Phát triển kinh tế số tại một số quốc gia châu Á và giá trị tham khảo cho Việt Nam 

NCS. ThS. Trần Duy Lâm
Trường Đại học FPT

(Quanlynhanuoc.vn) – Bài viết phân tích các chính sách nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế số từ những quốc gia khu vực châu Á, như: Hàn Quốc, Trung Quốc, Singapore, Israel; đồng thời, rút ra những giá trị tham khảo cho Việt Nam. Kinh tế số không chỉ đóng vai trò là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế mà còn mở ra cơ hội để nâng cao sức cạnh tranh trong môi trường toàn cầu đang ngày càng khốc liệt. Bài viết nhấn mạnh, việc thiết lập chính sách rõ ràng, trong đó tập trung đầu tư phát triển hạ tầng công nghệ – thông tin, khuyến khích giáo dục kỹ năng số và tăng cường sự tham gia của khu vực tư nhân là những yếu tố then chốt quyết định sự thành công trong phát triển kinh tế số của mỗi quốc gia.

Từ khóa: Kinh tế số; phát triển kinh tế số; quốc gia châu Á; giá trị tham khảo.

1. Đặt vấn đề

Phát triển kinh tế số đang trở thành một xu hướng toàn cầu được xem là một trong những thước đo đánh giá sự phát triển trong nền kinh tế của một quốc gia, quá trình này diễn ra qua nhiều năm. Nội dung chuyển đổi số của mỗi quốc gia là khác nhau phụ thuôc vào tình hình địa lý, điều kiện kinh tế – xã hội đặc trưng nên có thể có những chiến lược riêng biệt nhằm khai thác các cơ hội và ứng phó với thách thức trong nền kinh tế số. Nhiều quốc gia trên thế giới đã ban hành các chính sách chiến lược nhằm đẩy mạnh hạ tầng số, phát triển nguồn nhân lực, hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi số và bảo đảm an toàn dữ liệu, từ đó tạo nền tảng vững chắc cho nền kinh tế số bền vững. 

Tại Việt Nam, phát triển kinh tế số là một trong những định hướng lớn trong các chiến lược phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2021 – 2030, song quá trình hiện thực hóa vẫn còn gặp nhiều khó khăn do hạn chế về thể chế, công nghệ và kỹ năng số. Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu, tham khảo các chính sách hiệu quả từ quốc tế trở thành nhu cầu cấp thiết, không chỉ để nhận diện mô hình phù hợp mà còn giúp Việt Nam xây dựng chính sách phát triển kinh tế số có tính khả thi, linh hoạt và bền vững. 

2. Kinh nghiệm phát triển kinh tế số tại một số quốc gia châu Á

Mặc dù có những cách tiếp cận khác nhau, các tổ chức quốc tế và các quốc gia thường đồng thuận chú trọng vào những nội dung chính khi đề cập đến phát triển kinh tế số, bao gồm: (1) Tăng cường nghiên cứu, ứng dụng và sử dụng công nghệ số, đồng thời, hỗ trợ quá trình chuyển đổi số trong các ngành và lĩnh vực kinh tế. (2) Bảo đảm các điều kiện cần thiết cho sự phát triển của kinh tế số (việc hoàn thiện và phát triển hạ tầng số, xây dựng nguồn nhân lực số và phát triển hệ thống dữ liệu, thông tin). (3) Cải cách và hoàn thiện thể chế cũng như các chính sách liên quan đến phát triển kinh tế số1. Trong đó, vấn đề được quan tâm nhiều nhất là các chính sách để thúc đẩy phát triển kinh tế số hiện nay. Các quốc gia phát triển đã trải qua nhiều bước ngoặt và có sự thay đổi chính sách để thích ứng và phát triển kinh tế số, điều này có thể là một giá trị tham khảo quý báu cho Việt Nam hiện nay.

a. Tại Singapore

Chính phủ Singapore phê duyệt “Chương trình hành động phát triển kinh tế số” (Digital economy framework for action) vào đầu năm 2021, mục tiêu “Nền kinh tế số hàng đầu và liên tục tự đổi mới”. Một số nội dung chính trong chương trình hành động phát triển kinh tế số của Singapore, bao gồm: 

