Nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp nhằm hướng tới tăng trưởng xanh tại vùng đồng bằng sông Hồng – thực trạng và giải pháp

ThS. Vũ Thị Hồng Diệp
Trường Đại học Thành Đông

(Quanlynhanuoc.vn) – Đồng bằng sông Hồng là vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, tuy nhiên, quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa nhanh đã làm giảm diện tích đất nông nghiệp, gây ảnh hưởng đến phát triển bền vững. Bài viết phân tích thực trạng quản lý đất nông nghiệpđề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp nhằm hướng tới tăng trưởng xanh tại vùng đồng bằng sông Hồng.

Từ khóa: Đất nông nghiệp,; hiệu quả sử dụng; tăng trưởng xanh; vùng đồng bằng sông Hồng.

1. Đặt vấn đề

Đồng bằng sông Hồng trước đây bao gồm 10 tỉnh, thành phố: Hà Nội, Hải phòng, Vĩnh phúc, Bắc Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Thái Bình, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình (sau sáp nhập tỉnh, hiện nay còn bao gồm các tỉnh, thành phố: Hà Nội, Hải Phòng, Bắc Ninh, Hưng Yên, Ninh Bình là vùng kinh tế trọng điểm và trung tâm sản xuất nông nghiệp quan trọng của cả nước, với đất đai màu mỡ, hệ thống thủy lợi phát triển và truyền thống canh tác lâu đời. Dù chỉ chiếm chưa đến 5% diện tích cả nước, khu vực này đóng góp khoảng 15,5% tổng sản lượng lúa và nhiều loại cây trồng khác1. Tuy nhiên, quá trình đô thị hóa nhanh, biến đổi khí hậu và nhu cầu sử dụng đất cho công nghiệp, dịch vụ khiến diện tích đất nông nghiệp bị thu hẹp đáng kể, đặt ra yêu cầu cấp bách về quản lý, sử dụng đất hiệu quả.

Trong bối cảnh đó, phát triển nông nghiệp theo hướng tăng trưởng xanh trở thành định hướng quan trọng nhằm bảo đảm cân bằng giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường. Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 16/6/2022 của Ban Chấp hành Trung ương và Chiến lược tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 – 2030 đều nhấn mạnh vai trò của nền nông nghiệp xanh, hiện đại, thích ứng biến đổi khí hậu, trong đó sử dụng bền vững tài nguyên đất là yếu tố cốt lõi.

Tuy có tiềm năng lớn nhưng nông nghiệp vùng đồng bằng sông Hồng đang đối mặt với nhiều thách thức, như: đất bị bỏ hoang, suy giảm chất lượng do lạm dụng hóa chất, xói mòn và bạc màu đất. Những vấn đề này không chỉ làm giảm năng suất mà còn đe dọa an ninh lương thực lâu dài. Trước thực trạng đó, việc phát triển mô hình sản xuất hiện đại, thông minh, nâng cao hiệu quả sử dụng đất là điều kiện tiên quyết để thực hiện mục tiêu tăng trưởng xanh và phát triển nông nghiệp bền vững tại khu vực này.

2. Một số vấn đề về sử dụng đất nông nghiệp theo hướng tăng trưởng xanh

2.1. Khái niệm 

Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD): “Tăng trưởng xanh là cách thức thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và phát triển trong khi vẫn bảo đảm tài nguyên thiên nhiên tiếp tục cung cấp các dịch vụ môi trường cần thiết cho cuộc sống con người. Tăng trưởng xanh mở đường cho các khoản đầu tư, sáng tạo đổi mới sẽ hỗ trợ tăng trưởng bền vững và tạo ra các cơ hội kinh tế mới”2.

Tại Việt Nam, theo Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050 (ban hành kèm Quyết định số 1658/QĐ-TTg ngày 01/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ), tăng trưởng xanh được xác định “là một phương thức quan trọng để thực hiện phát triển bền vững, đóng góp trực tiếp vào giảm phát thải khí nhà kính để hướng tới nền kinh tế trung hòa các-bon trong dài hạn”.

Theo Luật Đất đai năm 2024, đất nông nghiệp là loại đất được sử dụng chủ yếu cho các hoạt động nông nghiệp bao gồm trồng trọt, chăn nuôi và sản xuất nông sản. Nhóm đất nông nghiệp, bao gồm các loại đất sau: đất trồng cây hằng năm, gồm đất trồng lúa và đất trồng cây hằng năm khác; đất trồng cây lâu năm; đất lâm nghiệp, gồm đất rừng đặc dụng, đất rừng phòng hộ, đất rừng sản xuất; đất nuôi trồng thủy sản; đất chăn nuôi tập trung; đất làm muối; đất nông nghiệp khác.

Như vậy, sử dụng đất nông nghiệp theo hướng tăng trưởng xanh là việc khai thác, quản lý và sử dụng đất nông nghiệp một cách hiệu quả, bền vững nhằm đạt được mục tiêu phát triển kinh tế nông nghiệp gắn liền với bảo vệ môi trường, bảo đảm an ninh lương thực, nâng cao chất lượng cuộc sống và tạo sinh kế bề vững cho người nông dân.

2.2. Nguyên tắc sử dụng đất nông nghiệp theo hướng tăng trưởng xanh

Tổng hợp từ các tài liệu Quyết định số 1658/QĐ-TTg, Nghị quyết số 19-NQ/TW và từ Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hiệp quốc (FAO)3, các nguyên tắc được đưa ra trong sử dụng đất nông nghiệp theo hướng tăng trưởng xanh như sau: 

Một là, hiệu quả kinh tế đi đôi với bảo vệ môi trường.Việc sử dụng đất phải mang lại năng suất và giá trị gia tăng cao nhưng không làm suy thoái tài nguyên đất, nguồn nước, không khí. Ưu tiên các mô hình canh tác tuần hoàn, nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp thông minh thích ứng với biến đổi khí hậu.

Hai là, tiết kiệm và sử dụng hợp lý tài nguyên đất. Hạn chế tối đa tình trạng bỏ hoang đất, sử dụng đất không đúng mục đích hoặc không phù hợp quy hoạch. Ưu tiên các phương pháp canh tác sử dụng ít tài nguyên đầu vào nhưng cho hiệu quả bền vững dài hạn.

Ba là, bảo tồn đa dạng sinh học và hệ sinh thái nông nghiệp. Khuyến khích luân canh, xen canh, bảo vệ giống bản địa và các hệ sinh thái đặc trưng vùng. Giảm thiểu sử dụng thuốc bảo vệ thực vật và phân bón hóa học, thay thế bằng chế phẩm sinh học.

Bốn là, gắn kết với quy hoạch sử dụng đất và chiến lược tăng trưởng xanh quốc gia. Việc sử dụng đất nông nghiệp phải phù hợp với quy hoạch tổng thể và các mục tiêu phát triển bền vững của địa phương và quốc gia. Tích hợp các yếu tố khí hậu, môi trường và xã hội trong quy hoạch và canh tác.

Năm là, thúc đẩy ứng dụng khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo. Sử dụng công nghệ số, công nghệ sinh học và tự động hóa trong canh tác nhằm nâng cao hiệu quả và giảm phát thải. Tăng cường đào tạo nông dân và chuyển giao tiến bộ kỹ thuật.

3. Phương pháp nghiên cứu

a. Đề xuất mô hình nghiên cứu

Nghiên cứu nhằm đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp theo hướng tăng trưởng xanh tại vùng đồng bằng sông Hồng. Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, mô hình phân tích được xây dựng dựa trên sự kết hợp giữa lý thuyết về tăng trưởng xanh trong nông nghiệp và thực tiễn quản lý, sử dụng đất nông nghiệp trong khu vực.

Mô hình nghiên cứu tập trung vào 3 nhóm yếu tố chính:

(1) Nhóm yếu tố kinh tếnăng suất, hiệu quả sử dụng đất, chi phí đầu tư, giá trị sản xuất nông nghiệp.

(2) Nhóm yếu tố môi trường: chất lượng đất, mức độ sử dụng phân bón hóa học, thuốc bảo vệ thực vật, tác động đến tài nguyên thiên nhiên.

(3) Nhóm yếu tố quản lý nhà nước: chính sách sử dụng đất, quy hoạch đất nông nghiệp, cơ chế giám sát và thực thi pháp luật.

Nghiên cứu sử dụng phương pháp hỗn hợp, kết hợp giữa phương pháp nghiên cứu định tính và phương pháp nghiên cứu định lượng để bảo đảm tính toàn diện và độ tin cậy của kết quả nghiên cứu.Khảo sát thu thập dữ liệu thực tế từ các hộ nông dân, cán bộ quản lý và doanh nghiệp nông nghiệp tại 4 tỉnh: Hải Dương, Hưng Yên, Thái Bình và Nam Định. Tổng số phiếu khảo sát 299 phiếu, trong đó thu được 219 phiếu dành cho hộ nông dân, 80 phiếu dành cho cán bộ, công chức. Dữ liệu khảo sát được xử lý bằng phần mềm SPSS, sử dụng các phương pháp thống kê mô tả, phân tích tương quan và hồi quy để đánh giá tác động của các yếu tố kinh tế, môi trường và quản lý nhà nước đến hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp.

4. Kết quả nghiên cứu

4.1. Hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp tại vùng đồng bằng sông Hồng

Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 17/11/2022 của Hội nghị Trung ương 6 (khóa XIII) về tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã làm rõ nội hàm, nhận thức về công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nghị quyết xác định công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện nền kinh tế và đời sống xã hội dựa chủ yếu vào sự phát triển của công nghiệp và dịch vụ trên nền tảng của khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo. Theo đó, trong quy hoạch sử dụng đất của các địa phương có sự chuyển dịch mạnh mẽ từ đất nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp nhằm phục vụ cho các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội, hoàn thiện cơ sở hạ tầng, tập trung phát triển công nghiệp, xây dựng và dịch vụ, thương mại theo định hướng của Đảng.

