Đánh giá chính sách cơ cấu dân số theo giới tính tại Việt Nam: tiếp cận theo khung phân tích OECD – DAC

ThS. Lê Hồng Hạnh
Học viện Chính sách và Phát triển

(Quanlynhanuoc.vn) – Chính sách cơ cấu dân số theo giới tính đóng vai trò điều tiết tỷ số giới tính khi sinh, góp phần bảo đảm cân bằng giới và ổn định xã hội. Đây là công cụ quan trọng của Nhà nước trong thực hiện bình đẳng giới và phát triển bền vững. Đánh giá chính sách cơ cấu dân số theo giới tính theo khung phân tích OECD – DAC sẽ giúp xem xét chính sách này một cách khoa học, toàn diện, từ đó, đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách trong thời gian tới.

Từ khóa: Chính sách, cơ cấu dân số theo giới tính, khung phân tích OECE-DAC.

1. Đặt vấn đề

Trong những năm gần đây, Việt Nam đang phải đối mặt với một vấn đề dân số nhức nhối và kéo dài, đó là mất cân bằng giới tính khi sinh. Tỷ số giới tính khi sinh tại Việt Nam đã vượt ngưỡng sinh học tự nhiên (106 bé trai/100 bé gái) từ đầu những năm 2000 và liên tục duy trì ở mức cao, khoảng 111,4 bé trai/100 bé gái năm 20241. Đây là một trong những dấu hiệu cho thấy sự can thiệp có chủ đích của con người vào giới tính thai nhi, xuất phát từ những nguyên nhân xã hội sâu xa như tư tưởng trọng nam khinh nữ, áp lực duy trì nòi giống, quy định về sinh con ít, cũng như sự phát triển của các kỹ thuật chẩn đoán giới tính trước sinh. Hệ quả lâu dài của tình trạng này là sự mất cân đối trong cấu trúc dân số, dẫn tới thiếu hụt phụ nữ trong tương lai, gia tăng tình trạng “ế vợ”, bất ổn xã hội, bạo lực giới và buôn bán người, đặc biệt ở các vùng nông thôn.

Trước thực trạng đó, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách, chiến lược và chương trình can thiệp nhằm điều chỉnh cơ cấu dân số theo giới tính một cách hợp lý, như: Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 25/10/2017 về công tác dân số trong tình hình mới, Chiến lược Dân số Việt Nam đến năm 2030, Quyết định số 468/QĐ-TTg ngày 23/3/2016 ban hành Đề án kiểm soát mất cân bằng giới tính khi sinh giai đoạn 2016- 2025, và nhiều kế hoạch hành động ở cấp bộ ngành, địa phương. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, tỷ số giới tính khi sinh vẫn ở mức cao và chưa có xu hướng giảm ổn định trên phạm vi toàn quốc. Nhiều chính sách còn mang tính hình thức, thiếu cơ chế giám sát, chế tài chưa nghiêm, và chưa thực sự thay đổi được nhận thức – hành vi của người dân.

Trong bối cảnh đó, việc đánh giá một cách hệ thống, khoa học và toàn diện chính sách cơ cấu dân số theo giới tính là hết sức cần thiết. Lựa chọn khung phân tích OECD-DAC, một trong những khung đánh giá chính sách công có uy tín và được áp dụng rộng rãi trên thế giới, để xem xét các chính sách này dựa trên các tiêu chí cơ bản như tính phù hợp, tính hiệu quả, tính nhất quán, tác động và tính bền vững. Đây là cách tiếp cận vừa bảo đảm tính khoa học, vừa gắn kết thực tiễn và có giá trị tham khảo cho hoạt động hoạch định, điều chỉnh và hoàn thiện chính sách dân số hiện nay ở Việt Nam.