(1) Tăng tốc: chuyển đổi số mạnh mẽ các ngành, lĩnh vực. Tập trung chuyển đổi số doanh nghiệp; đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ;

(2) Cạnh tranh: tăng năng lực cạnh tranh quốc gia bằng các nền tảng số (cho hệ sinh thái tích hợp mới tập trung vào nhu cầu khách hàng) có khả năng đi ra toàn cầu; 

(3) Đổi mới: phát triển các ngành công nghệ số thế hệ tiếp theo để tạo động lực tăng trưởng và thúc đẩy chuyển đổi số ngành.

Để thực thi giải pháp thúc đẩy kinh tế số, Chính phủ Singapore đã tập trung phát triển dựa trên bốn nền tảng: Một là, nhân lực: liên tục đào tạo, đào tạo lại kỹ thuật số và phát triển lực lượng nhân lực số. Hai là, nghiên cứu và đổi mới sáng tạo: hỗ trợ doanh nghiệp sáng tạo và tận dụng tài sản trí tuệ để nâng cao khả năng cạnh tranh, khai thác năng lực cộng đồng khoa học. Ba là, chính sách, quy định và tiêu chuẩn: bảo đảm rằng, môi trường pháp lý và chính sách kinh tế số là cạnh tranh nhất. Bốn là, hạ tầng số và vật lý: bảo đảm rằng, mạng kết nối, nền tảng, dữ liệu và các hạ tầng số khác hỗ trợ tốt nhất cho kinh tế số. Với các chính sách thúc đẩy, kinh tế số đã đem lại những thành tựu giúp Singapore trở thành một trong những trung tâm kinh tế số hàng đầu ở châu Á và trên thế giới.

b. Tại Israel

Nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của chuyển đổi số, từ năm 2013, Chính phủ Israel đã chủ động xác định nhu cầu thiết yếu trong việc xây dựng một chính sách kỹ thuật số toàn diện “Sáng kiến Israel Kỹ thuật số” đã được đề xuất như 1 trong 6 vấn đề chiến lược cần ưu tiên trong Báo cáo đánh giá kinh tế – xã hội của Hội đồng Kinh tế quốc gia qua Nghị quyết số 1046. Đây chính là nền tảng để triển khai chính sách quốc gia về ứng dụng công nghệ – thông tin. Năm 2015, Chính phủ Israel đã chính thức phê duyệt Chương trình quốc gia số, đánh dấu bước tiến quan trọng trong hành trình này.

Đối với kinh tế số, Chính phủ Israel đặt ra mục tiêu tổng quát: “Tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế số”. Chính sách phát triển kinh tế số của Israel tập trung vào các lĩnh vực cụ thể, như: thúc đẩy doanh nghiệp và công nghiệp số; phát triển thị trường lao động trong thời đại số; hỗ trợ phát triển hạ tầng; thúc đẩy môi trường thuận lợi phát triển công nghệ số – kinh tế số, đầu tư vào giáo dục, thiết lập các trung tâm, viện nghiên cứu; thúc đẩy doanh nghiệp thành doanh nghiệp số; tăng cường, khuyến khích sử dụng công nghệ số, nền tảng thương mại điện tử. 

Chính phủ Israel đã đạt nhiều thành tựu ấn tượng trong lĩnh vực kinh tế số, nổi bật với vị thế là trung tâm khởi nghiệp hàng đầu thế giới, đặc biệt trong công nghệ thông tin và phần mềm. Quốc gia này có một hệ sinh thái khởi nghiệp mạnh mẽ nhờ sự hỗ trợ từ chính phủ và các quỹ đầu tư, cùng với việc đầu tư đáng kể vào nghiên cứu và phát triển (R&D). Ngoài ra, Israel còn chú trọng đến giáo dục STEM để nâng cao kỹ năng cho thế hệ trẻ và tích cực tham gia vào các sáng kiến hợp tác quốc tế. Những yếu tố này đã góp phần biến Israel thành một biểu tượng của đổi mới sáng tạo và công nghệ ở cấp độ toàn cầu.

c. Tại Trung Quốc

Trong hai thập niên gần đây, Trung Quốc đã nổi lên như một trong những quốc gia dẫn đầu toàn cầu về phát triển kinh tế số. Với tầm nhìn chiến lược dài hạn, Chính phủ đã đưa kinh tế số trở thành trụ cột trong chiến lược phát triển quốc gia, gắn liền với các chương trình, như: “Internet +”, “Made in China 2025” và Chiến lược Chuyển đổi số quốc gia. 

