Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận để nâng cao chất lượng công tác dân vận các đơn vị cơ sở trong Quân đội nhân dân Việt Nam

ThS. Nguyễn Văn Phương
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng

(Quanlynhanuoc.vn) – Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận có vị trí đặc biệt quan trọng, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình lãnh đạo công tác vận động quần chúng của Đảng ta. Tư tưởng của Người là sự kế thừa, phát huy truyền thống lịch sử hàng nghìn năm dựng nước, giữ nước của dân tộc và quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về vai trò của Nhân dân trong lịch sử cần tiếp tục được vận dụng sáng tạo vào xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới. Bài viết làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận; thực tiễn thực hiện công tác dân vận các đơn vị cơ sở trong Quân đội nhân dân Việt Nam, đề xuất một số biện pháp nâng cao chất lượng công tác dân vận các đơn vị cơ sở quân đội thời gian tới. 

Từ khoá: Tư tưởng Hồ Chí Minh, dân vận, đơn vị cơ sở, Quân đội nhân dân Việt Nam.

1. Đặt vấn đề

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận hàm chứa nhiều nội dung có giá trị sâu sắc cả về lý luận và thực tiễn, khắc họa đậm nét phong cách quần chúng, dân chủ và nêu gương của Người. Tìm hiểu và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận có ý nghĩa quan trọng trong giai đoạn cách mạng hiện nay, góp phần nâng cao chất lượng công tác dân vận đơn vị cơ sở trong Quân đội nhân dân Việt Nam, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng quân đội tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại, thực sự “tin cậy và trong sạch” của Đảng, Nhà nước và Nhân dân thời gian tới.

2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận

Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận là sự vận dụng sáng tạo những luận điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về vai trò của quần chúng nhân dân trong cách mạng, đồng thời tiếp thu có chọn lọc những truyền thống tốt đẹp của dân tộc và những bài học kinh nghiệm của cách mạng các nước trên thế giới. Quan điểm của Người về dân được thể hiện trong những luận điểm chủ yếu sau:

1. Dân là gốc của nước “Nước lấy dân làm gốc”, “Gốc có vững cây mới bền, xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”, dân có giàu nước mới mạnh.

2. Dân là lực lượng vô tận để dựng nước và giữ nước, để bảo vệ và xây dựng đất nước, sáng tạo ra mọi của cải vật chất và văn hóa của xã hội, “Dễ mười lần không dân cũng chịu, khó trăm lần dân liệu cũng xong”.

3. Dân là chủ nhà nước, chủ đất nước, chủ xã hội, chủ vận mệnh của chính mình, “bao nhiêu quyền hạn đều của dân”. Mọi “quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”.

4. Đã là chủ, dân phải có trách nhiệm của người chủ, “công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân”, “sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân”. Dân phải nâng cao trình độ để xứng đáng là người chủ đất nước.

5. Dân phải được giác ngộ, được tổ chức, được lãnh đạo đúng đắn thì mới phát huy được lực lượng vô tận của mình. Người khuyên dạy: “Chúng ta phải ghi tạc vào đầu cái chân lý này: dân rất tốt. Lúc họ đã hiểu thì việc gì khó khăn mấy họ cũng làm được, hi sinh mấy họ cũng không sợ”2.

Từ những luận điểm trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra định nghĩa thế nào là một nước dân chủ. Đó là một nước trong đó dân phải thực sự là chủ. Ngay từ đầu tác phẩm “Dân vận”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ”3. Sự nghiệp cách mạng của Đảng là lãnh đạo toàn dân đứng lên giành độc lập dân tộc, xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân. Đó là một nhà nước tốt đẹp, trong đó người dân thực sự làm chủ: “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân”4. Người chỉ rõ, người dân chỉ biết giá trị của dân chủ khi được ăn no mặc ấm. Vì thế, cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, thực hành dân chủ là mục tiêu và động lực của công tác quần chúng. Thực hành dân chủ rộng rãi để dân thực sự là chủ, biết làm chủ, hiểu được quyền và nghĩa vụ của người chủ để giải quyết mọi khó khăn, vướng mắc.

