NCS. ThS. Chu Thị Diệp
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
(Quanlynhanuoc.vn) – Thực hiện cuộc cách mạng tinh gọn tổ chức bộ máy hiện nay, việc làm rõ một số vấn đề lý luận, khảo sát thực trạng, đề xuất giải pháp nhằm nâng cao đạo đức công vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức là việc làm cấp thiết mang ý nghĩa đặc biệt quan trọng, vấn đề này không chỉ góp phần vào việc xây dựng Đảng trong sạch, Nhà nước vững mạnh mà còn tạo dựng niềm tin của Nhân dân vào hệ thống chính trị.
Từ khóa: Đạo đức công vụ, cán bộ, công chức, viên chức, tinh gọn bộ máy, hệ thống chính trị.
1. Đặt vấn đề
Khi đất nước đang chuyển mình, bước vào giai đoạn thực hiện cuộc cách mạng cải cách hành chính sâu rộng nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ vừa hồng, vừa chuyên để phục vụ Nhân dân một cách tốt nhất thì vấn đề xây dựng đạo đức công vụ cho cán bộ, công chức, viên chức lại càng trở nên cấp bách. Đây không chỉ là vấn đề xây dựng Đảng trong sạch, Nhà nước vững mạnh mà còn củng cố niềm tin của Nhân dân vào hệ thống chính trị. Do vậy, việc làm rõ một số vấn đề lý luận, khảo sát thực trạng, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao đạo đức công vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức là việc làm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay.
2. Một số vấn đề lý luận về đạo đức công vụ
Đạo đức công vụ là một bộ phận của đạo đức phản ánh mối quan hệ của các tổ chức, cá nhân trong lĩnh vực công. Theo Luật Cán bộ, công chức năm 2008, (sửa đổi 2019): “Cán bộ, công chức có nghĩa vụ giữ gìn phẩm chất đạo đức, trung thực, khách quan, công bằng, liêm chính, tận tụy phục vụ Nhân dân…”1; Ở Việt Nam hiện nay, đạo đức công vụ được hiểu là hệ thống các chuẩn mực, nguyên tắc, quy tắc ứng xử điều chỉnh hành vi của những người làm việc trong lĩnh vực công (cán bộ, công chức, viên chức…) trong quá trình thực thi nhiệm vụ, quyền hạn được giao nhằm bảo đảm sự liêm chính, tuân thủ pháp luật, minh bạch, công bằng, khách quan, trách nhiệm, gương mẫu, tận tụy phục vụ Nhân dân vì lợi ích công.
Nội hàm của đạo đức công vụ, bao gồm: tận tụy với công việc, phục vụ Nhân dân; trung thực, liêm chính, không vụ lợi cá nhân; tuân thủ pháp luật, tôn trọng các quy định của Nhà nước; trách nhiệm, minh bạch, giải trình trước tổ chức và người dân; công bằng, khách quan, không phân biệt đối xử; gương mẫu, chuẩn mực trong hành vi, lời nói, trong và ngoài công sở.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn cán bộ, đảng viên phải giữ đạo đức cách mạng, Người ví đạo đức cách mạng như gốc rễ của cây, như nguồn của sông suối, khi “sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được Nhân dân”2… Tiêu chuẩn hàng đầu của cán bộ công chức, viên chức là “quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng”3, đã khoác lên mình cái danh làm cán bộ cách mạng thì phải “ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật của Đảng,… Đặt lợi ích của Đảng và của Nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình. Hết lòng hết sức phục vụ Nhân dân. Vì Đảng, vì Nhân dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc”4.
Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ XIII của Đảng cũng khẳng định: đạo đức của cán bộ, công chức, viên chức phải “bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia – dân tộc”5, bởi vì cán bộ, công chức, viên chức là người được Nhân dân trả lương, làm việc cho Nhân dân. Bảo vệ lợi ích quốc gia còn là trách nhiệm, bổn phận của mọi công dân, trong đó, cán bộ, công chức, viên chức phải nhận thức lợi ích quốc gia – dân tộc là nguyên tắc bất biến, là “kim chỉ nam” trong tư tưởng đạo đức công vụ.
Trước hết, cán bộ, công chức, viên chức phải thực hiện đạo đức liêm chính, tận tụy, khách quan, công bằng, minh bạch. Đạo đức liêm chính là yếu tố không thể thiếu đối với người cán bộ cách mạng. Liêm chính là trong sạch, biết xấu hổ, không tham nhũng, không xâm phạm của cải của Nhà nước và Nhân dân; không tham vọng quyền lực, địa vị, tiền tài, không đánh bóng tên tuổi, không ham người tâng bốc mình. Làm cán bộ mà “tham tiền của, tham địa vị, tham danh tiếng, tham ăn ngon, sống yên đều là bất liêm”6. Đạo đức công vụ là sống ngay thẳng, nói đúng sự thật, không lươn lẹo, làm việc tận tụy hết lòng vì nước, vì dân, không hoang phí của cải vật chất của Nhân dân, khiêm tốn. Khi được giao trách nhiệm lãnh đạo, quản lý thì phải “chí công, vô tư”, trong sáng trong công tác cán bộ, không có biểu hiện tham nhũng trong công tác cán bộ. Từ khâu giới thiệu đến khâu bổ nhiệm phải có động cơ trong sáng, không giới thiệu những cán bộ kém trình độ, năng lực theo kiểu “nợ nhau một ân tình” (trước kia anh nâng đỡ tôi, giờ tôi có quyền lực tôi lại nâng đỡ con anh). Trong thi hành công vụ phải “thiết diện vô tư”. Chống lại mọi biểu hiện của thói “đạo đức giả”, mồm thì nói cách mạng, vì nước, vì dân nhưng bên trong thì chủ nghĩa cá nhân, cục bộ, tham nhũng…
Thứ hai, chấp hành pháp luật và các quy định nghề nghiệp. Chấp hành nghiêm pháp luật trong mọi lĩnh vực; thực hiện nghiêm về giờ giấc làm việc, biết quý trọng thời gian trong quá trình làm việc với đối tác, đồng nghiệp, Nhân dân. Thực hiện đạo đức nghề nghiệp là khi được đảm nhiệm vị trí việc làm phải tận tâm, tận lực phục vụ Nhân dân, không được lợi dụng vị trí, nghề nghiệp của mình làm khó, bịp bợm dân, vòi vĩnh, nhận hối lộ của Nhân dân.
Thứ ba, có tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật. Khi được giao nhiệm vụ phải có trách nhiệm với lời nói, hành vi, việc làm của mình. Khi giải quyết các thủ tục hành chính của Nhân dân phải có tinh thần trách nhiệm, giữ chữ tín với Nhân dân; có ý thực tổ chức kỷ luật trong cơ quan, đơn vị. Thực hiện đúng chức trách nhiệm vụ được giao, thực hiện đúng giờ làm việc của cơ quan, đơn vị, không “ăn bớt” giờ làm việc, làm việc có trách nhiệm, hiệu quả. Khi được Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ phải hoàn thành nhanh chóng và chính xác; khi giải quyết các thủ tục hành chính của Nhân dân liên quan đến các tổ chức cá nhân phải thực hiện đúng pháp luật, đúng hẹn, không hứa suông để mất niềm tin của Nhân dân.
Thứ tư, thực hiện văn hóa giao tiếp, ứng xử nơi công sở. Đối với đồng chí, đồng nghiệp và Nhân dân khi phát ngôn phải có văn hóa, hòa đồng, bao dung, khiêm tốn, lễ phép. Thực hiện văn hóa công sở, khi giao tiếp với đồng chí, đồng nghiệp phải khiêm tốn; khi giao tiếp với Nhân dân phải lễ phép, không được hách dịch, cửa quyền, dọa nạt, nói năng thiếu văn hóa trước dân. Phải tôn trọng dân, lắng nghe, tiếp thu ý kiến đóng góp của Nhân dân trên tinh thần cầu thị, ứng xử với Nhân dân nhẹ nhàng, tinh tế, giải quyết các công việc nhân văn, đúng pháp luật.
3. Thực trạng đạo đức công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức ở Việt Nam hiện nay
Xác định vai trò đặc biệt quan trọng trong việc nâng cao đạo đức công vụ, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã trực tiếp chỉ đạo chỉnh đốn lại công tác cán bộ, xây dựng đạo đức công vụ cho cán bộ, công chức. Tình trạng cán bộ, công chức, viên chức vi phạm các nguyên tắc đạo đức của Đảng đã được đẩy lùi, làm trong sạch bộ máy của Đảng, Nhà nước góp phần vào xây dựng hệ thống chính trị, thúc đẩy kinh tế – xã hội ổn định, phát triển.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được vẫn còn tồn tại một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức, viên chức suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, trong đó có cả cán bộ cấp chiến lược. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức, viên chức thiếu liêm chính, không gương mẫu, làm sai quy định của Đảng, Nhà nước trong thi hành công vụ. Năm 2023, “tổng số cán bộ đảng viên, công chức, viên chức bị kỷ luật là 17.808 người”7; năm 2024, cả nước có “hơn 700 tổ chức đảng và 24.000 đảng viên vi phạm bị kỷ luật. Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã kỷ luật 68 cán bộ diện Trung ương quản lý”8. Trong đó có cán bộ thuộc Bộ Chính trị. Từ con số trên cho thấy, tình trạng cán bộ, công chức, viên chức vi phạm những điều đảng viên không được làm đang là vấn đề đáng báo động.
Những vụ tham nhũng, tiêu cực liên quan đến một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức vẫn chưa có điểm dừng. Theo Báo điện tử Pháp luật, “trong năm 2024, lực lượng cảnh sát kinh tế toàn quốc đã khởi tố mới 825 vụ án, 1.646 bị can về tội tham nhũng (tăng 16% so với năm 2023), trong đó đã xử lý nhiều bị can nguyên là cán bộ cấp cao, như: Bộ trưởng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh…”9.
Năm 2024, dư luận quan tâm những vụ án lớn, như: Vạn Thịnh Phát, Phúc Sơn, Thuận An… Đây là những vụ án đặc biệt nghiêm trọng, làm thất thoát của Nhà nước đến hàng trăm nghìn tỷ đồng. Nguy hại nhất là những vụ án này đã liên quan đến nhiều cán bộ, công chức trong bộ máy cơ quan hành chính nhà nước. Những cán bộ, công chức vi phạm quy định, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao; vi phạm đạo đức công vụ; vi phạm quy định những điều đảng viên không được làm, gây hậu quả từ mức độ nghiêm trọng đến đặc biệt nghiêm trọng làm giảm uy tín của Đảng và Nhà nước.
Tình trạng cán bộ, công chức, viên chức thiếu tinh thần trách nhiệm, buông lỏng quản lý gây hậu quả nghiêm trọng, làm thất thoát, lãng phí rất lớn tiền, tài sản Nhà nước. Năm 2024, “Hà Nội đã rà soát hơn 800 dự án có dấu hiệu thất thoát, lãng phí, tập trung xử lý 3 dự án và thu hồi hơn 42.000 tỷ đồng”10.
Tình trạng cán bộ hách dịch, cửa quyền, phát ngôn thiếu thận trọng, không bán sát thực tế gây ảnh hưởng đến uy tín của Đảng, Nhà nước vẫn diễn ra ở một số cơ quan, đơn vị, thậm chí cả những cán bộ, công chức phát ngôn chưa thực sự chuẩn mực gây ảnh hưởng xấu vẫn diễn ra ở một số cơ quan, đơn vị.
Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương (khóa XII) chỉ ra rằng: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, làm việc hời hợt, ngại khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý, trong đó có cả cán bộ cấp chiến lược, thiếu gương mẫu, uy tín thấp, năng lực, phẩm chất chưa ngang tầm nhiệm vụ, quan liêu, xa dân, cá nhân chủ nghĩa, vướng vào tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, lợi ích nhóm”11, nhưng đến nay gần hết nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng mà tình trạng này vẫn chưa được khắc phục triệt để.
Tình trạng vi phạm đạo đức đức công vụ còn thể hiện ở “bệnh xa dân”. Một bộ phận cán bộ mắc bệnh thành tích, báo cáo sai sự thật với những con số ảo xa rời thực tế cùng với lối làm việc qua loa, không bám sát vào thực tiễn, làm việc dựa trên giấy tờ, không lắng nghe ý kiến của Nhân dân, thiếu quy củ, nề nếp, chậm trễ, kéo dài thời gian giải quyết công việc liên quan đến thủ tục hành chính của nhân dân, gây phiền hà, sách nhiễu Nhân dân.
Nguyên nhân dẫn đến các hạn chế nêu trên, chủ yếu do: (1) Một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức mải chạy theo lợi ích không giữ vững phẩm chất đạo đức, dễ bị cám dỗ bởi lợi ích cá nhân, dẫn đến hành vi vụ lợi, tham nhũng, thiếu tinh thần trách nhiệm; (2) Một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức còn lười học tập, không cập nhật quy định, thiếu kiến thức pháp luật và đạo đức nghề nghiệp, từ đó dễ mắc sai phạm; (3) Một bộ phận cán bộ lợi dụng vị trí, quyền hạn tham nhũng trong công tác cán bộ, nâng đỡ một số cá nhân không trong sáng, phe cánh, hoặc thực hiện các hành vi tiêu cực như “chạy chức, chạy quyền”; (4) Hệ thống pháp luật và chính sách chưa đồng bộ, một số quy định pháp luật, quy tắc đạo đức công vụ còn chung chung, thiếu chế tài cụ thể hoặc khó giám sát thực thi; (5) Công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm đôi khi chưa nghiêm, còn nể nang, né tránh, “dĩ hòa vi quý”, làm giảm tính răn đe; (6) Môi trường làm việc chưa minh bạch, còn tồn tại tình trạng “xin – cho”, tiêu cực trong tuyển dụng, bổ nhiệm, điều động cán bộ, dẫn đến tâm lý so bì, mất động lực cống hiến và dễ sa ngã.
4. Một số giải pháp nâng cao đạo đức công vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức
Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, quy tắc đạo đức công vụ. Xây dựng, hoàn thiện pháp luật về đạo đức công vụ cần đặt trong mục tiêu tổng quát, toàn diện và đồng bộ bổ sung một số vấn đề mới liên quan đến đạo đức công vụ của cán bộ, công chức và đạo đức nghề nghiệp của viên chức trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0; điều chỉnh điều chỉnh một số điều liên quan đến mối quan hệ người nhà người thân, người cùng “ê kíp” của cán bộ, công chức trong thực thi công vụ.
Cần cụ thể hoá những nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền lợi của công chức, viên chức sau khi thực hiện cải cách hành chính chính quyền ba cấp (xã, tỉnh, Trung ương). Nhà nước cần ban hành quy định cụ thể về những điều công chức, viên chức không được làm được, không được và không nên làm để làm cơ sở cho việc giới thiệu, bổ nhiệm công chức, viên chức vào các chức vụ lãnh đạo, quản lý và làm căn cứ để khen thưởng hoặc kỷ luật cán bộ trong thi hành công vụ. cần rà soát, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách, giảm thiểu tối đa các kẽ hở để cán bộ, công chức không cần tham nhũng và không muốn tham nhũng và các biểu hiện tiêu cực khác.
Thứ hai, nâng cao hiệu quả giáo dục, bồi dưỡng đạo đức công vụ, cần chú trọng giáo dục các quy tắc, chuẩn mực đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ cán bộ công chức, viên chức, đưa các chuyên đề đạo đức công vụ vào giáo dục ở các học viện, trường đại học, trường cán bộ ở các cấp. Cùng với quá trình được đào tạo, bồi dưỡng, cần nâng cao ý thức tự rèn luyện đạo đức công vụ cho mỗi cán bộ, công chức. Sự tự ý thức, tự giáo dục, rèn luyện và thực hiện chuẩn mực đạo đức công vụ của cán bộ, công chức có vai trò rất quan trọng. Trong quá trình thực thi công vụ, cán bộ, công chức không chỉ tự nâng cao năng lực chuyên môn để đáp ứng yêu cầu công việc mà còn phải tự rèn luyện đạo đức để được Đảng, Nhà nước tin tưởng, Nhân dân yêu mến, đồng thời hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Thứ ba, cao vai trò nêu gương của người đứng đầu trong các cơ quan, đơn vị. Cá nhân người đứng đầu với vai trò người lãnh đạo, quản lý cần thường xuyên ý thức thật sâu sắc về vấn đề nêu gương, không ngừng tu dưỡng phẩm chất đạo đức. Trong thực thi công vụ luôn thực hiện đạo đức liêm chính, giữ mình trong sạch để cấp dưới làm gương. Luôn tự xem xét lại mình đã thực hiện đúng các quy định của Đảng và Nhà nước chưa? Trong điều hành công việc cần có những quyết định sáng suốt, đúng đắn vì mục tiêu trong sáng mang lại lợi ích chung cho cơ quan, đơn vị. Ứng xử có văn hóa với cấp dưới, với Nhân dân, luôn xem việc giữ gìn chữ Tín như giữ gìn sinh mạng của chính mình. Người đứng đầu cần hiểu sâu sắc rằng: tấm gương của người lãnh đạo là thể hiện ở đạo đức liêm chính, nhân, nghĩa, trí, tín và tấm lòng bao dung đúng nguyên tắc. Xây dựng hình mẫu cán bộ “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”. Thực hiện nghiêm quy định về trách nhiệm nêu gương, đặc biệt là trách nhiệm nêu gương của người đứng đầu.
Thứ tư, tăng cường minh bạch hóa hoạt động công vụ. Minh bạch hóa vấn đề tuyển dụng, bổ nhiệm, luân chuyển cán bộ, công chức, viên chức. Khắc phục triệt để tệ nạn tham nhũng trong công tác cán bộ. Cần có những quy định về đạo đức công vụ cụ thể để làm bộ tiêu chí tham chiếu đối với công tác bổ nhiệm, luân chuyển cán bộ. Bảo đảm sự tham gia của quần chúng Nhân dân vào việc đánh giá cán bộ, công chức, viên chức ở tất cả các ngành, các cấp chính quyền. Tạo điều kiện để nhân dân đánh giá mức độ hài lòng đối với đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong quá trình phục vụ Nhân dân.
Thứ năm, phát huy vai trò của thanh tra, giám sát xã hội và truyền thông, mạng xã hội đối với đội ngũ cán bộ, kịp thời phát giác những cán bộ có những biểu hiện, như: làm khó dân, vòi vĩnh, nhận hối lộ và các biểu hiện tiêu cực khác. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra đối với đội ngũ cán bộ đặc biệt là cán bộ liên quan đến các hoạt động kinh tế và cán bộ giải quyết các thủ tục hành chính cho người dân.
4. Kết luận
Xây dựng đội ngũ cán bộ giữ được chuẩn mực đạo đức công vụ nghĩa là xây dựng được Đảng, Nhà nước trong sạch vững mạnh. Đây là việc làm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với xây dựng nền công vụ hiện đại, phục vụ Nhân dân và thúc đẩy phát triển đất nước. Để làm cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức thực hiện tốt đạo đức công vụ đòi hỏi phải có sự quyết tâm cao của tất cả các cấp, các ngành trong hệ thống chính trị. Việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đạo đức, trách nhiệm và năng lực chính là yếu tố quyết định thành công của công cuộc cải cách hành chính và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Chú thích:
1. Quốc hội (2008, 2019). Luật Cán bộ, công chức năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2019.
2. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 5. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 292.
3, 4. Hồ Chí Minh toàn tập (2002). Tập 9. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 287, 285.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 161 – 162.
6. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 6. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 127.
7. Gần 18.000 cán bộ đảng viên, công chức, viên chức trên cả nước bị kỷ luật. https://tuoitre.vn/gan-18-000-can-bo-dang-vien-cong-chuc-vien-chuc-tren-ca-nuoc-bi-ky-luat-2023121911091599.htm, ngày 19/12/2023.
8. Năm 2024, hơn 700 tổ chức đảng và 24.000 đảng viên vi phạm bị kỷ luật. https://cand.com.vn/su-kien-binh-luan-thoi-su/nam-2024-hon-700-to-chuc-dang-va-24-000-dang-vien-vi-pham-bi-ky-luat-i755170/, ngày 31/12/2024.
9. Năm 2024 khởi tố mới 825 vụ án, 1.646 bị can về tội tham nhũng. https://plo.vn/video-nam-2024-khoi-to-moi-825-vu-an-1646-bi-can-ve-toi-tham-nhung-post827088.html, ngày 27/12/2024.
10. Xử lý 3 dự án lãng phí ở Hà Nội, thu hồi 42.000 tỷ đồng. https://dantri.com.vn/xa-hoi/xu-ly-3-du-an-lang-phi-o-ha-noi-thu-hoi-42000-ty-dong-20241231174148997.htm, ngày 31/12/2024.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2018). Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương (khóa XII). Văn phòng Trung ương Đảng, tr. 47.