Năm 2024, theo dữ liệu của IMF, Trung Quốc đứng thứ 2 trong số các quốc gia có GDP cao nhất chỉ sau Mỹ2. Cùng năm, Trung Quốc ghi nhận mức tăng trưởng GDP khoảng 5%, với tổng sản phẩm quốc nội đạt con số ấn tượng 134.900 tỷ nhân dân tệ (tương đương 18.566 tỷ USD) theo số liệu từ Cục Thống kê Quốc gia Trung Quốc3. Hiện nay, “quy mô nền kinh tế số của Trung Quốc đã tăng lên 50,2 nghìn tỷ nhân dân tệ (khoảng 6,96 nghìn tỷ USD) vào năm 2022, với tốc độ tăng trưởng hai con số hằng năm là 14,2% kể từ năm 2016. Tỷ trọng của kinh tế số trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Trung Quốc tăng lên 41,5% vào năm 2022 và tốc độ tăng trưởng của kinh tế số trong thời gian này cao hơn khoảng 10% so với tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế. Trong nhiều năm qua, nền kinh tế số của Trung Quốc luôn giữ vị trí thứ hai trên toàn cầu và thực sự trở thành một động lực cơ bản thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước”4.

Các yếu tố nổi bật góp phần thúc đẩy kinh tế số tại Trung Quốc, gồm: (1) Hạ tầng số phát triển mạnh mẽ, Trung Quốc đã xây dựng hệ thống viễn thông tiên tiến với mạng 5G phủ sóng rộng khắp và đầu tư mạnh vào trung tâm dữ liệu, điện toán đám mây và trí tuệ nhân tạo (AI). (2) Doanh nghiệp công nghệ số tiên phong, sự lớn mạnh của các “gã khổng lồ”, như: Alibaba, Tencent, Baidu, Huawei và ByteDance đã tạo ra các hệ sinh thái số phong phú, từ thương mại điện tử, thanh toán không dùng tiền mặt, đến dịch vụ số hóa cho doanh nghiệp. (3) Chính sách hỗ trợ toàn diện, Chính phủ Trung Quốc ban hành hàng loạt chính sách thúc đẩy đổi mới sáng tạo, hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp số, áp dụng công nghệ trong sản xuất, dịch vụ công, giáo dục, y tế và tài chính. (4) Chuyển đổi số trong khu vực công và quản trị, Trung Quốc đẩy mạnh xây dựng “Chính phủ số”, phát triển dữ liệu lớn trong quản lý nhà nước và các thành phố thông minh nhằm nâng cao hiệu quả điều hành và phục vụ người dân.

d. Tại Hàn Quốc

Hàn Quốc là một trong những quốc gia đi đầu trong phát triển kinh tế số tại khu vực châu Á và trên thế giới. Hàn Quốc đạt được những thành tựu nổi bật trong phát triển kinh tế số hiện nay là kết quả của quá trình kiên trì và quyết tâm mạnh mẽ từ phía Chính phủ. Quốc gia này đã chú trọng xây dựng hạ tầng số hiện đại, đẩy mạnh ứng dụng khoa học và công nghệ tiên tiến, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đổi mới sáng tạo diễn ra sôi động. Một trong những yếu tố quan trọng là việc hoàn thiện khung pháp lý phù hợp với môi trường số và nâng cao kỹ năng sử dụng công nghệ cho người dân. Chính sự phối hợp đồng bộ giữa chiến lược dài hạn, đầu tư công nghệ và nâng cao năng lực con người đã tạo nên nền tảng vững chắc cho kinh tế số phát triển nhanh chóng tại Hàn Quốc. 

