ThS. Trịnh Thị Kim Thoa
Trường Đại học Công nghệ Thông tin và Truyền thông, Đại học Thái Nguyên
(Quanlynhanuoc.vn) – Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh với trí tuệ uyên bác và nhãn quan chính trị nhạy bén đã xác định nhiều vấn đề cốt lõi của cách mạng Việt Nam. Người đưa ra những quyết sách đúng đắn, phù hợp với từng giai đoạn lịch sử, trong đó nổi bật là phương châm “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”1. Tư tưởng “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ định hướng cho nhận thức và hành động của Đảng và Nhân dân ta trong giai đoạn 1945 – 1946 mà còn tiếp tục soi sáng con đường phát triển kinh tế của đất nước hiện nay. Sự kiên định về nguyên tắc nhưng mềm dẻo trong hành động chính là yếu tố then chốt giúp Việt Nam vượt qua những thách thức, tranh thủ cơ hội, phát triển kinh tế bền vững, bảo vệ vững chắc chủ quyền và nâng cao vị thế quốc gia trên trường quốc tế.
Từ khóa: Chủ tịch Hồ Chí Minh; “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”; nền kinh tế nhiều thành phần; Việt Nam.
1. Đặt vấn đề
Năm 1946, trong bối cảnh đất nước vừa giành được độc lập nhưng còn non trẻ và đứng trước nhiều thử thách, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lên đường sang Pháp để đàm phán, tìm kiếm giải pháp hòa bình nhằm bảo vệ nền độc lập dân tộc. Trước khi đi, Người đã ủy nhiệm cho cụ Huỳnh Thúc Kháng giữ chức Quyền Chủ tịch nước từ ngày 31/5 – 20/10/19462.
Cụ Huỳnh Thúc Kháng là một chí sĩ yêu nước nổi tiếng, có uy tín lớn trong xã hội, không phải là đảng viên cộng sản nhưng được Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt tin tưởng. Tiễn Chủ tịch Hồ Chí Minh ra sân bay, cụ Huỳnh Thúc Kháng đã bày tỏ sự lo lắng về tình hình đất nước và Cụ đã hỏi Bác một câu: “Nước nhà đang bề bộn công việc, Cụ lại đi vắng dài ngày thì tôi biết làm sao? Xin cụ cho tôi một lời khuyên” 3. Bác đã căn dặn: “Tôi vì nhiệm vụ quốc dân giao phó phải đi xa ít lâu, ở nhà trăm sự khó khăn nhờ cậy ở Cụ cùng anh em giải quyết cho, mong Cụ “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”4. Câu nói ấy không chỉ là lời dặn riêng cho cụ Huỳnh Thúc Kháng, mà còn là một triết lý hành động sâu sắc, thể hiện tầm nhìn chiến lược và bản lĩnh chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Lời dặn của Người không chỉ là kim chỉ nam cho một thời kỳ lịch sử đặc biệt mà còn là bài học quý giá về nghệ thuật lãnh đạo, điều hành đất nước trong mọi hoàn cảnh; đồng thời, nhấn mạnh tầm quan trọng của sự kiên định về mục tiêu và linh hoạt về phương pháp.
2. Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”
“Dĩ bất biến, ứng vạn biến” là cụm từ có nguồn gốc tiếng Hán. Có thể hiểu triết lý “Dĩ bất biến ứng vạn biến” có nghĩa là lấy cái bất biến (cái không thay đổi) ứng phó với cái vạn biến (cái thay đổi); ứng phó với cái vạn biến nhưng không xa rời, vứt bỏ, đánh mất cái bất biến. Triết lý này nhấn mạnh rằng, trong bất kỳ tình huống nào con người cần giữ vững lập trường, lý tưởng; đồng thời, phải linh hoạt, khéo léo trong cách hành xử để thích nghi và vượt qua thử thách mà không đánh mất bản chất cốt lõi của mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng tư tưởng này một cách tài tình trong lãnh đạo cách mạng, đặc biệt là trong giai đoạn năm 1945 – 1946 và đến nay vẫn còn nguyên giá trị trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
2.1. Tư tưởng về cái “bất biến”
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, cái “bất biến” không phải là thứ cứng nhắc, bảo thủ mà là những giá trị cốt lõi, nguyên tắc nền tảng không thể thay đổi – như độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, hạnh phúc của Nhân dân và định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN). Cái “bất biến” chính là điểm tựa để ứng phó với muôn vàn biến động của thời cuộc – tức cái “vạn biến”. Nếu không có cái bất biến làm trục xoay thì mọi hành động sẽ dễ rơi vào tình trạng tùy tiện, mất phương hướng. Ngược lại, nếu chỉ giữ cái bất biến mà không linh hoạt ứng xử với thực tiễn thì sẽ trở nên giáo điều, cứng nhắc. Người ra đi tìm đường cứu nước với tư cách người dân bị mất nước khát vọng giải phóng dân tộc của một con người yêu nước, điều bất biến đầu tiên trong tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập, tự do của dân tộc. Đây là yêu cầu đầu tiên và cơ bản nhất đặt ra với mỗi quốc gia dân tộc, trong đó có Việt Nam.
