính trực; không tư ân, tư huệ, tư thù, tư oán…11.
Tư tưởng Hồ Chí Minh hướng tới xây dựng một chính quyền kiến quốc, liêm chính theo đuổi mục tiêu xây dựng một xã hội trong đó mọi người có cơm ăn, áo mặc, được học hành, chữa bệnh; một xã hội có quan hệ tốt đẹp giữa con người với con người, hay nói cách khác, đó là một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, dân giàu, nước mạnh, hướng tới các giá trị chân, thiện, mỹ. Người không chỉ quan tâm đến mức sống mà còn quan tâm tới chất lượng cuộc sống, trong đó lấy giá trị nhân văn làm nền tảng. Đó là một xã hội phát triển và phát triển bền vững, đạt tới mục tiêu tự do, hạnh phúc cho con người.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về những giá trị phát triển xã hội vẫn còn nguyên giá trị. Trong giai đoạn hiện nay, mặc dù những quy luật của kinh tế thị trường đã trở thành khuynh hướng chủ đạo trong sự phát triển của nền kinh tế thế giới không thể phủ định, nhưng nó không phải là đáp án vạn năng đem lời giải cho mọi bài toán phát triển xã hội. Bên trong bản chất của kinh tế thị trường luôn tồn tại những nhược điểm và giới hạn nhất định, nhất là xét đến tương quan với các lĩnh vực chính trị, văn hóa – xã hội và môi trường sống. Những mặt trái mà kinh tế thị trường đem lại cản trở việc đạt được các mục tiêu quốc gia liên quan đến công bằng xã hội và giải quyết các vấn đề xã hội. Vì lẽ đó, quản lý xã hội cần phải có sự tham gia, phối hợp của Nhà nước và Nhân dân như những chỉ dẫn rõ ràng, sáng suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh để lại.
Như vậy, để có thể xây dựng một chính phủ kiến tạo với đủ tiêu chí liên quan đến sự minh bạch và hiệu quả của hệ thống chính sách, pháp luật, sự chủ động của thị trường, sự thích ứng mang tính toàn cầu của môi trường kinh doanh, sự liêm chính của đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước, cần phải tính đến mối quan hệ nhà nước, thị trường và Nhân dân tại Việt Nam hiện nay. Nói cách khác, lấy hiệu quả phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội với các chỉ báo về công bằng xã hội và tiến bộ xã hội làm thước đo, xây dựng chính phủ kiến tạo, liêm chính cần đặt trên nền tảng mối quan hệ theo xu thế cân bằng về nghĩa vụ và quyền hạn xã hội giữa nhà nước pháp quyền, thị trường và nhân dân ở nước ta.
4. Kết luận
Xây dựng chính phủ kiến tạo, liêm chính, hành động và phục vụ là tạo ra thể chế quản trị hiệu quả của một chính phủ mạnh với một nền công vụ chuyên nghiệp, gọn nhẹ, minh bạch, luôn sáng tạo và lấy sự cống hiến, phục vụ lợi ích quốc gia, dân tộc làm chính, tạo điều kiện để kinh tế phát triển song hành với thực hiện các mục tiêu công bằng xã hội. Do đó, xây dựng chính phủ kiến tạo đòi hỏi phải có nhiều giải pháp đồng bộ, phải được sự đồng tình ủng hộ của toàn thể hệ thống chính trị và toàn dân tộc Việt Nam, đặc biệt cần quyết tâm chính trị cao và lãnh đạo quyết liệt của Đảng.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng lý luận vững chắc để xây dựng chính phủ kiến tạo, liêm chính, đáp ứng yêu cầu của cách mạng công nghiệp 4.0. Trên cơ sở đó, Chính phủ phải ứng dụng công nghệ số, đồng thời bảo đảm liêm chính, phục vụ nhân dân, chống quan liêu, tham nhũng. Trong bối cảnh hiện nay, chúng ta cần tiếp tục xây dựng Chính phủ điện tử, Chính phủ số trên cơ sở minh bạch, trách nhiệm giải trình, hướng đến một nhà nước pháp quyền vững mạnh, hiện đại.
Những giá trị tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân, do dân, vì dân, cần, kiệm, liêm, chính… có giá trị lý luận và thực tiễn quý báu trong xây dựng chính phủ kiến tạo, liêm chính trong bối cảnh cách mạng 4.0 ở Việt Nam hiện nay. Xây dựng chính phủ kiến tạo, liêm chính là một đòi hỏi tất yếu phù hợp với thực tại phát triển của xã hội. Xây dựng chính phủ kiến tạo, liêm chính cần phải có lộ trình rõ ràng với những chỉ báo cụ thể, để chính phủ kiến tạo, liêm chính thực sự trở thành một công thức phát triển xã hội trong công tác quản lý nhà nước hiện nay.
Chú thích:
1, 6, 11. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 6. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, tr. 243 – 247.
2, 8, 10. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 4. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, 2011, tr. 56 – 57, 55 – 56, 23 – 25.
3, 4. Chalmers Johnson (1982). MITI and the Japanese miracle. Stanford University Press. CA.
5. Nguyễn Sĩ Dũng (2017). Bàn về Quốc hội – những thách thức của những khái niệm. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 29.
7. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 2. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, tr. 275.
9. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 5. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, tr. 612 – 613.
Tài liệu tham khảo:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I, II.H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.