Hợp tác quốc tế trong phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia

ThS. Phạm Thị Thu
Phu nhân ngoại giao, Tổng Lãnh sự quán Việt Nam tại San Francisco, Hoa Kỳ

(Quanlynhanuoc.vn) – Hợp tác quốc tế trong phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia là yêu cầu cấp thiết trong bối cảnh phát triển của đất nước. Bài viết phân tích những lợi thế về hợp tác quốc tế trong phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao; nhận diện những hạn chế trong quản lý nhà nước về vấn đề này và đề xuất một số định hướng giải pháp quản lý nhà nước về hợp tác quốc tế trong phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia hiện nay.

Từ khóa: Quản lý nhà nước; hợp tác quốc tế; phát triển; nguồn nhân lực chất lượng cao; khoa học, công nghệ; đổi mới sáng tạo; chuyển đổi số quốc gia.

1. Đặt vấn đề

Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia có ý nghĩa quan trọng hàng đầu và cấp thiết trong bối cảnh phát triển của nước ta hiện nay. Đặc biệt, Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia khẳng định: “Phát triển, trọng dụng nhân lực chất lượng cao, nhân tài đáp ứng yêu cầu phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia” và “Khẩn trương, quyết liệt hoàn thiện thể chế; xoá bỏ mọi tư tưởng, quan niệm, rào cản đang cản trở sự phát triển; đưa thể chế thành một lợi thế cạnh tranh trong phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số”1. Như vậy, có thể khẳng định phát triển nhân lực chất lượng cao là chìa khóa then chốt cho phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia và đặt ra những yêu cầu hoàn thiện thể chế để bảo đảm phát triển nguồn nhân lực này. 

2. Những lợi thế của hợp tác quốc tế trong phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao

Một là, tạo lập môi trường bình đẳng để tiếp cận và cập nhật tiến bộ của khoa học, công nghệ trên thế giới.

Hợp tác quốc tế được thể hiện đa dạng, dưới các hình thức song phương, đa phương giữa các quốc gia với nhau và với các nhóm, khối liên minh các quốc gia trên thế giới. Mức độ hợp tác phụ thuộc vào chiến lược và mức độ quan hệ, phụ thuộc lẫn nhau giữa các bên tham gia, dẫn đến các cấp độ hợp tác là khác nhau, như: đối tác chiến lược toàn diện, đối tác toàn diện, đối tác chiến lược, đối tác chiến lược lĩnh vực hoặc dưới dạng quan hệ đặc biệt.

Hiện thực hóa các quan hệ hợp tác chính là việc tham gia ký kết các công ước; hiệp ước; hiệp định; thỏa thuận quốc tế… Hợp tác quốc tế tạo lập môi trường bình đẳng giữa các đối tác được thể hiện rõ nhất thông qua các Hiệp định thương mại tự do (FTA), cụ thể như EVFTA chẳng hạn, khi đó Việt Nam sẽ có cơ hội bình đẳng trong xuất nhập khẩu hàng hóa, trong thuế xuất, trong đầu tư… Đồng thời, thông qua đó, có cơ hội được tiếp cận, tiếp nhận, chuyển giao khoa học và công nghệ tiên tiến. Chính quá trình này đã thúc đẩy mạnh mẽ cho nhân lực Việt Nam tạo lập môi trường bình đẳng để tiếp cận và cập nhật tiến bộ của khoa học, công nghệ trên thế giới.

Hai là, có cơ hội tiếp thu, làm chủ khoa học, công nghệ tiên tiến trên thế giới.

Thông qua hợp tác quốc tế sẽ hình thành nên các chương trình, dự án hợp tác ở các lĩnh vực khác nhau, trong đó nhân lực là yếu tố then chốt và là trung tâm của quá trình hợp tác. Các chương trình, dự án hợp tác quốc tế đều quy định rõ tiêu chuẩn và khung pháp lý để nhân lực của các bên tham gia phát triển và triển khai. Đây là hành lang pháp lý bảo đảm nhân lực của Việt Nam có cơ hội tham gia và được bảo đảm an toàn và phát triển trong khung khổ hợp tác quốc tế.