Năm 2000, Hàn Quốc đã xác định kinh tế số là động lực chủ lực cho tăng trưởng trong dài hạn, với việc triển khai các chương trình quốc gia, như: “e-Korea Vision”, “Smart Korea” hay “Digital New Deal”. Chính phủ Hàn Quốc tập trung vào ba trụ cột chính: 

(1) Xây dựng hạ tầng số tiên tiến, Hàn Quốc đã sớm phủ sóng internet băng rộng và mạng 5G trên toàn quốc, trở thành một trong những nước có tốc độ internet nhanh nhất thế giới. 

(2) Hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, đặc biệt là trong các lĩnh vực công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn và robot, với sự tham gia mạnh mẽ của khu vực tư nhân và các tập đoàn công nghệ lớn như Samsung, LG, Naver,… 

(3) Nâng cao năng lực thể chế và nhân lực, Hàn Quốc chú trọng xây dựng hành lang pháp lý phù hợp với nền kinh tế số, thúc đẩy chuyển đổi số trong khu vực công và đầu tư mạnh vào giáo dục kỹ năng số cho người dân.

Hiện nay, kinh tế số của Hàn Quốc đóng góp hơn 35% GDP và tiếp tục mở rộng trong các lĩnh vực như y tế số, chính phủ điện tử, tài chính số và thành phố thông minh. Ngoài ra, quốc gia này còn tích cực xuất khẩu các nền tảng và giải pháp số ra quốc tế, khẳng định vị thế là trung tâm công nghệ số toàn cầu. 

3. Giá trị tham khảo cho phát triển kinh tế số tại Việt Nam

Phát triển kinh tế số đang được xác định là một trong những ưu tiên chiến lược trong quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng và hiện đại hóa nền kinh tế Việt Nam. Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách quan trọng, như: Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030; Chiến lược quốc gia về phát triển kinh tế số và xã hội số… Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể trong chuyển đổi số và từng bước hình thành nền tảng cho nền kinh tế số. 

Theo Bộ Thông tin và Truyền thông, đến năm 2024, “Việt Nam đã vươn lên vị trí thứ 71/193 quốc gia trong bảng xếp hạng Chính phủ điện tử của Liên hiệp quốc (công bố tháng 9/2024), tăng 15 bậc so với 2022”5, “tỷ trọng kinh tế số năm 2024 ước đạt 18,3% GDP, tốc độ tăng trưởng vượt 20%/năm, cao gấp 3 lần tốc độ tăng trưởng GDP, nhanh nhất Đông Nam Á. Thương mại điện tử bán lẻ đạt doanh thu 25 tỷ USD, tăng khoảng 20%. Việt Nam thuộc top 10 quốc gia có tốc độ tăng trưởng thương mại điện tử hàng đầu thế giới. Tốc độ tăng trưởng thanh toán không dùng tiền mặt hằng năm tăng hơn 50%, dẫn đầu Đông Nam Á”6

Tuy nhiên, quá trình phát triển kinh tế số ở Việt Nam cũng đối mặt với nhiều thách thức, như: năng lực thể chế còn hạn chế, chênh lệch số giữa các vùng miền, chất lượng nguồn nhân lực số chưa đáp ứng yêu cầu và sự phụ thuộc lớn vào nền tảng số nước ngoài. Do đó, việc hoàn thiện chính sách pháp lý, đầu tư phát triển nguồn nhân lực và hỗ trợ doanh nghiệp trong nước nâng cao năng lực công nghệ là những yêu cầu cấp thiết để thúc đẩy kinh tế số phát triển bền vững và bao trùm. Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu kinh nghiệm phát triển kinh tế số tại một số quốc gia châu Á và rút ra giá trị tham khảo cho phát triển kinh tế số ở Việt Nam là rất cần thiết. 