Nhà nước dân chủ, Nhân dân hay Nhà nước xã hội chủ nghĩa đều là Nhà nước của dân, do dân, vì dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đảng lãnh đạo Nhà nước thực sự là Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đồng thời là đội tiên phong của Nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam. Đảng lãnh đạo Nhân dân, Nhân dân tham gia xây dựng Đảng, Đảng gắn bó máu thịt với Nhân dân. Nếu dân không được giác ngộ, tổ chức, lãnh đạo thì không biết mình phải làm gì, đi theo đường hướng nào, lực lượng dù đông đảo nhưng không thành sức mạnh. Vì vậy, phải có công tác dân vận, đây là công việc của Đảng, Nhà nước.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, mục đích của công tác dân vận là làm sao để toàn dân tự giác và hăng hái xây dựng xã hội mới, trong đó “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân”5. Dân vận để làm cho mỗi người dân ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành; có đời sống vật chất và tinh thần ngày càng được nâng lên.

Công tác dân vận theo tư tưởng của Người “là vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân, không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và Đoàn thể đã giao cho”6. Thực chất là huy động sức mạnh của toàn dân vào các phong trào cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Về lực lượng làm công tác dân vận là “Tất cả cán bộ, chính quyền, tất cả cán bộ Đoàn thể và tất cả hội viên của các tổ chức nhân dân (Liên Việt, Việt Minh,…) đều phải phụ trách dân vận”7. Như vậy, theo Người công tác dân vận là việc của mọi tổ chức, mọi lực lượng, mọi người, góp thành lực lượng của toàn dân để thực hành những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và đoàn thể giao cho.

Về phương pháp dân vận, Người đã nêu ra ba bước của công tác dân vận là, phải giải thích cho mỗi một người dân hiểu những việc cần nên làm, cần làm; tiếp đó phải bàn bạc với dân, về kế hoạch làm, cách làm cho cụ thể, thiết thực, động viên tổ chức mọi người “hăng hái làm cho kỳ được”, trong khi làm “phải theo dõi, giúp đỡ đôn đốc, khuyến khích dân”; sau cùng, khi đã làm xong phải cùng với dân rút kinh nghiệm biểu dương, khen thưởng những cái hay, cái tốt, phê bình cái sai, cái dở để làm tốt những việc khác.

Người đặt ra yêu cầu rất cụ thể với người làm công tác dân vận “phải óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm”8. Tức là người làm công tác dân vận phải dày công tìm tòi, suy nghĩ để phân tích chính xác tình hình Nhân dân; tinh tế quan sát, suy nghĩ, xác định rõ đúng, sai; nhận rõ bản chất và hiện tượng của sự việc, từng vấn đề để làm đúng, tham mưu, kiến nghị cách làm hay, sáng tạo, hiệu quả; phải nắm bắt kịp thời thông tin từ quần chúng, biết nghe dân nói để hiểu được những tâm tư, nguyện vọng chính đáng của Nhân dân; nhận diện và đấu tranh với thông tin xấu độc, thiếu chân thực, thiếu chính xác; nắm chắc tình hình thực tế, lắng nghe ý kiến của dân; cảm thông, chia sẻ với Nhân dân; thường xuyên tuyên truyền, vận động Nhân dân thực hiện tốt đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; lời nói đi đôi với việc làm, gương mẫu giúp đỡ Nhân dân.