Làm việc trong môi trường hợp tác quốc tế là cơ hội để đội ngũ nhân lực Việt Nam được tiếp xúc với các chuyên gia về khoa học, công nghệ toàn cầu; được tiếp nhận, hiểu, áp dụng khoa học và công nghệ tiên tiến. Đây là quá trình dịch chuyển từ địa vị lao động phụ thuộc sang phụ thuộc lẫn nhau và hướng tới tự chủ, làm chủ khoa học, công nghệ. Từ sự tự chủ này, đội ngũ nhân lực Việt Nam sẽ tiếp tục nghiên cứu, vận dụng sáng tạo khoa học và công nghệ phù hợp với bối cảnh phát triển của nước ta.

Như vậy, hợp tác quốc tế là cơ hội, tạo động lực phát triển nhanh, bền vững, hiệu quả nhất để Việt Nam có thể đi tắt, đón đầu khoa học và công nghệ tiên tiến trên thế giới, đúng như yêu cầu mà Chính phủ đặt ra: đẩy mạnh hợp tác quốc tế và hội nhập, đặc biệt là chuyển giao công nghệ nguồn, công nghệ lõi, tiên tiến nhất để “xoay chuyển tình thế, thay đổi trạng thái nhanh nhất, nhất là các lĩnh vực xác định ưu tiên”3.

Ba là, tạo lập con đường làm chủ khoa học, công nghệ trên thế giới ngắn nhất, nhanh nhất và hiệu quả nhất.

Nhiều quốc gia trên thế giới đã thành công khi lựa chọn chiến lược đi tắt đón đầu, họ tiếp nhận và chuyển giao ngay khoa học, công nghệ tiên tiến trên từ các quốc gia thế giới trong một thời gian ngắn. Điều này giúp cho đất nước của họ có nền khoa học tiên tiến, công nghệ hiện đại, tạo ra sản phẩm theo kịp, đáp ứng yêu cầu tiêu thụ và phát triển của xã hội hiện đại. Một lý do khác, do vòng đời của công nghệ hiện đại rất ngắn, nên họ ưu tiên chiến lược tiếp nhận và chuyển giao công nghệ tiến bộ của quốc tế hơn là tự nghiên cứu và chế tạo công nghệ tương tự, sẵn có.

Các nước phát triển trên thế giới luôn mang ý chí tự cường về khoa học, công nghệ. Một mặt họ chủ động nghiên cứu khoa học cơ bản và hình thành các công nghệ lõi mà đất nước của họ có lợi thế (cả về nhân lực và nguồn tài nguyên…); mặt khác, họ tiếp nhận nhanh khoa học, công nghệ tiên tiến trên thế giới để tiếp tục vận dụng sáng tạo chính khoa học và công nghệ đó theo chiến lược phát triển của quốc gia. Điều này tạo nên những giá trị sáng tạo khoa học, công nghệ mà chỉ có quốc gia đó mới sở hữu được.

3. Những rào cản, điểm nghẽn của hợp tác quốc tế trong phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao

Thứ nhất, thể chế, đặc biệt là cơ chế, chính sách quản lý nhà nước về hợp tác quốc tế chưa đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao

Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia đã chỉ ra điểm nghẽn, hạn chế trong phát triển khoa học, công nghệ ở nước ta: “thể chế pháp luật, cơ chế, chính sách chưa đáp ứng yêu cầu; nguồn nhân lực chất lượng cao còn thiếu”6. Như vậy, cơ chế, chính sách của Nhà nước cũng tồn tại những hạn chế nhất định mà điểm nghẽn của nó chính là chính sách quản lý nhà nước về khoa học công nghệ, trong đó bao trùm việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Đặc biệt, chưa khơi thông nguồn lực phát triển khoa học công nghệ của tư nhân tại nước ta. Đầu tư cho phát triển khoa học và công nghệ chủ yếu từ nguồn vốn của nhà nước, điều này tạo ra sự hạn chế phát triển khoa học, công nghệ của nước ta trong một thời gian khá dài.

Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 569/QĐ-TTg ngày 11/5/2022 về Chiến lược phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đến năm 2030. Theo đó, chiến lược khẳng định: “Hoàn thiện hệ thống pháp luật về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo phù hợp với cơ chế thị trường và thông lệ quốc tế; đồng bộ hóa các quy định pháp luật, chính sách liên quan đến khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo theo hướng tháo gỡ các nút thắt, rào cản, tạo thuận lợi tốt nhất cho phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Tăng cường các công cụ và chính sách đột phá nhằm khuyến khích và thúc đẩy ứng dụng công nghệ mới và đổi mới sáng tạo để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp”7. Tuy nhiên, điểm nghẽn chính là thiếu tính hệ thống, tổng thể và thiếu đột phát, đặc biệt là không khơi dậy tiềm lực trong nhân dân và trong kinh tế tư nhân để đầu tư phát triển khoa học, công nghệ. Mặt khác, quản lý nhà nước về khoa học, công nghệ tồn tại quá nhiều bộ, ngành quản lý, chia nhỏ, manh mún. Các địa phương được phân quyền nhưng thiếu cả nguồn lực, vốn, tư liệu sản xuất, liên kết vùng phục vụ cho phát triển khoa học, công nghệ.

Thứ hai, đầu tư cho phát triển khoa học, công nghệ còn thấp và không hiệu quả

Theo kiểm toán nhà nước, kinh phí đầu tư cho khoa học công nghệ còn rất thấp, cụ thể giai đoạn 2020 – 2022: Bất cập nổi cộm là kinh phí đầu tư từ ngân sách nhà nước cho khoa học và công nghệ trong những năm qua chưa đạt tỷ lệ tối thiểu 2% tổng chi ngân sách nhà nước theo yêu cầu của Nghị quyết số 20-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI), Luật Khoa học và công nghệ và đạt tỷ lệ rất thấp so với GDP. Kết quả kiểm toán ghi nhận, dự toán chi ngân sách nhà nước bố trí cho khoa học và công nghệ trung bình giai đoạn 2020 – 2022 là 17.494 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ 1,01% tổng chi ngân sách nhà nước, đạt 0,2% GDP… Một bất cập nữa là việc xác định mục tiêu của Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ và đổi mới sáng tạo chưa phù hợp. Đến năm 2025, nếu tổng chi quốc gia cho khoa học và công nghệ đạt 0,8% – 1% GDP và đóng góp của xã hội cho nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ chiếm 60% – 65%, thì tổng đầu tư cho khoa học và công nghệ phải đạt từ 2% – 2,8% GDP, không phải là 1,2% – 1,5% GDP như Chiến lược đề ra8.

Theo đó, Kiểm toán nhà nước cũng chỉ ra nguyên nhân của vấn đề trên là: “do cơ chế chính sách còn vướng mắc, thiếu đồng bộ, một số văn bản chậm sửa đổi hoặc chậm ban hành dẫn đến khó khăn trong việc triển khai phát triển khoa học và công nghệ; chưa có quy định về đấu giá tài sản là kết quả nghiên cứu, tài sản trí tuệ; chưa có cơ chế để bảo vệ quyền lợi cho các tổ chức nghiên cứu công sở hữu các kết quả nghiên cứu, tài sản trí tuệ như sáng chế, bản quyền, nhãn hiệu thương mại”9.

Thứ ba, chưa phát huy lợi thế quốc gia trong phát triển toàn diện khoa học, công nghệ và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao

Hợp tác quốc tế để phát triển toàn diện khoa học, công nghệ và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là tất yếu. Tuy nhiên, phương thức hợp tác còn tồn tại bất cập trong việc chúng ta chưa khai thác hết lợi thế quốc gia. Hợp tác quốc tế xét cho cùng là mang lại lợi ích thỏa đáng giữa các bên đối tác tham gia, trong đó có sự trao đổi giá trị đan xem giữa vật chất, tài nguyên, tài chính, thông tin, nhân lực, vị thế chính trị, văn hóa, địa chiến lược, quốc phòng, an ninh; giá trị truyền thống của dân tộc; giá trị của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giá trị cư trú… Trong thực tế, chúng ta chưa khai thác triệt để lợi thế này trong đàm phán, trao đổi và hợp tác phát triển khoa học, công nghệ cho Việt Nam. Như vậy, chưa đưa các hệ giá trị khác ngoài khoa học, công nghệ để trao đổi và hợp tác quốc tế vì chính khoa học, công nghệ đó.