Từ thực tiễn phát triển kinh tế số tại một số quốc gia châu Á, như: Singapore, Israel, Trung Quốc, Hàn Quốc,… có thể rút ra các giá trị tham khảo cho Việt Nam trong thúc đẩy phát triển kinh tế số như sau:

Thứ nhất, tăng cường nhận thức cho các chủ thể, bao gồm cán bộ, công chức, doanh nghiệp và người dân, về kinh tế số là cần thiết, đặc biệt là về tiềm năng, những đóng góp, lợi ích cũng như thách thức mà kinh tế số mang lại. Điều này nhằm tạo ra sự thống nhất và đồng thuận trong quá trình phát triển kinh tế.

Thứ hai, các quốc gia đang tích cực xây dựng và hoàn thiện thể chế, pháp luật, cũng như chính sách nhằm tạo ra khung khổ cho sự phát triển của kinh tế số. Một điểm chung của các quốc gia là việc thành lập các cơ quan và thiết chế chuyên trách có thẩm quyền và trách nhiệm cao trong việc phát triển kinh tế số. Cơ quan này thường thuộc về Chính phủ, phối hợp với các bộ, ngành liên quan. Một số quốc gia còn thiết lập các cơ quan chuyên trách tại các ngành và địa phương nhằm thúc đẩy chuyển đổi số và phát triển kinh tế số tại các khu vực cụ thể.

Các quốc gia cũng chú trọng việc xây dựng chính sách quy chuẩn và thực hiện tiêu chuẩn hóa quy trình sản xuất để tăng cường kết nối và liên thông. Đa số các chính phủ tại các quốc gia đã ban hành các luật và chính sách về an ninh mạng và an ninh thông tin, làm cơ sở cho việc thiết lập chuẩn trao đổi thông tin giữa các bên, đồng thời bảo đảm an toàn cho dữ liệu của tổ chức, cá nhân và doanh nghiệp trong kinh tế số.

Thứ ba, các quốc gia đều xác định các ngành và lĩnh vực then chốt để phát triển kinh tế số dựa trên thế mạnh và đặc điểm riêng của mình. Họ cũng nhận diện đầy đủ các lĩnh vực kinh tế số có tác động tích cực đến việc mở rộng thị trường và thúc đẩy tiêu dùng, bao gồm thông tin số, liên lạc số, giải trí số, và thương mại điện tử. Bên cạnh đó, những lĩnh vực nền tảng như hạ tầng số, tài nguyên số, dịch vụ số và thị trường số cũng được chú trọng. Ngoài ra, các quốc gia xác định những lĩnh vực quan trọng và cốt lõi cần phải phát triển và nắm vững công nghệ, kỹ thuật, như dữ liệu số, vật liệu thông minh, robot thế hệ mới, trí tuệ nhân tạo, phương tiện thông minh và năng lượng thông minh. Những yếu tố này sẽ giúp xây dựng giải pháp chính sách hợp lý cho sự phát triển kinh tế số.

Thứ tư, để hỗ trợ các chủ thể và doanh nghiệp trong nền kinh tế tiếp cận được kinh tế số, một số quốc gia đã xây dựng các kế hoạch và hướng dẫn cụ thể về chuyển đổi số cho doanh nghiệp. Những kế hoạch này thường gắn liền với các nguồn tài chính và ngân sách hằng năm nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong việc tiếp cận nền kinh tế số. Đồng thời, các quốc gia cũng thành lập các trung tâm tư vấn và hỗ trợ cho doanh nghiệp trong quá trình chuyển đổi số, chẳng hạn, như: Trung tâm Hỗ trợ Doanh nghiệp thực hiện Công nghiệp 4.0, Trung tâm Chuyển đổi Công nghiệp và Trung tâm hỗ trợ xây dựng nhà máy thông minh.

Thứ năm, các quốc gia đều chú trọng đến việc giải quyết các vấn đề phát sinh từ sự phát triển của kinh tế số. Các quốc gia phát triển xác định rõ những ngành nghề có nguy cơ bị “khai tử”, các ngành nghề mới sẽ xuất hiện và những lao động có thể bị thay thế bởi robot và trí tuệ nhân tạo. Đồng thời, các quốc gia cũng nỗ lực bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng trong môi trường số cũng như bảo đảm an ninh mạng và an ninh thông tin. Bên cạnh đó, phải xử lý các mâu thuẫn và xung đột giữa các mô hình kinh doanh truyền thống và những mô hình mới xuất hiện. Từ đó, các quốc gia có thể đề ra những giải pháp và chính sách phù hợp.