Bảng 1. Tình hình chuyển dịch đất nông nghiệp vùng đồng bằng sông Hồng

ĐVT: nghìn ha

Địa phươngNăm 2015Năm 2020Năm 2024Chênh lệch 2015/2024
Hà Nội158,6156,00154,703,90
Hải Phòng49,7048,8048,101,60
Hải Dương84,6083,7082,502,10
Thái Bình93,0691,3090,502,56
Nam Định91,5089,7088,702,80
Bắc Ninh42,9041,0039,503,40
Quảng Ninh60,8059,6058,502,30
Hưng Yên54,2051,3049,304,90
Vĩnh Phúc55,4054,0053,601,80
Hà Nam41,3040,6040,101,20
Ninh Bình61,1060,0059,901,20
Cộng      793,16       776,00      765,40 27,76
Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2015, 2020, 2024

Tại vùng đồng bằng sông Hồng, hầu hết các tỉnh, thành phố trong vùng đều có sự chuyển dịch diện tích đất nông nghiệp đáng kể. Trong giai đoạn 2015 – 2024, tổng diện tích đất nông nghiệp tại vùng đồng bằng sông Hồng giảm 27,76 nghìn ha. Trong đó, Hưng Yên, Bắc Ninh, Hà Nội là những địa phương có diện tích đất nông nghiệp giảm nhiều nhất của vùng. Việc giảm diện tích đất nông nghiệp là để chuyển mục đích sử dụng sang đất phi nông nghiệp nhằm thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước theo chủ trương của Đảng.

Bảng 2. Tỷ lệ diện tích đất nông nghiệp so với tổng diện tích đất tự nhiên vùng đồng bằng sông Hồng năm 2024

Địa phươngTổng diện tích tự nhiên (nghìn ha)Diện tích đất nông nghiệp (nghìn ha)Tỷ lệ diện tích đất nông nghiệp so với tổng diện tích tự nhiên (%)
Hà Nội         335,89 154,7046,06
Hải Phòng         152,25 48,1031,59
Hải Dương         166,82 82,5049,45
Thái Bình         157,05 90,5057,62
Nam Định         166,80 88,7053,18
Bắc Ninh           82,27 39,5048,01
Quảng Ninh         617,77 58,509,47
Hưng Yên           93,02 49,3053,00
Vĩnh Phúc         123,52 53,6043,39
Hà Nam           86,09 40,1046,58
Ninh Bình         138,70 59,9043,19
Cộng2.120,18765,4036,1
Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2024

Tính đến năm 2024, trung bình diện tích đất nông nghiệp chiếm 36,1% tổng diện tích đất tự nhiên của vùng. Trong đó có Quảng Ninh là địa phương có tỷ lệ đất nông nghiệp thấp nhất, chỉ chiếm 9,47% tổng diện tích đất tự nhiên. Quảng Ninh là tỉnh có địa hình đặc biệt với hơn 80% diện tích là đồi núi, chỉ có một phần nhỏ là đồng bằng ven biển. Điều này khiến quỹ đất dành cho sản xuất nông nghiệp bị hạn chế hơn so với các tỉnh đồng bằng thuần túy, như: Thái Bình hay Nam Định. Quảng Ninh là một trong những địa phương phát triển kinh tế nhanh nhất khu vực với sự mở rộng mạnh mẽ của các khu công nghiệp, đô thị và du lịch. Nhiều diện tích đất nông nghiệp đã được chuyển đổi sang đất đô thị, khu công nghiệp và dịch vụ để phục vụ cho sự phát triển này. Khác với các tỉnh khác trong vùng có thế mạnh về nông nghiệp, Quảng Ninh tập trung vào công nghiệp khai khoáng (than), du lịch (Hạ Long, Vân Đồn) và dịch vụ cảng biển. Điều này khiến diện tích đất nông nghiệp ngày càng thu hẹp để nhường chỗ cho các lĩnh vực kinh tế có giá trị cao hơn.

Việc giảm đất nông nghiệp không chỉ để đáp ứng nhu cầu mở rộng đô thị, khu công nghiệp, dịch vụ mà còn đặt ra yêu cầu tái cơ cấu ngành Nông nghiệp theo hướng hiệu quả hơn hướng nâng cao giá trị gia tăng của ngành Nông nghiệp. Điều này có nghĩa là thay vì tập trung vào số lượng, nông nghiệp vùng đồng bằng sông Hồng đang có những bước chuyển mình sang mô hình sản xuất sạch, hữu cơ, áp dụng công nghệ cao nhằm tối ưu hóa năng suất và chất lượng. Bên cạnh đó, các chuỗi liên kết sản xuất – tiêu thụ từng bước được hình thành, chính sách liên kết vùng đang được triển khai thực hiện từng bước đã bảo đảm đầu ra ổn định cho các mặt hàng nông sản, từ đó nâng cao thu nhập cho nông dân.

4.2. Chất lượng đất nông nghiệp tại vùng đồng bằng sông Hồng

Theo phân loại phát sinh đất tỷ lệ 1:250.000, tài nguyên đất vùng đồng bằng song Hồng đa dạng và phong phú với 11 nhóm đất và 37 đơn vị đất. Trong đó, nhóm đất phù sa có diện tích lớn nhất với 653.405,8 ha (chiếm 30,74% diện tích tự nhiên toàn vùng); tiếp đến là nhóm đất đỏ vàng có 481.842,5 ha (chiếm 22,67%); nhóm đất mặn có 133.544,9 ha (chiếm 6,28%); nhóm đất phèn có 88.176,9 ha (chiếm 4,15%); nhóm đất xám bạc màu có 34.082,0 ha (chiếm 1,60%); nhóm đất cát có 28.761,2 ha (chiếm 1,35%); nhóm đất mùn vàng đỏ trên núi có 13.905,1 ha (chiếm 0,65%); nhóm đất thung lũng có 7.203,2 ha (chiếm 0,34%); nhóm đất đen có 1.331,6 ha (chiếm 0,06%); nhóm đất lầy và than bùn có 800 ha (chiếm 0,04%); nhóm đất xói mòn trơ sỏi đá có diện tích nhỏ không đáng kể (549,2 ha; chiếm 0,03%). Nhóm đất phù sa được hình thành từ bồi đắp của hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình phân bố rộng khắp các tỉnh, trên địa hình bằng phẳng, đây là tài nguyên quốc gia có giá trị và vô cùng quý giá mà tự nhiên đã ưu đãi cho vùng đồng bằng sông Hồng để hình thành vùng chuyên canh trồng lúa nước lớn thứ hai cả nước, chỉ sau đồng bằng sông Cửu Long, bảo đảm an ninh lương thực quốc gia và phục vụ xuất khẩu4.

Mặc dù có nhiều lợi thế, đất nông nghiệp tại đồng bằng sông Hồng cũng đang phải đối mặt với nhiều thách thức lớn, trong đó đáng lo ngại nhất là tình trạng suy thoái đất do canh tác thâm canh kéo dài. Để bảo đảm sản lượng cao, nông dân thường sử dụng nhiều phân bón hóa học và thuốc bảo vệ thực vật. Việc lạm dụng các hóa chất này không chỉ làm mất cân bằng hệ vi sinh vật trong đất mà còn khiến đất bị chua hóa, giảm độ phì nhiêu theo thời gian.

Ngoài ra, tình trạng xói mòn và bạc màu đất cũng diễn ra ở một số khu vực do đất canh tác lâu năm không được bổ sung chất hữu cơ đầy đủ. Một số vùng không còn được bồi đắp phù sa tự nhiên do hệ thống đê bao ngăn lũ, khiến đất dần bị thoái hóa. Khi độ phì nhiêu suy giảm, cây trồng phát triển kém, năng suất thấp, kéo theo chi phí sản xuất tăng cao do nông dân phải sử dụng nhiều phân bón để bù đắp lượng dinh dưỡng bị mất.

Một thách thức khác là tình trạng ô nhiễm đất do tác động từ các khu công nghiệp, làng nghề và khu dân cư. Đồng bằng sông Hồng là vùng có mật độ dân số cao nhất cả nước, đồng thời là trung tâm công nghiệp và dịch vụ lớn. Chất thải từ sản xuất công nghiệp, sinh hoạt và chăn nuôi nếu không được xử lý đúng cách sẽ thẩm thấu vào đất, làm giảm chất lượng đất nông nghiệp, ảnh hưởng trực tiếp đến cây trồng và sức khỏe con người.

4.3. Cơ cấu cây trồng tại vùng đồng bằng sông Hồng

Các loại cây chủ đạo của vùng bao gồm: lúa nước, rau màu, cây ăn quả và cây công nghiệp. Trong đó, cây lúa chiếm ưu thế trong cơ cấu cây trồng. Trong giai đoạn 2015 – 2024, diện tích canh tác lúa tại vùng có sự giảm sút rõ rệt. Năm 2015, tổng diện tích trồng lúa của vùng là 385,2 nghìn ha (chiếm 52,11% diện tích đất nông nghiệp), đến năm 2024 giảm xuống còn 376,3 nghìn ha (chiếm 49,16% diện tích đất nông nghiệp). Mặc dù diện tích trồng lúa có giảm nhưng cây lúa vẫn là cây chủ lực của vùng đồng bằng sông Hồng và mang lại giá trị kinh tế cao, bảo đảm an ninh lương thực cho vùng và các tỉnh lân cận.

Bảng 3. Diện tích cây trồng tại vùng đồng bằng sông Hồng giai đoạn 2015  2024

Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2015, 2020, 2024

Cây rau màu luôn là thế mạnh của Vùng xuất phát từ ưu thế về khí hậu và đất đai. Trong giai đoạn 2015  -2024, diện tích đất trồng rau màu tại vùng giữ ở mức ổn định. Năm 2015, tổng diện tích trồng rau màu toàn vùng là 151,3 nghìn ha (chiếm 20,47% tổng diện tích đất nông nghiệp). Năm 2020 tăng lên 161,4 nghìn ha (chiếm 20,8% tổng diện tích đất nông nghiệp). Đến năm 2024, diện tích trồng rau màu là 154,6 nghìn ha (chiếm 20,2% diện tích đất nông nghiệp). 

Vùng đồng bằng sông Hồng có diện tích trồng cây ăn quả ngày càng phát triển, tập trung chủ yếu ở các tỉnh, như: Hưng Yên, Bắc Giang, Hải Dương, Hà Nội. Trong giai đoạn 2015 – 2024, diện tích cây ăn quả tăng lên đáng kể. Năm 2015, diện tích trồng cây ăn quả là 140,6 nghìn ha (chiếm 19,02% diện tích đất nông nghiệp), đến năm 2024 tăng lên 160,3 nghìn ha (chiếm 20,94% diện tích đất nông nghiệp), tăng khoảng 20 nghìn ha. Các loại cây trồng phổ biến gồm: vải thiều, nhãn lồng, chuối, cam, bưởi, ổi… Ngoài việc cung cấp cho thị trường trong nước, nhiều loại trái cây, như: vải thiều Bắc Giang, nhãn lồng Hưng Yên đã được xuất khẩu sang các thị trường: Trung Quốc, Nhật Bản và Mỹ, EU, góp phần thúc đẩy kinh tế nông nghiệp của vùng.