Bên cạnh đó, lực lượng kiều bảo là các chuyên gia đang công tác tại các nước phát triển trên thế giới là khá đông đảo. Tuy nhiên, việc thu hút đội ngũ này hợp tác và trở về nước phục vụ phát triển khoa học và công nghệ nước ta là chưa hiệu quả. Thực trạng này có nguyên nhân xuất phát từ cơ chế quản lý nhà nước chưa đủ sức thuyết phục sự tham gia cống hiến của đội ngũ này, đồng thời, hạ tầng và môi trường thực hành khoa học, công nghệ của Việt Nam vừa thiếu lại lạc hậu, khiến cho nguy cơ được làm khoa học, công nghệ và cống hiến không có, làm giảm động lực và tính hấp dẫn thu hút lực lượng kiều bào này trong thời gian qua.

Thứ tư, đội ngũ nhân lực thiếu về số lượng và yếu về năng lực để tham gia tiếp cận khoa học, công nghệ trong môi trường hợp tác quốc tế.

Tỷ lệ đội ngũ nhân lực khoa học, công nghệ có năng lực đọc hiểu tài liệu ngoại ngữ phổ thông là thấp, đội ngũ có năng lực thông hiểu tài liệu khoa học, công nghệ chuyên ngành, học thuật lại càng thấp trong mỗi tổ chức khoa học, công nghệ của Việt Nam. Bên cạnh đó, hoạt động khoa học và công nghệ đòi hỏi năng lực trao đổi, đàm phám, phân tích, đánh giá và cần có năng lực nói và trình bày bằng ngoại ngữ một cách thuyết phục để hợp tác khoa học và chuyển giao công nghệ. Tỷ lệ nhân lực sử dụng thành thạo ngoại ngữ để nói và viết trong hợp tác khoa học, công nghệ trong mỗi tổ chức khoa học, công nghệ là rất thấp.

Bên cạnh đó, kỹ năng làm việc trong môi trường quốc tế còn hạn chế cả về kỹ năng quản lý, cả về kỹ năng thực thi chuyên môn. Các chuẩn mực kỹ năng quốc tế chưa được trang bị đầy đủ và toàn diện cho đội ngũ nhân lực khoa học, công nghệ. Trong thực tế, đội ngũ này làm việc đều dựa trên kinh nghiệm cá nhân. Tính chủ động trong tương tác quốc tế của phần lớn đội ngũ này không có, dẫn đến sự phụ thuộc vào tổ chức quản lý nhân sự đó.

Một thực tế là hệ thống hạ tầng khoa học, công nghệ, các vườn ươm, các phòng thí nghiệm quá lạc hậu ở nước ta. Đặc biệt tính liên thông, tính quy chuẩn, đồng bộ và tính thống nhất của dữ liệu khoa học, công nghệ của Việt Nam chưa hình thành, hơn nữa sự chia sẻ những thành tựu, kết quả giũa các bên là chủ trì các  hoạt động khoa học, công nghệ còn hạn chế, tạo ra sự lãng phí, manh mún, đôi khi tạo ra sự trùng lặp trong và giữa các công trình, sản phẩm khoa học, công nghệ ở nước ta.

Như vậy, năng lực của đội ngũ nhân lực khoa học, công nghệ ở nước ta đang tồn tại những hạn chế nhất định. Nguyên nhân căn bản và trước tiên thuộc về cơ chế, chính sách quản lý nhà nước, trong đó chưa cởi trói và tạo động lực thực sự cho khoa học, công nghệ nước nhà phát triển, đặc biệt là đội ngũ nhân lực khoa học, công nghệ chất lượng cao.  

4. Những giải pháp định hướng

Thứ nhất, đổi mới tổ chức và quản lý nhà nhà nước về hợp tác quốc tế trong phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.

Bối cảnh cuộc cách mạng tinh gọn tổ chức bộ máy đang diễn ra ở nước ta và những xu hướng phát triển thế giới hiện đại đang đặt ra phải đổi mới căn bản, toàn diện quản lý nhà nước về khoa học, công nghệ; trong đó có hợp tác quốc tế trong phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.