Thứ sáu, các quốc gia đều chú trọng đến việc phát triển nguồn nhân lực và hạ tầng cho nền kinh tế số với mục tiêu tập trung vào việc phát triển và thu hút các chuyên gia công nghệ số cũng như doanh nghiệp số. Ngoài ra, cần áp dụng nhiều biện pháp đổi mới trong giáo dục và đào tạo để tái đào tạo lực lượng lao động giúp họ theo kịp với các xu hướng công nghệ số. Những biện pháp này, bao gồm: cập nhật kỹ năng số cho đội ngũ cán bộ, công chức và quản lý; bổ sung và cập nhật giáo trình về công nghệ số và kỹ năng số trong hệ thống giáo dục; thúc đẩy sự liên kết giữa các trường học và doanh nghiệp trong việc thực hành ứng dụng công nghệ số và chuyển đổi mô hình đào tạo theo hướng: “Học, học nữa, học mãi” với sự tập trung vào tính linh hoạt, thực học và học tập suốt đời, lấy thực hành làm trọng tâm. 

4Kết luận 

Kinh tế số đã trở thành một xu hướng quan trọng và là một trong những tiêu chí đánh giá sức mạnh của nền kinh tế quốc gia. Kinh nghiệm từ các quốc gia châu Á, như: Hàn Quốc, Trung Quốc, Singapore, Israel cho thấy, phát triển kinh tế số đòi hỏi tầm nhìn chiến lược, đầu tư đồng bộ vào hạ tầng, thể chế và nguồn nhân lực. Các nước này đều coi chuyển đổi số là động lực then chốt để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững. 

Việt Nam có nhiều cơ hội để tận dụng xu thế kinh tế số song cần tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý, nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo và thu hẹp khoảng cách số. Việc học hỏi các mô hình thành công quốc tế cần được thực hiện linh hoạt, có chọn lọc phù hợp với điều kiện trong nước. Đây là cơ sở quan trọng để xây dựng chính sách phát triển kinh tế số hiệu quả, góp phần thực hiện mục tiêu phát triển nhanh và bền vững trong kỷ nguyên số.

Chú thích:

1. Nguyễn Văn Thạo, Nguyễn Mạnh Hùng (2023). Phát triển kinh tế số ở Việt Nam. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 71.

2. Top 15 countries by GDP in 2024. https://globalpeoservices.com/top-15-countries-by-gdp-in-2024/.

3. China’s economic outlook 2025. Global Times. https://www.globaltimes.cn/page/202501/1327066.shtml.

4. Phát triển kinh tế số ở Trung Quốc và một số hàm ý chính sách. https://hvctcand.bocongan.gov.vn/nghien-cuu-quoc-te/phat-trien-kinh-te-so-o-trung-quoc-va-mot-so-ham-y-chinh-sach-7122.

5, 6. Kinh tế số Việt Nam tăng trưởng nhanh nhất khu vực. https://baochinhphu.vn/kinh-te-so-viet-nam-tang-truong-nhanh-nhat-khu-vuc-102250206152332651.htm.

Tài liệu tham khảo:

1. Bộ Chính trị (2024). Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.

2. Thủ tướng Chính phủ (2024). Quyết định số 36/QĐ-TTg ngày 11/01/2024 về phê duyệt quy hoạch hạ tầng thông tin và truyền thông thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050.

3. Thúc đẩy phát triển kinh tế số nhanh và bền vững. https://www.quanlynhanuoc.vn/2021/06/10/thuc-day-phat-trien-kinh-te-so-nhanh-va-ben-vung/

4. Lực lượng sản xuất trong giai đoạn phát triển kinh tế số ở Việt Nam. https://www.quanlynhanuoc.vn/2023/03/30/luc-luong-san-xuat-trong-giai-doan-phat-trien-kinh-te-so-o-viet-nam/