Trong giai đoạn 2015 – 2024, diện tích trồng cây công nghiệp tại vùng đồng bằng sông Hồng có xu hướng tăng, phản ánh sự chuyển đổi cơ cấu cây trồng nhằm nâng cao giá trị kinh tế trên một đơn vị diện tích. Năm 2015 diện tích trồng cây công nghiệp là 50,69 nghìn ha, đến năm 2024 tăng lên 56,1 nghìn ha. Điều này thể hiện rõ ràng sự chuyển dịch cơ cấu cây trồng trong ngành Nông nghiệp tại đồng bằng sông Hồng theo hướng từng bước chuyển đổi phát triển các cây công nghiệp để phục vụ cho ngành công nghiệp chế biến, hướng tới xây dựng nông nghiệp hàng hóa.

Những năm qua, cùng với những sự biến đổi từ thời tiết, khí hậu khiến cho việc canh tác lúa gặp nhiều khó khăn nên người dân đã chuyển một phần diện tích trồng lúa kém hiệu quả sang trồng cây có giá trị kinh tế cao hơn, nhất là cây dược liệu và cây hoa cảnh mang lại giá trị kinh tế cao. Đồng thời,nhóm cây này cũng ít phải sử dụng thuốc bảo vệ thực vật và phân bón hóa học hơn, từ đó giúp bảo vệ môi trường sống của con người, từng bước chuyển đổi mô hình trồng trọt sang hướng tăng trưởng xanh.

Việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất tại vùng đã hướng đến nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm nông nghiệp. Thay vì chỉ tập trung vào cây lúa như trước đây, nhiều địa phương hiện nay đã mở rộng diện tích trồng rau an toàn, cây ăn quả có giá trị cao như: bưởi, cam, vải, nhãn. Đồng thời, việc ứng dụng khoa học – công nghệ vào sản xuất, như: công nghệ tưới nhỏ giọt, nhà kính, nhà lưới, nông nghiệp tuần hoàn cũng là hướng vùng đang hướng tới nhằm xây dựng ngành nông nghiệp xanh. Nhiều loại giống cây trồng mới được đưa vào canh tác thay cho những giống truyền thống đã mang lại giá trị kinh tế cao hơn cho các địa phương của vùng. 

4.4. Những bất cập trong quản lý và sử dụng đất nông nghiệp

Một trong những thách thức lớn trong quản lý và sử dụng đất nông nghiệp tại đồng bằng sông Hồng là tình trạng phân mảnh ruộng đất, dẫn đến sản xuất nhỏ lẻ, manh mún và kém hiệu quả. Tình trạng phân mảnh đất đai gây ra nhiều hệ lụy đối với nền nông nghiệp của vùng. Trước hết, quy mô sản xuất nhỏ lẻ khiến việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, cơ giới hóa và tự động hóa trong nông nghiệp gặp nhiều khó khăn. Khi diện tích đất canh tác quá nhỏ, người dân không đủ điều kiện đầu tư máy móc, thiết bị hiện đại, dẫn đến năng suất lao động thấp, chi phí sản xuất cao. 

Bảng 4. Kết quả khảo sát người dân về thực trạng quản lý và sử dụng đất nông nghiệp tại vùng đồng bằng sông Hồng

TTCâu hỏi/Lựa chọnSố phiếuTỷ lệ %
1Theo anh/chị, việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp tại địa phương diễn ra có phù hợp không?
 Rất phù hợp3013,7
 Phù hợp5022,8
 Ít phù hợp9041,1
 Không phù hợp4922,4
2Anh/chị đánh giá thế nào về hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp tại địa phương?
 Hiệu quả cao, đất đai được khai thác tối ưu3550,2
 Hiệu quả trung bình, còn nhiều diện tích chưa sử dụng hết tiềm năng11033,8
 Hiệu quả thấp, nhiều diện tích đất bị bỏ hoang hoặc sử dụng không đúng mục đích7445,7
3Theo Anh/chị nguyên nhân nào ảnh hưởng lớn nhất đến hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp tại địa phương?
 Quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh4018,3
 Lạm dụng thuốc bảo vệ thực vật và phân bón hóahọc6027,4
 Chất thải từ hoạt động công nghiệp và sinh hoạt5022,8
 Biến đổi khí hậu4520,5
 Nguyên nhân khác2411
Nguồn: Kết quả khảo sát của tác giả, 2025

Trong nhiều năm qua, việc chuyển đổi đất nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp, bao gồm đất xây dựng khu công nghiệp, đô thị và cơ sở hạ tầng diễn ra với tốc độ nhanh chóng và chưa được kiểm soát chặt chẽ. Một trong những hệ quả dễ thấy nhất là sự suy giảm nghiêm trọng diện tích đất nông nghiệp làm ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng duy trì sản xuất lương thực và bảo đảm an ninh lương thực quốc gia. Bên cạnh đó, tình trạng chuyển đổi đất không theo quy hoạch đồng bộ giữa các địa phương đã gây ra nhiều hệ lụy về mặt kinh tế – xã hội. Một số khu vực nông nghiệp bị quy hoạch thiếu hợp lý, gây ra xung đột lợi ích giữa người dân và các nhà đầu tư. Theo kết quả khảo sát, có 41,1% người dân cho rằng việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất tại địa phương là ít phù hợp; 22,8% cho rằng phù hợp; 22,4% cho rằng không phù hợp và chỉ có 13,7% cho rằng rất phù hợp.

Một vấn đề đáng lo ngại khác là tác động tiêu cực của quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa đối với môi trường nông nghiệp. Việc mở rộng các khu công nghiệp, khu đô thị trên nền đất nông nghiệp nhưng không có biện pháp bảo vệ môi trường hiệu quả đã dẫn đến tình trạng ô nhiễm đất, nguồn nước và không khí. Chất thải công nghiệp, nước thải sinh hoạt không được xử lý triệt để có thể thẩm thấu vào nguồn nước tưới tiêu, ảnh hưởng đến chất lượng đất trồng trọt, khiến sản lượng và chất lượng nông sản bị suy giảm.

Mặt khác, sự suy giảm chất lượng đất không chỉ làm giảm năng suất cây trồng mà còn ảnh hưởng đến tính bền vững của sản xuất nông nghiệp trong dài hạn. Theo kết quả khảo sát tại Bảng 4, chỉ 16% người dân đánh giá cao hiệu quả sử dụng đất hiện nay, trong khi hơn một nửa (50,2%) cho rằng đất nông nghiệp chưa được khai thác hết tiềm năng. Đặc biệt, có 33,8% ý kiến phản ánh tình trạng đất bị bỏ hoang hoặc sử dụng không đúng mục đích. Điều này cho thấy, sự cần thiết của các giải pháp hỗ trợ nông dân nâng cao năng suất và tận dụng tài nguyên đất hiệu quả hơn.

Bảng 5. Kết quả khảo sát cán bộ, công chức về thực trạng quản lý và sử dụng đất nông nghiệp tại vùng đồng bằng sông Hồng

TTCâu hỏi/Lựa chọnSố phiếuTỷ lệ %
1Anh/chị đánh giá như thế nào về tính phù hợp của các chính sách hiện hành đối với việc sử dụng đất nông nghiệp theo hướng tăng trưởng xanh?
 Rất phù hợp810
 Phù hợp2025
 Bình thường2430
 Chưa phù hợp2025
 Hoàn toàn không phù hợp810
2Theo anh/chị, những khó khăn lớn nhất trong quản lý đất nông nghiệp tại địa phương hiện nay là gì? (Có thể chọn nhiều đáp án)
 Quy hoạch và phân bổ đất chưa hợp lý4050
 Chính sách hỗ trợ và khuyến khích sử dụng đất còn hạn chế3240
 Tình trạng chuyển đổi mục đích sử dụng đất thiếu kiểm soát3645
 Hiệu quả sử dụng đất chưa cao, năng suất thấp4455
 Hạn chế về tài chính, công nghệ trong sản xuất nông nghiệp2835
3Theo anh/chị, mức độ giám sát và kiểm tra việc sử dụng đất nông nghiệp tại địa phương hiện nay như thế nào?
 Rất chặt chẽ, hiệu quả45
 Chặt chẽ nhưng chưa hiệu quả1215
 Bình thường, có nhưng chưa thường xuyên2430
 Lỏng lẻo, chưa thực sự hiệu quả2835
 Không có giám sát rõ ràng1215
Nguồn: Kết quả khảo sát của tác giả, 2025

Kết quả khảo sát từ phía cán bộ, công chức làm công tác quản lý nhà nước về nông nghiệp và môi trường cho thấy, chính sách quản lý đất nông nghiệp tại vùng đồng bằng sông Hồng vẫn còn nhiều bất cập, chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn. Chỉ có 35% số người khảo sát đánh giá chính sách hiện hành là phù hợp hoặc rất phù hợp, trong khi đó, tỷ lệ cho rằng, chính sách chưa phù hợp hoặc hoàn toàn không phù hợp cũng lên tới 35%. Đáng chú ý, 30% đánh giá ở mức bình thường, điều này cho thấy, sự thiếu rõ ràng và tính hiệu quả chưa cao của các chính sách hiện có. Việc không có sự chênh lệch lớn giữa các nhóm ý kiến phản ánh một thực trạng rằng, dù chính sách không hoàn toàn bất cập, nhưng cũng chưa tạo ra động lực mạnh mẽ giúp nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp theo hướng bền vững.

Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên chính là những hạn chế trong tổ chức thực hiện chính sách. Khi được hỏi về các khó khăn lớn nhất trong quản lý đất nông nghiệp, có tới 55% số người khảo sát cho rằng, hiệu quả sử dụng đất chưa cao, năng suất thấp. Điều này phản ánh thực tế rằng, dù đất nông nghiệp có tiềm năng lớn nhưng chưa được khai thác hợp lý, có thể do phương thức canh tác lạc hậu hoặc sự hỗ trợ từ chính sách chưa đủ mạnh. 50% số phiếu cho rằng quy hoạch và phân bổ đất chưa hợp lý, cho thấy sự bất cập trong việc sắp xếp, phân bổ quỹ đất cho từng mục đích cụ thể, dẫn đến tình trạng sử dụng đất không đồng bộ, manh mún hoặc chưa đúng với định hướng phát triển chung.

Một vấn đề khác cũng được nhiều người đề cập là chuyển đổi mục đích sử dụng đất thiếu kiểm soát (45%), điều này phản ánh thực trạng đất nông nghiệp đang bị chuyển đổi sang các mục đích khác một cách chưa chặt chẽ, có thể dẫn đến thất thoát quỹ đất sản xuất hoặc sử dụng đất không đúng định hướng. Đặc biệt, 40% số người khảo sát cho rằng, chính sách hỗ trợ còn hạn chế, điều này cho thấy, các chương trình hỗ trợ về vốn, công nghệ, khuyến nông vẫn chưa thực sự phát huy hiệu quả, khiến người dân và doanh nghiệp gặp khó khăn khi muốn đầu tư vào sản xuất nông nghiệp theo hướng bền vững.

Bên cạnh những bất cập trong nội dung chính sách, công tác giám sát và kiểm tra việc sử dụng đất nông nghiệp cũng còn nhiều hạn chế. Kết quả khảo sát cho thấy chỉ 5% số người khảo sát đánh giá công tác giám sát rất chặt chẽ và hiệu quả, trong khi đó, 50% số phiếu phản ánh rằng việc kiểm tra, giám sát còn lỏng lẻo hoặc không rõ ràng. Điều này cho thấy, công tác quản lý vẫn còn nhiều kẽ hở, dẫn đến tình trạng vi phạm trong sử dụng đất nhưng chưa được phát hiện và xử lý kịp thời. 30% đánh giá công tác giám sát có nhưng chưa thường xuyên, điều này cho thấy mặc dù có cơ chế quản lý nhưng việc thực thi chưa quyết liệt, khiến các sai phạm có thể xảy ra mà không có biện pháp ngăn chặn kịp thời.

5. Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp theo hướng tăng trưởng xanh

Thứ nhất, hoàn thiện chính sách và quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp.

Cần tiếp tục rà soát, bổ sung và hoàn thiện các chính sách liên quan đến quản lý và sử dụng đất nông nghiệp theo hướng khuyến khích phát triển bền vững. Trong đó, việc sửa đổi và hoàn thiện Luật Đất đai theo hướng chặt chẽ hơn trong kiểm soát chuyển đổi mục đích sử dụng đất, đặc biệt là từ đất nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp là điều cần thiết. Chính sách về hạn điền và tích tụ đất nông nghiệp cũng cần được điều chỉnh linh hoạt hơn để tạo điều kiện cho doanh nghiệp, hợp tác xã và các tổ chức kinh tế đầu tư vào sản xuất nông nghiệp quy mô lớn. Nhà nước cần có cơ chế hỗ trợ nông dân chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo hình thức phù hợp, đồng thời khuyến khích phát triển các mô hình liên kết sản xuất giữa hộ nông dân với doanh nghiệp nhằm tối ưu hóa hiệu quả sử dụng đất.

Ngoài ra, cần hoàn thiện chính sách hỗ trợ tài chính cho nông dân trong quá trình sử dụng đất theo hướng tăng trưởng xanh. Điều này bao gồm việc ưu đãi thuế, hỗ trợ vay vốn với lãi suất thấp cho các dự án nông nghiệp bền vững, cũng như triển khai các chương trình trợ cấp đối với nông dân áp dụng công nghệ cao, sử dụng phân bón hữu cơ, bảo vệ tài nguyên đất.

Để bảo đảm hiệu quả thực thi chính sách và quy hoạch đất nông nghiệp, cần tăng cường cơ chế giám sát, kiểm tra việc thực hiện các quy hoạch sử dụng đất. Chính quyền các cấp cần nâng cao trách nhiệm trong việc quản lý, bảo đảm quy hoạch được thực hiện đúng kế hoạch, tránh tình trạng điều chỉnh tùy tiện hoặc thực hiện sai mục đích. Bên cạnh đó, cần ứng dụng công nghệ số trong quản lý và giám sát sử dụng đất, bao gồm việc sử dụng hệ thống thông tin địa lý (GIS), công nghệ viễn thám để theo dõi biến động đất đai, giám sát việc chuyển đổi đất nông nghiệp. 

Thứ hai, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất.

Cần khuyến khích nông dân và doanh nghiệp sử dụng các phương pháp canh tác tiên tiến, như:nông nghiệp tuần hoàn, canh tác hữu cơ, ứng dụng công nghệ sinh học nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường. Bên cạnh đó, việc ứng dụng công nghệ số trong quản lý sản xuất nông nghiệp, như: sử dụng hệ thống cảm biến đo độ ẩm đất, theo dõi thời tiết, tự động hóa tưới tiêu và bón phân, sẽ giúp tối ưu hóa việc sử dụng tài nguyên, giảm lãng phí và nâng cao năng suất. Chính quyền địa phương cần có cơ chế hỗ trợ nông dân tiếp cận các công nghệ này thông qua các chương trình khuyến nông, đào tạo kỹ thuật và hỗ trợ tài chính.

Chuyển đổi sang mô hình nông nghiệp tăng trưởng xanh đòi hỏi sự đầu tư lớn từ phía người dân và doanh nghiệp. Do đó, Nhà nước cần có các chính sách hỗ trợ tài chính như ưu đãi thuế, trợ cấp tín dụng xanh, tạo điều kiện cho nông dân và doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn với lãi suất thấp để đầu tư vào công nghệ, cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất xanh. Bên cạnh đó, các chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao, áp dụng mô hình sản xuất xanh, liên kết với nông dân để hình thành các chuỗi giá trị bền vững cũng cần được đẩy mạnh. Chính quyền địa phương có thể thiết lập các quỹ hỗ trợ nông dân thực hiện các mô hình thí điểm, từ đó nhân rộng các mô hình hiệu quả trên toàn vùng.

Thứ ba, hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước về nông nghiệp theo hướng tăng trưởng xanh.