Xu hướng hợp tác trên thế giới luôn diễn ra trong cạnh tranh, hợp tác trong môi trường bất định. Xu hướng bảo hộ dân tộc đang phát triển gây ra những chia rẽ và mâu thuẫn, xung đột mới giữa các quốc gia, ảnh hưởng toàn cầu. Cùng với Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư phát triển, cấu trúc trong lực lượng sản xuất thay đổi dựa trên nền tảng số, các quan hệ sản xuất cũng thay đổi; tri thức và công nghệ ngày càng nắm giữ giá trị và trở thành tài sản sở hữu lớn trong cấu trúc giá trị kinh tế. Xu hướng trên đặt ra yêu cầu các quốc gia phải thay đổi mạnh mẽ quản lý nhà nước về hợp tác quốc tế để phát triển nhân lực khoa học, công nghệ của mình.

Bối cảnh trong nước và quốc tế đã đặt ra sự thay đổi mục tiêu phát triển khoa học và công nghệ của Việt Nam hiện nay. Điều này đặt ra yêu cầu quản lý nhà nước phải đổi mới mạnh mẽ, trước hết là đổi mới chức năng quản lý nhà nước về lĩnh vực này. Quản lý nhà nước sẽ có chức năng kiến tạo và giám sát, kiểm tra là chủ yếu; đồng thời phân cấp, phân quyền cho các bên liên quan được chủ động lập kế hoạch, thực hiện, đánh giá… Như vậy, cần tái cấu trúc bộ máy quản lý nhà nước về khoa học, công nghệ ở cả cấp chính quyền trung ương và chính quyền địa phương hai cấp ở nước ta hiện nay, trong đó có tái cấu trúc chức năng, tổ chức của bộ máy quản lý nhà nước về hợp tác quốc tế trong phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.

Thứ hai, tăng cường đầu tư cho nguồn nhân lực chất lượng cao thông qua hợp tác quốc tế.

Nhân lực khoa học, công nghệ là nền tảng, hạt nhân để phát triển khoa học và công nghệ của mọi quốc gia. Nhân lực cần được đào tạo, bồi dưỡng trước tiên để có khả năng hiểu biết, định hướng, tiếp nhận và hợp tác khoa học, công nghệ cho chính quốc gia đó. Chính đội ngũ nhân lực chất lượng cao sẽ quyết định sự thành công nền khoa học, công nghệ của mỗi quốc gia.

Trong bối cảnh và định hướng phát triển khoa học, công nghệ của Đảng ta, đội ngũ nhân lực khoa học, công nghệ cần được ưu tiên đầu tư và đào tạo, bồi dưỡng trước khi đầu tư hạ tầng khoa học, công nghệ quốc gia. Vận dụng hợp tác quốc tế trong đào tạo, bồi dưỡng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ khoa học, công nghệ cho đất nước là cách đi hiệu quả và tối ưu nhất trong bối cảnh yêu cầu phát triển nhanh và bền vững ở nước ta hiện nay. Nó cũng cho thấy đây là cách làm phù hợp với xu hướng hợp tác trên thế giới hiện nay.

Vì vậy, quản lý nhà nước về hợp tác quốc tế trong phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ khoa học, công nghệ cần có cơ chế và chính sách đầu tư hữu hiệu và đặc thù. Tập trung đổi mới cơ chế, chính sách đầu tư vào phát triển các ngành khoa học, công nghệ chiến lược, có tính đột phá, dựa trên lợi thế cạnh tranh và hợp tác quốc tế mà Việt Nam đang có. Các chính sách này phải tạo động lực để huy động nguồn vốn xã hội hóa, toàn dân, tạo ra sức hút đầu tư toàn cầu vì sự phát triển khoa học và công nghệ của Việt Nam.

Thứ tư, kiến tạo môi trường hợp tác quốc tế về khoa học, công nghệ một cách đa dạng dựa trên lợi thế của quốc gia.