 2. Khung phân tích chính sách của OECD- DAC trong đánh giá chính sách cơ cấu dân số theo giới tính ở Việt Nam

Khung OECD-DAC là một trong những công cụ đánh giá chính sách công và chương trình phát triển được sử dụng rộng rãi nhất hiện nay trên thế giới, do Ủy ban Hỗ trợ Phát triển (Development Assistance Committee – DAC) thuộc Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) xây dựng. Khung phân tích này được thiết kế nhằm đánh giá một cách hệ thống và toàn diện các chính sách, dự án, hoặc chương trình, không chỉ ở cấp quốc tế mà còn có tính ứng dụng cao ở cấp quốc gia và địa phương. OECD-DAC đưa ra năm tiêu chí đánh giá cơ bản, bao gồm: tính phù hợp; tính hiệu quả; tính nhất quán; tác động và tính bền vững. Điểm nổi bật của khung OECD-DAC là tính linh hoạt và định hướng cải tiến, cho phép các nhà hoạch định và quản lý chính sách không chỉ đánh giá kết quả mà còn rút ra bài học, xác định điểm mạnh – điểm yếu, từ đó có cơ sở để điều chỉnh và nâng cao chất lượng chính sách công. Chính vì vậy, khung này ngày càng được nhiều quốc gia, tổ chức quốc tế, và các cơ quan chính phủ áp dụng như một công cụ đánh giá hiệu quả, khách quan và có giá trị thực tiễn cao.

Bảng 1. Khung phân tích chính sách của OECD – DAC

Tiêu chíNội dung đánh giáCâu hỏi gợi ý
Tính phù hợpMức độ chính sách đáp ứng nhu cầu thực tiễn, phù hợp với bối cảnh xã hội, chính trị, kinh tế và ưu tiên phát triển quốc gia.– Chính sách có giải quyết đúng vấn đề cốt lõi không?
– Có phù hợp với điều kiện Việt Nam không?
Tính hiệu quảMức độ đạt được mục tiêu và kết quả đầu ra của chính sách so với kế hoạch đề ra.– Mục tiêu đề ra có được thực hiện không?
– Có đạt được kết quả như mong muốn không?
Tính nhất quánMức độ hài hòa và không mâu thuẫn giữa chính sách được đánh giá với các chính sách khác trong cùng lĩnh vực hoặc liên ngành, liên cấp.– Chính sách có xung đột với chính sách khác không?
– Có cơ chế phối hợp hiệu quả giữa các bên không?
Tác độngNhững ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực, trực tiếp hoặc gián tiếp mà chính sách gây ra đối với đối tượng hưởng lợi và xã hội nói chung.– Chính sách tạo ra thay đổi xã hội như thế nào?
– Có tác động ngoài mong đợi nào không?
Tính bền vữngKhả năng duy trì kết quả của chính sách trong dài hạn, kể cả khi nguồn lực hỗ trợ bên ngoài chấm dứt.– Kết quả đạt được có duy trì được không?
– Có nền tảng thể chế và tài chính vững chắc không?
Nguồn: Tác giả tổng hợp.

Thứ nhất, đánh giá tính phù hợp của chính sách cơ cấu dân số theo giới tính. Mục tiêu giảm tỷ lệ mất cân bằng giới tính khi sinh khó đạt nếu không thay đổi mạnh mẽ tư tưởng trọng nam trong xã hội. Việt Nam, nơi mà tâm lý ưa thích con trai vẫn tồn tại dai dẳng đã gây mất cân bằng giới tính khi sinh nghiêm trọng, có nhiều điểm tương đồng với các quốc gia khác tại châu Á và Đông Âu nơi cũng bị ảnh hưởng bởi tâm lý này. Bên cạnh đó, giải pháp chính sách khá toàn diện (truyền thông, pháp lý, kinh tế – xã hội), tuy nhiên còn gặp nhiều rào cản văn hóa và công nghệ khó kiểm soát (dịch vụ chẩn đoán giới tính).

Thứ hai, đánh giá tính hiệu quả. Xét về tính hiệu quả, chính sách cơ cấu giới tính khi sinh ở Việt Nam vẫn chưa đạt được các mục tiêu kỳ vọng. Mặc dù nhiều giải pháp đã được triển khai, như truyền thông thay đổi hành vi, cấm tiết lộ giới tính thai nhi, tư vấn tiền hôn nhân và sinh sản, nhưng tỉ số giới tính khi sinh vẫn ở mức cao và chưa có xu hướng giảm ổn định. Tính đến năm 2024, tỷ số giới tính khi sinh toàn quốc vẫn ở mức 111,4 bé trai/100 bé gái, cao hơn nhiều so với mục tiêu đưa tỷ lệ này về mức 109 vào năm 2025 như đề ra trong Chiến lược Dân số. Đáng chú ý, số tỉnh có tỷ số giới tính khi sinh vượt 115 ngày càng gia tăng, cho thấy mức độ lan rộng của vấn đề. Bên cạnh đó, các công cụ đánh giá hiệu quả chính sách còn thiếu hoặc chưa được triển khai đồng bộ, khiến việc theo dõi tiến độ đạt mục tiêu trở nên khó khăn. Điều này cho thấy, mặc dù chính sách có định hướng đúng đắn, nhưng việc tổ chức thực hiện và đánh giá hiệu quả vẫn còn nhiều bất cập, làm giảm tính khả thi trong thực tế.

Bảng 2. Tỷ số giới tính khi sinh tại Việt Nam giai đoạn 2009- 2024

Đơn vị: Số bé trai/100 bé gái

NămTỉ số giới tính khi sinh
2009110,5
2014112,2
2019111,5
2024111,4
Nguồn: Kết quả điều tra dân số và nhà ở thời điểm 0 giờ ngày 01/4/2019 của Tổng cục Thống kê (2024).

Thứ ba, đánh giá tính nhất quán, thể hiện ở mức độ hài hòa giữa chính sách này với các chủ trương, chương trình và định hướng phát triển quốc gia cũng như các cam kết quốc tế. Về mặt định hướng chiến lược, các chính sách kiểm soát mất cân bằng giới tính khi sinh được xây dựng phù hợp với Nghị quyết số 21-NQ/TW của Đảng về công tác dân số trong tình hình mới, gắn kết chặt chẽ với Chiến lược Dân số Việt Nam đến năm 2030 và các mục tiêu của Chương trình quốc gia về bình đẳng giới. Đồng thời, chính sách cũng tương thích với các cam kết quốc tế như Chương trình hành động Cairo (ICPD), Công ước xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW) và Mục tiêu phát triển bền vững số 5 về bình đẳng giới. Tuy nhiên, trên thực tế, tính nhất quán trong triển khai chính sách còn chưa cao.

Sự phối hợp giữa các ngành, đặc biệt là giữa Bộ Y tế, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Nội vụ và các cơ quan truyền thông vẫn còn rời rạc, thiếu cơ chế phối hợp chặt chẽ và đồng bộ. Bên cạnh đó, một số quy định trong các văn bản pháp luật còn chồng chéo hoặc thiếu nhất quán, điển hình là quy định cấm tiết lộ giới tính thai nhi nhưng lại thiếu cơ chế giám sát và chế tài hiệu quả đối với các cơ sở y tế vi phạm.

Ở cấp địa phương, việc triển khai chính sách vẫn còn phụ thuộc nhiều vào ngân sách trung ương, thiếu sự chủ động xây dựng chương trình riêng theo đặc thù địa phương, dẫn đến sự thiếu đồng bộ giữa các cấp thực thi. Như vậy, mặc dù chính sách có định hướng rõ ràng và phù hợp về mặt chiến lược, nhưng để đảm bảo tính nhất quán thực chất, cần thiết phải tăng cường quản trị liên ngành, hoàn thiện hệ thống pháp lý, và thiết lập cơ chế phối hợp hiệu quả giữa các cấp, các ngành trong triển khai chính sách cơ cấu dân số theo giới tính.

Thứ tư, tác động của chính sách cơ cấu dân số theo giới tính, thể hiện ở những ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực do chính sách mang lại. Về mặt tích cực, chính sách đã góp phần nâng cao nhận thức về bình đẳng giới, tăng giá trị xã hội dành cho trẻ em gái, và tạo ra nền tảng pháp lý ngăn chặn hành vi lựa chọn giới tính thai nhi. Tuy nhiên, các tác động tiêu cực cũng cần được lưu ý như: một bộ phận người dân lách luật bằng cách siêu âm chui, phá thai không an toàn; tình trạng lựa chọn giới tính trở nên tinh vi hơn; hoặc phản ứng xã hội âm ỉ làm gia tăng định kiến giới gián tiếp. Ngoài ra, một số địa phương vẫn chưa thấy rõ tác động xã hội tích cực vì thiếu truyền thông mang tính thay đổi hành vi sâu sắc.

Thứ năm, tính bền vững của chính sách cơ cấu dân số theo giới tính. Tính bền vững đánh giá khả năng duy trì hiệu quả chính sách trong dài hạn. Các chính sách hiện nay mới chỉ dừng lại ở các chương trình ngắn hạn, chưa có cơ chế đảm bảo tài chính ổn định, hoặc thể chế hóa đầy đủ để duy trì liên tục. Để đạt được tính bền vững, Việt Nam cần kết hợp giữa giải pháp kỹ thuật (giám sát, xử lý vi phạm), giải pháp văn hóa – giáo dục (xóa bỏ tư tưởng trọng nam), và giải pháp thể chế (lồng ghép giới trong chính sách phát triển). Đặc biệt, việc nâng cao năng lực cho chính quyền địa phương, tổ chức đoàn thể, và giáo dục về giới ngay từ bậc phổ thông là điều kiện tiên quyết để duy trì tác động tích cực lâu dài.