Trong bối cảnh tái cơ cấu hệ thống cơ quan nhà nước và đơn vị hành chính các cấp, việc kiện toàn tổ chức bộ máy thực hiện quản lý nhà nước về nông nghiệp theo hướng tăng trưởng xanh là yêu cầu cấp thiết nhằm đảm bảo tính hiệu lực, hiệu quả trong thực thi chính sách.

(1) Cần sắp xếp, tinh gọn bộ máy quản lý nhà nước về nông nghiệp theo hướng liên ngành, giảm chồng chéo chức năng giữa các cơ quan từ trung ương đến địa phương. Việc lồng ghép các nội dung về tăng trưởng xanh vào nhiệm vụ của các cơ quan quản lý đất đai, tài nguyên môi trường và nông nghiệp giúp nâng cao tính đồng bộ, tránh phân tán nguồn lực.

(2) Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền hợp lý giữa trung ương và địa phương, bảo đảm chính quyền địa phương có đủ thẩm quyền và nguồn lực để thực hiện các chính sách phát triển nông nghiệp xanh phù hợp với điều kiện thực tế. Đồng thời, cần tăng cường cơ chế phối hợp giữa các cấp chính quyền, doanh nghiệp và tổ chức xã hội để huy động nguồn lực đầu tư, giám sát thực hiện chính sách.

(3) Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về nông nghiệp, tập trung đào tạo chuyên sâu về kinh tế xanh, quản lý bền vững tài nguyên đất và ứng dụng công nghệ số trong theo dõi, giám sát sử dụng đất nông nghiệp. Việc ứng dụng công nghệ GIS, viễn thám và các công cụ số hóa sẽ giúp nâng cao chất lượng quản lý, theo dõi biến động đất đai và tối ưu hóa quy hoạch sử dụng đất.

(4) Xây dựng cơ chế giám sát, đánh giá hiệu quả hoạt động của các cơ quan quản lý theo hướng tăng trưởng xanh, gắn trách nhiệm của từng đơn vị, từng cấp quản lý với kết quả thực hiện mục tiêu sử dụng đất nông nghiệp bền vững. Việc áp dụng các bộ tiêu chí đánh giá minh bạch, khách quan sẽ giúp nâng cao trách nhiệm giải trình và cải thiện chất lượng quản lý nhà nước trong lĩnh vực này.

6. Kết luận

Việc sử dụng đất nông nghiệp theo hướng tăng trưởng xanh tại đồng bằng sông Hồng là yêu cầu cấp thiết nhằm bảo đảm phát triển nông nghiệp bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu và bảo vệ tài nguyên đất trước áp lực gia tăng từ quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa. Bài viết đã phân tích cơ sở lý luận, thực trạng quản lý và sử dụng đất nông nghiệp trong khu vực, chỉ ra những bất cập còn tồn tại như tình trạng phân mảnh ruộng đất, suy thoái tài nguyên đất và sự chưa đồng bộ trong chính sách quy hoạch, quản lý sử dụng đất.

Để thực hiện thành công các giải pháp này, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp chính quyền, doanh nghiệp và người dân, đồng thời đẩy mạnh công tác giám sát thực thi chính sách, huy động nguồn lực đầu tư và nâng cao nhận thức cộng đồng về lợi ích của mô hình nông nghiệp xanh. Chỉ khi có sự vào cuộc đồng bộ, việc sử dụng đất nông nghiệp theo hướng tăng trưởng xanh tại đồng bằng sông Hồng mới thực sự mang lại hiệu quả dài lâu, góp phần bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, nâng cao thu nhập cho người dân và thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững.

Chú thích:
1. Kết quả sản xuất lúa đông xuân năm 2024. https://www.gso.gov.vn/tin-tuc-thong-ke/2024/07/ket-qua-san-xuat-vu-dong-xuan-nam-2024/
2. OECD (2011). Towards Green Growth, OECD Green Growth Strategy.
3. FAO (2021). Principles of Sustainable Agricultural Land Management.https://viagroforestry.org/app/uploads/2019/09/web_vi-agrofrestry-salm-english.pdf
4. Nghiên cứu, đánh giá tác động của biến đổi khí hậu đến tài nguyên đất vùng đồng bằng sông Hồng và đề xuất các giải pháp chủ động ứng phó. https://www.vista.gov.vn/news/ket-qua-nghien-cuu-trien-khai/nghien-cuu-danh-gia-tac-dong-cua-bien-doi-khi-hau-den-tai-nguyen-dat-vung-dong-bang-song-hong-va-de-xuat-cac-giai-phap-chu-dong-ung-pho-6253.html
Tài liệu tham khảo:
1. Ban Chấp hành Trung ương (2022). Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 16/6/2022 về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
2. Nguyễn Đình Đáp, Phạm Thị Trầm (2022). Xu hướng phát triển nông nghiệp hữu cơ trên thế giới và triển vọng cho Việt Nam. Tạp chí Ngân hàng, tháng 11/2022.
3. Thủ tướng Chính phủ (2022). Quyết định số 150/QĐ-TTg ngày 28/01/2022 về chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
4. Thủ tướng Chính phủ (2021). Quyết định số 1658/QĐ-TTg ngày 01/10/2021 về việc phê duyệt chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn 2050.
5. Đặng Kim Sơn (2012). Tái cơ cấu nền nông nghiệp Việt Nam theo hướng giá trị gia tăng cao. H. NXB Chính trị Quốc gia.