Môi trường hợp tác quốc tế về khoa học, công nghệ là điều kiện quan trọng, sau nguồn nhân lực, quyết định đến sự thành công phát triển khoa học và công ghệ của quốc gia đó. Vì vậy, quản lý nhà nước cần có chính sách kiến tạo môi trường đầu tư quốc tế về khoa học, công nghệ cho Việt nam và vì Việt Nam. Điều này đòi hỏi phân cấp, phân quyền trong quản lý nhà nước phải thay đổi mạnh mẽ. Chúng tôi cho rằng các cơ quan quản lý nhà nước về khoa học công nghệ nên giới hạn trong chức năng của mình là kiến tạo, định hướng và kiểm tra giám sát hoạt động khoa học, không nghệ. Các chức năng như lập kế hoạch, thực thi, đánh giá, cung ứng và ứng dụng sản phẩn khoa học dành cho các đối tác khoa học, công nghệ còn lại như các Viện nghiên cứu, Trường Đại học, doanh nghiệp… thực hiện. Như vậy, nhà nước không can thiệp quá sâu vào hoạt động này, trái lại, khuyến khích và trao quyền tự chủ cho các bên liên quan trong hợp tác khoa học, công nghệ.

Kiến tạo môi trường hạ tầng khoa học, công nghệ cho Việt Nam là hết sức cần thiết. Môi trường đầu tư tài chính minh bạch, hiệu quả; môi trường vật chất, phương tiện, kỹ thuật dành cho nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao công nghệ tiên tiến là cần thiết. Đặc biệt là môi trường dữ liệu số về khoa học, công nghệ. Thực tế, dữ liệu số về khoa học, công nghệ tiên tiến là sở hữu độc quyền của mỗi quốc gia, tổ chức. Vì vậy không dễ được chia sẻ. Vì vậy, kiến tạo các chính sách để chia sẻ dữ liệu này, tạo ra môi trường hạ tầng khoa học, công nghệ cho Việt nam là cần thiết. Muốn vậy, các chính sách và điều kiện tiếp nhận phải bảo vệ được quyền sở hữu trí tuệ, bảo đảm an toàn, phát huy hiệu quả, chứa đựng giá trị tôn vinh giữa các quốc gia, tổ chức, cá nhân trong hợp tác quốc tế.

Thứ tư, xây dựng khung tiêu chuẩn đánh giá và kiểm định quốc gia trong hợp tác quốc tế về khoa học, công nghệ.

Bối cảnh hợp tác và cạnh tranh giữa các nước phát triển trên toàn cầu ngày càng gia tăng, đa dạng dưới các cách thức khác nhau, trong đó cạnh tranh về khoa học, công nghệ là xu hướng ưu tiên hàng đầu. Các cường quốc trên thế giới thường sử dụng công nghệ lõi để tạo ra lợi thế cạnh tranh và hợp tác quốc tế. Tuy nhiên, do tính đa dạng của công nghệ, nên các quốc gia cần có những ưu tiên trong tiếp cận, sử dụng và ứng dụng khoa học, công nghệ phù hợp với bối cảnh chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa của từng quốc gia đó.

Trong bối cảnh phát triển của Kỷ nguyên mới ở nước ta, cần xây dựng khung tiêu chuẩn đánh giá và kiểm định quốc gia trong hợp tác quốc tế về khoa học, công nghệ. Điều này thỏa mãn các yêu cầu phục vụ hoạt động hợp tác quốc tế về khoa học, công nghệ. Loại bỏ tình trạng nhập khẩu công nghệ cũ, kém chất lượng và thiếu bền vững. Hệ thống tiêu chuẩn này cần gắn với chuẩn trong xu hướng tiến bộ của khoa học, công nghệ trên thế giới như xu hướng xanh, số, bền vững… Như vậy, đã đến lúc Việt Nam cần hình thành tổ chức kiểm định chất lượng khoa học, công nghệ một cách độc lập, chuyên trách, có vị thế và năng lực ngang tầm khu vực để một phần kiểm soát chất lượng khoa học, công nghệ trong nước; một mặt kiểm soát chất lượng khoa học, công nghệ thông qua hợp tác quốc tế của Việt nam với các đối tác quốc tế. Song song với tổ chức này, cần ban hành các quy định quốc gia về đánh giá và kiểm định chất lượng khoa học, công nghệ.  