3. Một số khuyến nghị chính sách

Để hoàn thiện chính sách cơ cấu dân số theo giới tính tại Việt Nam, cần triển khai một số khuyến nghị chính sách mang tính toàn diện và đồng bộ.

Một là, cần sớm hoàn thiện khung pháp lý và thể chế hóa các nội dung điều chỉnh cơ cấu giới tính khi sinh bằng việc ban hành Luật Dân số mới, trong đó quy định rõ trách nhiệm và chế tài xử lý các hành vi lựa chọn giới tính thai nhi. Bên cạnh đó, cần lồng ghép nội dung về bình đẳng giới, quyền trẻ em gái và giá trị của con gái trong các chính sách liên quan, như: Luật Bình đẳng giới, Luật Bảo vệ trẻ em và chương trình giáo dục phổ thông. Đồng thời, cần thiết lập cơ chế phối hợp liên ngành giữa các bộ, như: Y tế, Giáo dục và Đào tạo, Nội vụ, Khoa học – Công nghệ, cùng với sự tham gia của Mặt trận Tổ quốc, Hội Phụ nữ và chính quyền địa phương là cần thiết nhằm tăng tính nhất quán và hiệu lực thực thi.

Hai là, tăng cường giám sát, thanh tra và xử lý vi phạm. Cần đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin để xây dựng hệ thống quản lý, cảnh báo giới tính thai nhi và kết nối dữ liệu giữa các cơ sở y tế công – tư; đồng thời tăng cường kiểm tra, xử lý nghiêm các phòng khám vi phạm quy định về tiết lộ giới tính. Ngoài ra, cần gắn trách nhiệm cụ thể cho địa phương trong việc kiểm soát tỷ số giới tính khi sinh, đưa tiêu chí này vào hệ thống đánh giá thi đua của chính quyền các cấp.

Ba là, cần đổi mới truyền thông chính sách theo hướng truyền thông thay đổi hành vi, chuyển từ hình thức đại trà sang tiếp cận có trọng tâm, hướng tới các đối tượng có ảnh hưởng đến quyết định sinh con như nam giới, mẹ chồng hoặc người có uy tín trong cộng đồng. Việc kết hợp các kênh truyền thống (phát thanh, truyền hình) với mạng xã hội, nền tảng số, như: Facebook, TikTok cũng sẽ có lan tỏa thông điệp về tỷ số giới tính khi sinh. Cần tăng cường nội dung giáo dục bình đẳng giới, giá trị của trẻ em gái trong chương trình giáo dục phổ thông và tư vấn tiền hôn nhân.

Bốn là, để bảo đảm tính bền vững, cần tăng đầu tư cho công tác dân số, đồng thời khuyến khích sự tham gia của khu vực tư nhân và tổ chức xã hội vào việc triển khai các mô hình hỗ trợ gia đình sinh con gái và xây dựng hình ảnh tích cực về giá trị giới. Cần nhân rộng các mô hình hay như: “Gia đình sinh con gái được vinh danh”, “Học bổng cho bé gái”, “Câu lạc bộ không phân biệt giới tính khi sinh”. Những giải pháp này sẽ góp phần thúc đẩy hiệu quả chính sách, duy trì sự ổn định cơ cấu giới tính và hướng tới phát triển bền vững, công bằng trong dài hạn.

Tài liệu tham khảo:
1. Cục Dân số (2023). Dân số và Phát triển, Hà Nội.
2. Tạ Thị Hương (2016). Luận án Quản lý nhà nước về cơ cấu giới tính khi sinh ở Việt Nam. Luận án tiến sĩ Quản lý công, Học viện Hành chính Quốc gia.
3. Tổng cục Dân số – Kế hoạch hóa gia đình (2011). Công tác dân số Việt Nam – 60 năm hành trình xây dựng và phát triển. H.NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
4. Tổng cục Thống kê (2024). Kết quả chủ yếu Điều tra dân số và nhà ở giữa kì, thời điểm 0 giờ 01/4/2024. H. NXB Thống kê.
5. OECD – DAC (2019). Evaluation Criteria: Adapted Definitions and Principles for use.