Quán triệt và vận dụng linh hoạt, sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận, thời gian qua dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, Quân uỷ Trung ương Bộ Quốc phòng, cấp uỷ, tổ chức đảng, cán bộ chủ trì, cơ quan chính trị các cấp, công dân dân vận ở đơn vị cơ sở đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, thật sự trong sạch, tin cậy của Đảng, Nhà nước và Nhân dân, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Các đơn vị cơ sở Quân đội trong toàn quân đã phát huy tốt chức năng, nhiệm vụ của đội quân công tác trong thời bình, tích cực, chủ động phối hợp với cấp uỷ, chính quyền địa phương thực hiện Chương trình Mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 – 2025 và các hoạt động vì người nghèo. Thực hiện tốt phong trào thi đua “Quân đội chung tay vì người nghèo, không để ai bị bỏ lại phía sau”; các đơn vị cơ sở đã có nhiều đổi mới về nội dung, hình thức, phương pháp dân vận để củng cố, giữ vững và tăng cường hơn nữa mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa quân đội với Nhân dân.

Nhiều mô hình dân vận tốt ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới được các đơn vị triển khai, tổ chức thực hiện như: khám chữa bệnh miễn phí cho đồng bào dân tộc thiểu số, mở lớp học dạy chữ, giúp đỡ đồng bào dân tộc thiểu số phát triển kinh tế, xoá bỏ hủ tục lạc hậu, thực hiện nếp sống văn hoá lành mạnh; đặc biệt, các đơn vị cơ sở quân đội đã làm tốt việc giúp đỡ nhân dân khắc phục hậu quả thiên tai, lũ lụt; thực hiện có hiệu quả chính sách an sinh xã hội. Quân đội luôn xung kích đi đầu trong tham gia phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn để bảo vệ tính mạng và tài sản của Nhân dân (đây là cơ sở vững chắc để củng cố và duy trì mối quan hệ đoàn kết gắn bó máu thịt quân – dân)10.

Trong thời gian tới, tình hình thế giới, khu vực tiếp tục có nhiều diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường; thời cơ, vận hội đan xen với nguy cơ, thách thức. Mặc dù, đất nước ta đạt được nhiều thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, song vẫn còn nhiều khó khăn ở phía trước. Với quan điểm, mục tiêu “Chăm lo cho con người, vì con người, lấy con người làm trung tâm, là chủ thể, mục tiêu, động lực, nguồn lực để phát triển đất nước; là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng của Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị và toàn xã hội”11 gắn với thực hiện chức năng, nhiệm vụ của quân đội, thực hiện Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh “Bộ đội Cụ Hồ” trong thời kỳ mới; tiếp tục quán triệt và thực hiện tốt tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận trong giai đoạn hiện nay, góp phần xây dựng “thế trận lòng dân” gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc, tăng cường mối quan hệ đoàn kết quân – dân để bảo vệ Tổ quốc Việt Nam “từ sớm”, “từ xa” vì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, xây dựng đất nước ta ngày càng đàng hoàng, to đẹp, sánh vai cường quốc năm châu thế giới.

3. Một số biện pháp nâng cao chất lượng công tác dân vận các đơn vị cơ sở trong Quân đội

Một là, tăng cường công tác lãnh đạo, giáo dục, làm cho mọi cán bộ, chiến sĩ quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm chỉ đạo công tác dân vận của Đảng, nhận thức đúng mục tiêu, yêu cầu, nội dung công tác dân vận trong thời kỳ mới; quán triệt và triển khai thực hiện nghiêm túc đường lối, quan điểm, chủ trương của Đảng, của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng về công tác dân vận, trọng tâm là Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 03/6/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới”; Quyết định số 23-QĐ/TW ngày 30/7/2021 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng “về việc ban hành Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị”; Nghị quyết số 49-NQ/QUTW ngày 26/01/2015 của Quân ủy Trung ương về “Tăng cường và đổi mới công tác dân vận của Quân đội trong tình hình mới”; Quy chế số 718-QC/QUTW ngày 05/11/2021 của Quân ủy Trung ương về “Công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam”.