Từ năm 1930, Nguyễn Ái Quốc đã soạn thảo Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng với nội dung cốt lõi nhất là tư tưởng độc lập – tự do. Đến tháng 8/1945, thời cơ cách mạng đã chín muồi để giải phóng dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành được độc lập”5. Cách mạng Tháng Tám thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc Tuyên ngôn Độc lập, trịnh trọng khẳng định trước thế giới: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập đó”6.
Việc lựa chọn con đường cách mạng vô sản để giải phóng dân tộc và đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) là sự lựa chọn khách quan của lịch sử Việt Nam. Người viết: “Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc…”7. Chỉ có CNXH mới đáp ứng được khát vọng của toàn dân tộc, độc lập cho dân tộc, dân chủ cho Nhân dân, cơm no áo ấm cho mọi người dân Việt Nam. Người giải thích: “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc uống, già không lao động thì được nghỉ… Tóm lại, xã hội ngày càng tiến bộ, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội”8.
2.2. Tư tưởng về cái “vạn biến”
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết, là quyền thiêng liêng không thể bị xâm phạm của mỗi dân tộc. Người khẳng định: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”9. Mỗi dân tộc trên thế giới, dù là dân tộc ở phương Đông hay dân tộc ở phương Tây, dân tộc lớn hay nhỏ, dân tộc phát triển lâu đời hay dân tộc mới ra đời đều có quyền độc lập. Nhưng nền độc lập ấy phải gắn liền với tự do, hạnh phúc của Nhân dân. Người cho rằng: “Nếu nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”10. Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định CNXH là con đường duy nhất để bảo đảm hạnh phúc cho Nhân dân, phát triển đất nước một cách toàn diện và bền vững. Đây là hai mục tiêu chiến lược, xuyên suốt và không thay đổi – chính là cái “bất biến” trong tư tưởng của Người.
Cái “vạn biến” – sự linh hoạt trong sách lược và phương pháp, mọi chính sách, hành động, sách lược cụ thể đều có thể thay đổi để thích ứng với hoàn cảnh lịch sử, tình hình quốc tế và trong nước. Cái “vạn biến” – sự mềm dẻo, uyển chuyển, sáng tạo trong cách thức thực hiện mục tiêu bất biến. Cùng mục tiêu “bất biến” là CNXH nhưng mỗi dân tộc sẽ đi bằng nhiều con đường khác nhau do đặc điểm lịch sử của mỗi quốc gia, dân tộc khác nhau. Để tiến tới cái “bất biến” thì trên con đường ấy phải luôn “vạn biến”, vì mỗi chặng đường cụ thể lại có những hoàn cảnh mới thay đổi, nói cách khác là luôn đổi mới và phát triển. Người tuyên bố: “Làm khác với Liên Xô, Trung Quốc cũng là Mác xít”11, vì Liên Xô có phong tục tập quán khác, có lịch sử địa lý khác ta. Tuy nhiên, muốn giữ vững và nhất quán với cái “bất biến”, đòi hỏi con người phải có sự nhạy cảm và năng lực sáng tạo để thực hiện cái khả biến trong mọi hoàn cảnh và tình huống. Phải nhạy cảm mới nhận ra sự thay đổi của hoàn cảnh lịch sử, phải sáng tạo mới tìm ra thượng sách để giải quyết những bài toán không có trong tiền lệ… Bằng sự linh hoạt, uyển chuyển của mình Người đã giải quyết mối quan hệ giữa hai vấn đề vô cùng phức tạp, tưởng chừng đối lập với nhau về nguyên tắc thực hiện, đó là, giữ vững độc lập dân tộc và kiên định con đường đi lên CNXH. Điều đó làm nên phong cách Hồ Chí Minh vô cùng linh hoạt, quyền biến nhưng không xa rời nguyên tắc; cương nghị, cứng rắn nhưng không xơ cứng, sáo mòn. Với tầm nhìn sâu sắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Mục đích bất di, bất dịch của ta vẫn là hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, nguyên tắc của ta thì phải vững chắc nhưng sách lược của ta thì linh hoạt”12.
Như vậy, có thể hiểu cái “bất biến” thường thuộc về những vấn đề chiến lược, những vấn đề được thực hiện trong một thời gian dài không thay đổi cho tới khi đạt được; còn cái “vạn biến” không chỉ đơn giản là những thay đổi của hoàn cảnh khách quan mà cái “vạn biến” còn thường là vấn đề sách lược của cách mạng nhằm đạt tới mục tiêu bất biến, mục tiêu chiến lược đã định. Cái “vạn biến” có thể thay đổi, điều chỉnh dùng trong điều kiện, hoàn cảnh cụ thể để đấu tranh với kẻ thù nhằm những kết quả có lợi cho cách mạng.
3. Vận dụng tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” về phát triển nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định vai trò then chốt của phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH với mục đích cuối cùng cái “bất biến” của phát triển kinh tế CNXH là nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho Nhân dân, hướng tới xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Phát triển kinh tế là tiền đề, là cơ sở cho sự phát triển văn hóa nhằm xóa bỏ nghèo nàn và lạc hậu. Để thực hiện được mục tiêu đó, Người chủ trương xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần. Theo Người, về cơ bản, cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam, bao gồm: kinh tế quốc doanh; các hợp tác xã; kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ; tư bản của tư nhân và cuối cùng là tư bản của nhà nước. Sự tồn tại của các thành phần kinh tế khác nhau là một tất yếu khách quan và có vai trò nhất định đối với sự phát triển của nền kinh tế trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam.
Đảng và Nhà nước đã vận dụng linh hoạt và phát triển sáng tạo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần, phù hợp với yêu cầu của thời kỳ quá độ đi lên CNXH. Mục tiêu xuyên suốt và không thay đổi vẫn là không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của Nhân dân – một giá trị “bất biến” trong tư tưởng phát triển vì con người của Hồ Chủ tịch. Hiện nay, Đảng và Nhà nước đã vận dụng các quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh; đồng thời, tiếp thu những sáng kiến từ Nhân dân. Đây là sự kết hợp giữa tư tưởng lãnh đạo và trí tuệ tập thể đã góp phần quan trọng vào quá trình đổi mới và phát triển đất nước.
Hội nghị Trung ương 6 (khóa IV) của Đảng với chủ trương và quyết tâm thúc đẩy sản xuất phát triển mạnh mẽ, có thể coi là bước đột phá đầu tiên – sự chuyển biến quan trọng mở đầu cho quá trình đổi mới kinh tế. Hội nghị đã đề ra biện pháp điều chỉnh chủ trương, chính sách để phát triển kinh tế, dỡ bỏ các rào cản tạo điều kiện cho sản xuất phát triển. Chẳng hạn, các chính sách để ổn định lương thực trong nước, điều chỉnh lại chính sách thuế lương thực, giá lương thực để khuyến khích người nông dân lao động sản xuất; cải tiến các chính sách lưu thông, phân phối (giá, lương, tiền tài chính, ngân hàng)… Các chính sách này được coi là bước đột phá đầu tiên có tác động tích cực đến đời sống của Nhân dân. Tuy nhiên, do chiến tranh biên giới phía Bắc và Tây Nam diễn ra dẫn đến các chính sách kinh tế không được thực hiện đầy đủ nên đời sống Nhân dân vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Mục tiêu nâng cao chất lượng cuộc sống của Nhân dân – mục tiêu bất biến trong các chính sách, kế hoạch phát triển kinh tế chưa đạt được. Vì vậy, yêu cầu đặt ra cho hoạt động kinh tế là phải điều chỉnh giải quyết vấn đề về giá lương thực, sản xuất hàng hóa và những quy luật sản xuất hàng hóa được xem là những vấn đề trọng điểm.
Tháng 8/1986, trong quá trình chuẩn bị Dự thảo Báo cáo Chính trị Đại hội VI đã đề xuất một loạt điều chỉnh quan trọng về chính sách kinh tế. Cơ cấu kinh tế được định hướng lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu, đẩy mạnh phát triển công nghiệp nhẹ; đồng thời, phát triển công nghiệp nặng một cách có chọn lọc. Trong công cuộc xây dựng XHCN, Đảng xác định rõ: cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là đặc trưng tất yếu của thời kỳ quá độ, lấy kế hoạch làm trung tâm nhưng phải kết hợp linh hoạt với quan hệ hàng hóa – tiền tệ; kiên quyết xóa bỏ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp. Chính sách giá cả cần vận dụng quy luật giá trị, hướng tới thực hiện cơ chế một giá, phù hợp với yêu cầu đổi mới, trong đó lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm với nội dung cơ bản là phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (tháng 12/1986), là một dấu mốc quan trọng, không chỉ khởi xướng công cuộc đổi mới mà còn dũng cảm trên tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”13. Tại Đại hội, Đảng đã thẳng thắn tự phê bình và chỉ rõ những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài trong quá trình cải tạo và xây dựng CNXH, đặc biệt trong các lĩnh vực, như: bố trí cơ cấu kinh tế chưa phù hợp với thực tiễn; cơ chế quản lý và phân phối mang tính quan liêu, bao cấp, dẫn đến trì trệ; cải tạo XHCN tiến hành nóng vội, thiếu căn cứ thực tiễn. Chính sự thừa nhận những khuyết điểm này đã tạo tiền đề cho việc đổi mới tư duy lý luận và thực tiễn, mở đường cho các chính sách kinh tế thị trường định hướng XHCN, phát triển kinh tế nhiều thành phần và cải thiện đời sống Nhân dân.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (năm 1991), Đảng ta đã chính thức xác định nền kinh tế Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên CNXH là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Cụ thể: kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế; kinh tế tập thể phát triển theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng và cùng có lợi; kinh tế cá thể đặc biệt là kinh tế hộ gia đình được khuyến khích phát triển; kinh tế tư bản tư nhân được phép hoạt động trong các lĩnh vực phù hợp và kinh tế tư bản nhà nước là hình thức liên doanh giữa nhà nước và tư nhân nhằm huy động vốn và kỹ thuật phục vụ phát triển đất nước14.
Đại hội VII đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH Cương lĩnh đã xác định mô hình phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước với những định hướng quan trọng là: xóa bỏ triệt để cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp; hình thành cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác; phát triển lực lượng sản xuất, thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển nông nghiệp toàn diện; thiết lập quan hệ sản xuất XHCN phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đa dạng hóa hình thức sở hữu. Đây là bước ngoặt lớn trong tư duy kinh tế của Đảng, thể hiện sự chuyển mình mạnh mẽ từ mô hình bao cấp sang mô hình thị trường có định hướng, phù hợp với thực tiễn Việt Nam và bối cảnh quốc tế lúc bấy giờ.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (năm 1996), đã tiếp tục khẳng định và phát triển quan điểm về kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN, kế thừa Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII.
Tiếp đến, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (năm 2001) đã đánh dấu một bước phát triển mới trong tư duy và thể chế kinh tế của Việt Nam trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH Đại hội khẳng định Đảng và Nhà nước ta chủ trương “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc”15. Đây là bước phát triển mới về nhận thức lý luận, thể hiện sự chuyển biến mạnh mẽ trong tư duy kinh tế của Đảng về chủ động xây dựng một nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (năm 2006) xác định 5 thành phần kinh tế ở Việt Nam: kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể; kinh tế tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật, đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, bình đẳng trước pháp luật cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Đại hội X của Đảng khẳng định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN: “Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo là lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân”16.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng có nhiệm vụ nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật, đề cao tinh thần tự phê bình nghiêm túc, để kiểm điểm, đánh giá khách quan, toàn diện những thành tựu và yếu kém, khuyết điểm; đồng thời, rút ra những bài học kinh nghiệm qua việc thực hiện Nghị quyết Đại hội X của Đảng, thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội 5 năm (2006 – 2010), tổng kết Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm (2001 – 2010) và 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Trên cơ sở đó, Đại hội quyết định việc bổ sung, phát triển Cương lĩnh năm 1991; xác định Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm (2011 – 2020); đề ra phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ 5 năm (2011 – 2015).
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII (năm 2016), một dấu mốc quan trọng trong quá trình hoàn thiện lý luận về kinh tế thị trường định hướng XHCN. Trên cơ sở tổng kết thực tiễn 30 năm đổi mới, Đảng đã có những khái quát mới về lý luận sở hữu và các thành phần kinh tế: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật”17. Có thể thấy, Đảng đã đạt được sự phát triển sâu sắc và toàn diện trong tư duy kinh tế, phù hợp với yêu cầu thực tiễn và xu thế hội nhập. Việc xác lập rõ vai trò của các thành phần kinh tế, đặc biệt là khẳng định vai trò động lực của kinh tế tư nhân bên cạnh vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, thể hiện bước tiến lớn trong nhận thức và hành động. Đồng thời, tư tưởng về sự bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật giữa các chủ thể kinh tế đã tạo nền tảng cho việc xây dựng một môi trường kinh doanh minh bạch, năng động và hiện đại.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (năm 2021), Đảng khẳng định: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó: kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố, phát triển; kinh tế tư nhân là động lực quan trọng; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội”18. Trong đó, cái “bất biến” là mục tiêu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, bảo đảm công bằng, dân chủ, văn minh, lấy con người làm trung tâm. Cái “vạn biến” là sự linh hoạt trong tổ chức, vận hành và điều chỉnh chính sách kinh tế phù hợp với bối cảnh toàn cầu hóa, chuyển đổi số, biến đổi khí hậu và các thách thức mới.
Thông qua các kỳ Đại hội của Đảng, trước những biến đổi của thực tiễn phát triển đất nước, trước những khó khăn vướng mắc cần phải giải quyết, quan điểm của Đảng ta về phương hướng, chính sách, biện pháp phát triển kinh tế đã có sự thay đổi phù hợp với yêu cầu của quá trình phát triển, hoàn thiện định hướng về xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần trong quá trình quá độ lên CNXH ở Việt Nam nhằm đáp ứng được mục tiêu nâng cao chất lượng đời sống nhân dân.
Tư tưởng “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nguyên lý chỉ đạo sâu sắc, thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa kiên định mục tiêu chiến lược và linh hoạt trong sách lược hành động. Trong bối cảnh hiện nay, tư tưởng này tiếp tục được Đảng và Nhà nước vận dụng một cách sáng tạo đặc biệt trong việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần – một đặc trưng quan trọng của thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam.
Để hướng tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV, Bộ Chính trị đã ban hành Kế hoạch số 135-KH/TW ngày 30/5/2023, yêu cầu các cấp ủy Đảng tổng kết thực tiễn, đánh giá đúng tình hình phát triển kinh tế – xã hội, trong đó nhấn mạnh việc làm rõ hiệu quả của mô hình kinh tế nhiều thành phần. Trên cơ sở đó, Đảng tiếp tục xác định rõ, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN với nhiều thành phần kinh tế là một định là định hướng chiến lược lâu dài. Đặc biệt, Kế hoạch cũng đặt ra yêu cầu phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước; củng cố, phát triển kinh tế tập thể và kinh tế hợp tác; khuyến khích kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng; mở rộng thu hút đầu tư nước ngoài gắn với quy hoạch tổng thể và chiến lược phát triển quốc gia. Đây là những định hướng thể hiện một bước phát triển nhất quán và chín muồi trong tư duy đổi mới; đồng thời, tạo tiền tảng vững chắc để Đại hội XIV hoạch định chính sách phát triển kinh tế – xã hội phù hợp với yêu cầu mới và thích ứng linh hoạt trước những biến động sâu sắc của tình hình thế giới.
4. Kết luận
Sự vận dụng triết lý “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong lĩnh vực phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta đã cho thấy, tư duy nhạy bén thực tiễn và tiến bộ của Đảng. Quá trình này không chỉ minh chứng khả năng thích nghi và đổi mới của tư duy kinh tế, mà còn thể hiện sự trung thành và phát triển sáng tạo tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh trong hoàn cảnh mới. Những thành tựu đạt được trong công cuộc đổi mới kinh tế từ sau năm 1986 đến nay là kết quả sinh động của việc giữ vững cái bất biến – vì dân, vì nước, vì CNXH – trong khi vận dụng sáng tạo cái vạn biến – đổi mới tư duy, cải cách thể chế, phát huy sức mạnh của các thành phần kinh tế trong một nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Ngày nay, trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế sâu rộng và những biến động nhanh chóng của thế giới, bài học “dĩ bất biến, ứng vạn biến” vẫn có giá trị thời sự sâu sắc, định hướng cho chiến lược phát triển kinh tế bền vững của đất nước và soi đường cho công tác xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Chú thích:
1. Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh (1993). Hồ Chí Minh – Biên niên tiểu sử. Tập 3. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 216.
2, 3, 4. Cụ Huỳnh Thúc Kháng và câu chuyện trọng dụng, tập hợp người có nhân cách lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. https://tienphuoc.quangnam.gov.vn/cu-huynh-thuc-khang-va-cau-chuyen-trong-dung-tap-hop-nguoi-co-nhan-cach-lon-cua-chu-tich-ho-chi-minh-37897.html
5. Võ Nguyên Giáp (1994). Những chặng đường lịch sử. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 196.
6, 9, 10. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 4. H. NXB Chính trị Quốc gia, tr. 3, 1, 64.
7. Hồ Chí Minh, toàn tập (2011). Tập 1. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 496.
8. Hồ chí Minh toàn tập (2011). Tập 13. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 438.
11. Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh (1993). Hồ Chí Minh – Biên niên tiểu sử. Tập 5. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 572.
12. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 8. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, tr. 555.
13, 14, 15, 17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2019). Văn kiện Đảng thời kỳ đổi mới phần I (Đại hội VI, VII, VIII, IX). H. NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, tr. 15, 392 – 395, 910 – 911, 655 – 656.
16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 83.
18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia, tr.128 – 129.
Tài liệu tham khảo:
1. Nguyễn Hùng Hậu (2012). Triết lý “dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong tư tưởng Hồ Chí Minh. H. NXB Chính trị quốc gia.
2. Trần Dân Tiên (2005), Những mẩu chuyện về cuộc đời hoạt động của Hồ Chí Minh. H. NXB Chính trị quốc gia.
3. Học tập triết lý “dĩ bất biến ứng vạn biến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, việc vận dụng trong công tác đối ngoại. https://www.studocu.vn/vn/vn/document/ho-chi-minh-city-university-of-natural-sciences/quoc-phong/hcm6-ho-chi-minh/58900590
4. Các thành phần kinh tế ở nước ta từ Đại hội VI đến Đại hội XIII theo quan điểm của Đảng. https://tcttv.travinh.gov.vn/ly-luan-thuc-tien/cac-thanh-phan-kinh-te-o-nuoc-ta-tu-dai-hoi-vi-den-dai-hoi-xiii-theo-quan-diem-cua-dang-
5. Vận dụng sáng tạo nguyên tắc “dĩ bất biến” và “ứng vạn biến” trong sự nghiệp đổi mới hiện nay. https://www.quanlynhanuoc.vn/2025/06/24/van-dung-sang-tao-nguyen-tac-di-bat-bien-va-ung-van-bien-trong-su-nghiep-doi-moi-hien-nay/
6. Giá trị lý luận và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế. https://www.quanlynhanuoc.vn/2024/02/06/gia-tri-ly-luan-va-thuc-tien-cua-tu-tuong-ho-chi-minh-ve-doan-ket-quoc-te/