Thứ năm, phát huy giá trị dân tộc Việt Nam trong hợp tác quốc tế phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.

Trên thế giới, rất nhiều quốc gia đã thành công trong phát triển đội ngũ nhân lực khoa học, công nghệ chất lượng cao thông qua tiếp cận dân tộc học trong thu hút, trọng dụng đội ngũ này. Đội ngũ tri thức, chuyên gia khoa học, công nghệ luôn hướng về cội nguồn, dân tộc, quê hương, đất nước để đóng góp xây dựng quê hương, đất nước của chính mình.

Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài, nhân lực chất lượng cao về khoa học, công nghệ là kiều bào về nước làm việc, tham gia hợp tác quốc tế về khoa học, công nghệ, bước đầu đã có kết quả nhất định. Tuy nhiên hiệu quả và chất lượng trong thực tế còn hạn chế. Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia là định hướng chiến lược, cởi trói và tạo động lực thực sự để thu hút đội ngũ này tham gia phát triển nền khoa học, công nghệ của nước nhà. Tuy nhiên vấn đề tồn tại ở khâu thực thi, vì vậy quản lý nhà nước về hợp tác quốc tế để thu hút đội ngũ này cần đổi mới mạnh mẽ với cơ chế, chính sách mới, đặc thù, tạo ra môi trường an toàn, thỏa mãn nhu cầu tôn vinh và tự do sáng tạo, cống hiến và thể hiện bản ngã của mỗi cá nhân nhà khoa học, chuyên gia và nhân tài công nghệ.

Cơ chế, chính sách thu hút không chỉ kiều bào Việt Nam mà còn trực tiếp thu hút, hấp dẫn các nhà khoa học, chuyên gia quốc tế. Chúng ta cần xây dựng Việt Nam là “ngôi nhà thứ hai” của đội ngũ này. Muốn vậy các chính sách quản lý nhà nước về nhập cư cần đổi mới, các chính sách an sinh khác cần đổi mới để tạo lợi thế cạnh tranh quốc tế trong thu hút nhân tài, chuyên gia khoa học, công nghệ quốc tế đến sống và làm việc cho Việt Nam và vì Việt Nam.

5. Kết luận

Phát huy lợi thế về hợp tác quốc tế trong phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia hiện nay là tất yếu khách quan. Vì vậy, cần đổi mới có hệ thống, đồng bộ, toàn diện về quản lý nhà nước trong hợp tác quốc tế nhằm phát triển đội ngũ nhân lực chất lượng cao về khoa học, công nghệ. Đổi mới này cần dựa trên nghị quyết của Đảng gắn với xu hướng và chiến lược hợp tác quốc tế về khoa học, công nghệ trên toàn cầu. Như vậy, cần phải nghiên cứu tiếp cận quốc tế, tham khảo kinh nghiệm thành công của các quốc gia phát triển để từ đó có căn cứ đề xuất đổi mới quản lý nhà nước về hợp tác quốc tế tế trong phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia trong thời gian tới.

Chú thích:
1. Tạo đột phá để khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trở thành động lực chủ yếu cho tăng trưởng kinh tế và phát triển đất nước nhanh, bền vững. https://www.tapchicongsan.org.vn, ngày 18/01/2022.
2. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng. https://www.tapchicongsan.org.vn, ngày 24/4/2023.
3. Thủ tướng: Chuyển giao công nghệ tiên tiến nhất để “xoay chuyển tình thế, thay đổi trạng thái” nhanh nhất. https://baochinhphu.vn, ngày 11/02/2025.
4. Trường phái đối ngoại, ngoại giao “cây tre Việt Nam” trong sự nghiệp đổi mới đất nước. https://www.tapchicongsan.org.vn, ngày 06/6/2024.
5. 12 nước có quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với Việt Nam. https://nhandan.vn, ngày 10/5/2025.
6. Bộ Chính trị (2024). Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
7. Thủ tướng Chính phủ (2022). Quyết định số 569/QĐ-TTg ngày 11/5/2022 ban hành Chiến lược phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đến năm 2030.
8. Quản lý, sử dụng kinh phí đầu tư cho khoa học công nghệ còn bất cập. https://sav.gov.vn, 29/5/2024.