Cấp ủy, chỉ huy các cấp cụ thể hóa mục tiêu, quan điểm, các nhiệm vụ, giải pháp vào từng nội dung, chương trình hoạt động công tác dân vận, phù hợp với từng đơn vị, địa phương, địa bàn, bảo đảm công tác dân vận ngày càng đi vào thực chất, lấy sự hài lòng và niềm tin của Nhân dân là thước đo kết quả công tác dân vận của các đơn vị cơ sở. Thông qua công tác dân vận, góp phần giữ vững, tăng cường mối quan hệ đoàn kết giữa các cơ quan, đơn vị với hệ thống chính trị ở cơ sở; giữ vững và phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” trong lòng Nhân dân; cấp uỷ, tổ chức đảng, cán bộ chủ trì và cơ quan chính trị các cấp thường xuyên đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp tiến hành công tác dân vận theo hướng thiết thực, cơ bản, chuyên sâu, nâng cao chất lượng huấn luyện sẵn sàng chiến đấu, đơn vị đoàn kết, ổn định, phát triển.

Hai là, tiếp tục nâng cao vai trò lãnh đạo của tổ chức đảng các cấp; năng lực và trách nhiệm của chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy, cơ quan chính trị, cán bộ chính trị các cấp đối với công tác dân vận. Gắn công tác dân vận với thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị, địa phương; lấy kết quả công tác dân vận để đánh giá công tác lãnh đạo của cấp ủy đảng, trách nhiệm quản lý, điều hành của người chỉ huy. Phát huy vai trò tham mưu, hướng dẫn của cơ quan chính trị trong phối hợp với cấp ủy, chính quyền địa phương, các tổ chức chính trị – xã hội và các lực lượng trên địa bàn thực hiện tốt công tác dân vận. Bồi dưỡng nâng cao nhận thức, trách nhiệm, vai trò của các tổ chức quần chúng, hội đồng quân nhân thực hiện công tác dân vận. Chủ động làm tốt công tác kiểm tra, giám sát, phát hiện và kịp thời xử lý nghiêm những biểu hiện lệch lạc, sai trái, hạ thấp vai trò công tác dân vận, vi phạm kỷ luật quan hệ quân – dân.

Ba là, tiếp tục đổi mới nội dung, hình thức công tác dân vận theo hướng thiết thực, hiệu quả. Quan tâm bồi dưỡng trang bị kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo, kinh nghiệm tuyên truyền, vận động nhân dân cho cán bộ, chiến sĩ, nhất là phương pháp, tác phong, năng lực vận động quần chúng. Cán bộ, chiến sĩ phải thực sự gương mẫu trong lời nói việc làm, phải thực sự “trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với Nhân dân”; luôn đặt lợi ích tập thể lên trên lợi ích cá nhân; kiên quyết đấu tranh với những nhận thức, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ; cảnh giác nhận diện, đấu tranh phòng chống âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch chia rẽ Đảng với Nhân dân, Quân đội với Nhân dân.

Bốn là, nâng cao hiệu quả hoạt động kết nghĩa, huấn luyện dã ngoại kết hợp làm công tác dân vận, hoạt động của cán bộ tăng cường cơ sở, tổ công tác dân vận. Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng phối hợp hoạt động giữa các đơn vị cơ sở trong Quân đội với cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội các cấp. Chủ động tham mưu giúp cấp ủy, chính quyền địa phương nắm chắc tình hình, giải quyết hiệu quả các vụ việc phức tạp; hạn chế, không để xảy ra các điểm nóng, xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện; nâng cao hiệu quả hoạt động tham gia giúp dân xóa đói, giảm nghèo phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; xây dựng nông thôn mới; phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai, cứu hộ, cứu nạn; phòng, chống tội phạm, xây dựng địa bàn an toàn; nâng cao ý thức tự giác trong chấp hành pháp luật Nhà nước, kỷ luật quân đội ở nơi dã ngoại, không làm ảnh hưởng đến cuộc sống sinh hoạt của người dân; xây dựng niềm tin và giữ vững truyền thống đội quân công tác khi công tác ở khu vực, địa bàn dân cư. Có nhiều đổi mới trong phối kết hợp với chính quyền địa phương trong thực hiện các nhiệm vụ của đơn vị, qua đó, xây dựng địa bàn vững mạnh, ổn định, đoàn kết.

Năm là, thường xuyên sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm về công tác dân vận; thực hiện tốt phong trào thi đua “Dân vận khéo”, xây dựng “Đơn vị dân vận tốt” ở từng cơ quan, đơn vị; tham gia thực hiện tốt các phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư”, “Quân đội chung sức xây dựng nông thôn mới”; “Quân đội chung tay vì người nghèo – Không để ại bị bỏ lại phía sau”, “Đền ơn đáp nghĩa”, các cuộc vận động của Đảng, Nhà nước, Quân đội và địa phương phát động; kịp thời biểu dương, khen thưởng các tập thể, cá nhân có thành tích tốt. Kiên quyết đấu tranh với hành vi, biểu hiện sai trái, như: công tác dân vận mang tính hình thức, cán bộ quan liêu, không nắm chắc cơ sở, không nắm bắt tâm tư, nguyện vọng chính đáng của chiến sĩ và Nhân dân.

Đồng thời, làm tốt công tác biểu dương, khen thưởng đối với tập thể, cá nhân có nhiều thành tích, nỗ lực cố gắng trong thực hiện công tác dân vận của Đảng, Nhà nước, Quân đội; lan tỏa những gương người tốt, việc tốt, những mô hình, cách thức thực hiện các phong trào thi đua làm công tác dân vận tốt, tạo động lực, ý chí, niềm tin, thôi thúc mạnh mẽ cán bộ, chiến sĩ giữ gìn và phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” trong thời kỳ mới. Kịp thời, chấn chỉnh, nhắc nhở, uốn nắn và xử lý đối với những cá nhân vi phạm chế độ, quy định của Đảng, Nhà nước, Quân đội, ảnh hưởng đến uy tín, bản chất, truyền thống tốt đẹp của quân đội trong tiếp xúc, quan hệ với Nhân dân.

4. Kết luận

Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận có giá trị lý luận, thực tiễn quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hiện nay và thời gian tới. Đó là những quan điểm, tư tưởng cơ bản mang tính định hướng, chỉ dẫn cho các tổ chức, lực lượng, nhất là đơn vị cơ sở trong Quân đội nhân dân Việt Nam tiến hành tuyên truyền, vận động, xây dựng niềm tin của Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, từ đó giữ vững và tăng cường nền tảng tư tưởng của Đảng về chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.

Quán triệt và vận dụng linh hoạt, sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận ở đơn vị cơ sở trong Quân đội nhân dân Việt Nam là góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, xây dựng Đảng bộ Quân đội vững mạnh toàn diện “Mẫu mực, tiêu biểu” trong sạch, tin cậy của Đảng, Nhà nước và Nhân dân. Với sự cố gắng của lãnh đạo, chỉ huy các cấp, ý thức tự giác của mỗi cán bộ, chiến sĩ trên từng lĩnh vực hoạt động, công tác dân vận các đơn vị cơ sở trong Quân đội thời gian tới sẽ từng bước được nâng cao, tạo bước chuyển biến rõ rệt về nhận thức, hành động thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ XI, làm tốt công tác chuẩn bị cho Đại hội đại biểu các cấp, tiến tới Đại hội lần thứ XIV của Đảng và Đại hội lần thứ XII của Đảng bộ Quân đội.

Chú thích:
1, 3, 4, 5, 6, 7. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 6. H. NXB. Chính trị Quốc gia Sự thật, tr. 232, 232, 232, 232, 232, 232.
2, 8. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 5. H. NXB. Chính trị Quốc gia Sự thật, tr. 286, 699.
10. Toàn văn bài phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Bí thư Quân uỷ Trung ương  gửi tới Hội nghị lần thứ 10 của Quân uỷ Trung ương Bộ Quốc phòng nhằm đánh giá công tác quân sự, quốc phòng 6 tháng đầu năm, triển khai nhiệm vụ trọng tâm 6 tháng cuối năm. https://chinhphu.vn, ngày 08/7/2024.
11. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2023). Nghị quyết số 42-NQ/TW ngày 24/11/2023 của Hội nghị lần thứ tám về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới.