ThS. Lương Văn Đăng
Học viện Hành chính và Quản trị công
(Quanlynhanuoc.vn) – Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và xu hướng chuyển đổi số diễn ra mạnh mẽ, Việt Nam xác định chuyển đổi số là xu thế tất yếu, là động lực quan trọng để phát triển kinh tế – xã hội. Ngành Xây dựng, với đặc thù là ngành nền tảng, góp phần lớn trong tăng trưởng GDP, việc làm và đô thị hóa, càng có yêu cầu cấp thiết trong chuyển đổi số. Bài viếtphân tích thực trạng và đưa ra một số giải pháp đồng bộ, toàn diện nhằm đẩy nhanh chuyển đổi số tại Bộ Xây dựng trong năm 2025, từ đó bảo đảm tính đồng bộ và bền vững trong đổi mới số hóa ngành Xây dựng.
Từ khóa: Chuyển đổi số; Bộ Xây dựng; chính phủ số; kinh tế số; hạ tầng số.
1. Đặt vấn đề
Những năm gần đây, khi bối cảnh chuyển đổi số diễn ra ở tất cả các ngành, lĩnh vực, trong đó có ngành Xây dựng, việc thực hiện các nghiệp vụ quản lý nhà nước, cung cấp dịch vụ công và các lĩnh vực đầu tư, quy hoạch, giám sát trong ngành đã và đang triển khai qua việc dựa trên cơ sở dữ liệu số hóa, nền tảng số và các công cụ khai thác, phân tích thông minh. Theo Quyết định số 544/QĐ-BXD ngày 18/4/2025 của Bộ trưởng Bộ Xây dựng về Kế hoạch chuyển đổi số năm 2025, trong đó xác định rõ việc thúc đẩy chuyển đổi số ở Bộ Xây dựng không chỉ để hoàn thành nhiệm vụ chính trị của Đảng, Nhà nước mà còn đặt nền móng cho một hệ thống quản lý công minh bạch, chuyên nghiệp và linh hoạt hơn. Bài viết phân tích các nhiệm vụ, mục tiêu cụ thể, trọng tâm chuyển đổi số đã được đề ra trong Quyết định số 544/QĐ-BXD; đối chiếu với thực trạng triển khai, từ đó đề xuất những giải pháp và kiến nghị chính sách nhằm bảo đảm chuyển đổi số được thực hiện đồng bộ, hiệu quả và bền vững.
2. Thực trạng triển khai chuyển đổi số tại Bộ Xây dựng
Chuyển đổi số trong ngành Xây dựng nói chung và tại Bộ Xây dựng nói riêng là một tiến trình phức tạp, đòi hỏi sự thay đổi sâu sắc cả về công nghệ, thể chế, nguồn nhân lực và phương thức quản lý. Mặc dù đã đạt được những kết quả nhất định trong giai đoạn trước và có kế hoạch bài bản trong năm 2025, thực tiễn triển khai vẫn còn nhiều tồn tại và thách thức cần được nhận diện rõ để có giải pháp kịp thời.
2.1. Về kết quả đạt được
Hạ tầng công nghệ thông tin và hệ thống dữ liệu bước đầu được đầu tư đồng bộ tại cơ quan bộ và một số đơn vị trực thuộc Bộ Xây dựng, đặc biệt trong các lĩnh vực quản lý đô thị, cấp phép xây dựng, vật liệu xây dựng, bất động sản1.
Cổng dịch vụ công của Bộ đã kết nối Cổng dịch vụ công quốc gia, nhiều thủ tục hành chính được cung cấp dưới dạng trực tuyến mức độ 3 và 4 giúp giảm thời gian, chi phí cho người dân và doanh nghiệp. 2
Hệ thống báo cáo điện tử từng bước được triển khai, phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành của lãnh đạo Bộ Xây dựng với tốc độ xử lý và cập nhật nhanh hơn mô hình truyền thống. Trong ngành Xây dựng, BIM đã được chủ đầu tư cũng như nhà thầu, công ty tư vấn giám sát sử dụng BIM cho quá trình xây dựng dự án như: Dự án tuyến metro 1, tuyến metro 2, cầu Sài Gòn 2, cầu Vàm Cống, hầm Thủ Thiêm, cầu Thủ Thiêm 2 (TP. Hồ Chí Minh), Dự án Cầu Rào II, Dự án nhà để xe ga quốc nội sân bay Tân Sơn Nhất… cùng với việc ứng dụng nền tảng số trong quy hoạch và thiết kế đô thị đã cho kết quả bước đầu tích cực)3.
Công tác truyền thông, đào tạo về chuyển đổi số đã được khởi động, một số hội thảo, lớp tập huấn được tổ chức cho cán bộ đầu mối tại các cục, vụ, viện và sở Xây dựng địa phương. Bộ Xây dựng đã xây dựng, lồng ghép chính sách, phát triển về nguồn nhân lực công nghệ thông tin, chuyển đổi số vào các Quyết định về việc triển khai các nhiệm vụ và kế hoạch ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan Bộ Xây dựng hằng năm và kế hoạch trung hạn. Hằng năm, Bộ Xây dựng cũng ban hành các quyết định phê duyệt kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức bằng vốn ngân sách nhà nước. Trong đó, lồng ghép đào tạo về các kỹ năng ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số cho cán bộ, công chức, viên chức để phục vụ công tác.
Bộ Xây dựng đã chỉ đạo các cơ quan, đơn vị chú trọng thực hiện tốt công tác về nguồn nhân lực công nghệ thông tin phù hợp với tình hình, điều kiện thực tế của Ngành. Đáp ứng hiệu quả các mục tiêu, nhiệm vụ trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Xây dựng. Bảo đảm đội ngũ nhân lực thực thi nhiệm vụ, chú trọng kiện toàn bộ máy của đơn vị chuyên trách chuyển đổi số, tổ chức thực hiện các giải pháp thúc đẩy chuyển đổi số trên cả ba trụ cột; bố trí đủ nguồn lực để phát triển, vận hành, duy trì các nền tảng số và các bộ công cụ sử dụng thống nhất trong Bộ phục vụ quản lý nhà nước và thực thi pháp luật về chuyển đổi số. Năm 2024, Bộ Xây dựng đã ban hành Quyết định số 295/QĐ-BXD ngày 04/4/2024 của Bộ trưởng Bộ Xây dựng về kế hoạch triển khai Đề án “Kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao năng lực quản lý nhà nước và thực thi pháp luật về chuyển đổi số từ Trung ương đến địa phương đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” đối với các đơn vị trực thuộc Bộ4.
Trong giai đoạn 2014 – 2024, Bộ Xây dựng đã giao đơn vị chuyên môn triển khai bồi dưỡng ở gần 60 tỉnh/thành, gần 100 khóa với hơn 5.000 lượt học viên cán bộ quản lý xây dựng và đô thị các cấp. Hầu hết các học viên đã được bồi dưỡng, đào tạo về kỹ năng phục vụ nâng cao năng lực quản lý phát triển đô thị thông minh cho cán bộ lãnh đạo, chuyên môn đô thị các cấp5.
Thứ hai, những khó khăn và thách thức trong quá trình chuyển đổi số tại Bộ Xây dựng.
Nhận thức về chuyển đổi số chưa đồng đều giữa các cấp lãnh đạo, cán bộ chuyên môn, đặc biệt ở các đơn vị cấp địa phương. Chuyển đổi số đôi khi bị hiểu nhầm là triển khai phần mềm hoặc mua sắm thiết bị, thay vì là một quá trình thay đổi căn bản tư duy quản lý và cung cấp dịch vụ. Thiếu cơ chế phối hợp liên thông, chia sẻ dữ liệu giữa các đơn vị thuộc Bộ và với các bộ, ngành khác. Việc kết nối dữ liệu đôi khi gặp trở ngại do chồng chéo thẩm quyền hoặc thiếu chuẩn chung6.
Về hạ tầng và công nghệ còn nhiều bất cập, một số hệ thống công nghệ thông tin đang vận hành thiếu tính đồng bộ, chưa tương thích, gây khó khăn cho kết nối và tích hợp dữ liệu. Nhiều phần mềm còn mang tính cục bộ, phân tán, chưa có khả năng mở rộng hoặc tích hợp với hệ thống trung tâm. Nhiều thiết bị, máy chủ, mạng nội bộ đã xuống cấp hoặc lạc hậu, không đáp ứng được nhu cầu phát triển của các nền tảng số hiện đại như điện toán đám mây, IoT, AI7.
Hiện nay, số nhân lực có trình độ, chuyên môn, kỹ thuật về công nghệ thông tin trong ngành còn thiếu, nhất là về công nghệ bảo đảm an ninh mạng, dữ liệu lớn. Đội ngũ hiện tại chủ yếu làm kiêm nhiệm, chưa có chính sách thu hút hoặc đào tạo chuyên sâu. Bên cạnh đó, còn chưa có chương trình đào tạo chuyển đổi số toàn diện, bài bản mà mới dừng ở các lớp tập huấn ngắn hạn, thiếu tính hệ thống.
Về dữ liệu và chia sẻ dữ liệu của ngành Xây dựng vẫn còn phân mảnh, thiếu chuẩn hóa, chưa được số hóa đầy đủ. Một số dữ liệu quan trọng, như: hồ sơ quy hoạch, bản đồ hạ tầng, năng lực hành nghề… hiện lưu trữ chỉ mới dưới dạng giấy, khó tra cứu hoặc khai thác trực tuyến. Chưa hình thành được cơ chế chia sẻ dữ liệu mở giữa các đơn vị trong ngành và với bên ngoài. Cơ sở pháp lý và kỹ thuật cho việc này còn chưa hoàn thiện8.
Về thể chế, chính sách vẫn còn nhiều tồn tại, quy định chưa kịp điều chỉnh theo yêu cầu của chuyển đổi số, dẫn đến lúng túng trong triển khai hoặc không thể áp dụng triệt để các ứng dụng công nghệ mới. Ngoài ra, chưa có cơ chế khuyến khích xã hội hóa, thu hút nguồn lực từ khu vực tư nhân để cùng tham gia xây dựng nền tảng số, dữ liệu ngành hoặc dịch vụ công số9.
Đối với mục tiêu phát triển đô thị thông minh là lĩnh vực có tính chất liên ngành nên khi triển khai tại các địa phương bước đầu mang tính tập trung nhiều về ứng dụng các dịch vụ đô thị thông minh (thiết bị công nghệ, trung tâm điều hành, giám sát giao thông, giám sát an toàn trật tự đô thị….) mà chưa có sự vận hành thông suốt. Các nội dung về quy hoạch đô thị thông minh, quản lý xây dựng đô thị thông minh mới chỉ được một số ít địa phương quan tâm, triển khai thí điểm. Các kế hoạch về phát triển đô thị thông minh chưa bám sát vào đặc thù, đặc điểm riêng của đô thị. Chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành và địa phương trong việc nghiên cứu, ứng dụng, triển khai các công nghệ mới, công nghệ số trong quản lý, quản trị, điều hành cũng như trong sản xuất kinh doanh của từng lĩnh vực; việc phát huy nguồn lực chưa hiệu quả, đồng bộ10.
3. Một số mục tiêu và giải pháp nhằm đẩy mạnh chuyển đổi số tại Bộ Xây dựng
a. Mục tiêu chuyển đổi số của Bộ Xây dựng
Trong năm 2025, Bộ Xây dựng đặt ra các mục tiêu chuyển đổi số rõ ràng, cụ thể và có tính định lượng cao nhằm từng bước hiện thực hóa Chiến lược chuyển đổi số ngành Xây dựng giai đoạn đến năm 2030. Các mục tiêu này tập trung vào hai nhóm chính: (1) Mục tiêu tổng thể về cải cách phương thức quản lý, cung cấp dịch vụ công, ứng dụng công nghệ và phát triển dữ liệu số; (2) Các mục tiêu cụ thể có thể đo lường được theo các chỉ tiêu định lượng.
Về mục tiêu tổng thể: (1) Hoàn thiện môi trường pháp lý về ứng dụng công nghệ số, bảo đảm hành lang pháp lý đủ rộng, linh hoạt và kịp thời hỗ trợ các hoạt động số hóa, khai thác dữ liệu và bảo vệ thông tin. (2) Đổi mới căn bản cách thức quản lý, điều hành, thông qua việc ứng dụng công nghệ số, nền tảng tích hợp dữ liệu để phục vụ ra quyết định nhanh chóng, hiệu quả. (3) Nâng cao hiệu quả cung cấp dịch vụ công, bảo đảm dịch vụ được cung cấp trực tuyến toàn trình, thông suốt, an toàn và không phát sinh thủ tục hành chính rườm rà cho người dân và doanh nghiệp. (4) Bảo đảm an toàn thông tin, an ninh mạng, chủ động ngăn ngừa và xử lý các nguy cơ tấn công mạng, rò rỉ dữ liệu. (5) Tăng cường ứng dụng dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo (AI), mô hình thông tin công trình (BIM) để quản lý hiệu quả các lĩnh vực: nhà ở, đô thị, hạ tầng kỹ thuật, vật liệu xây dựng, bất động sản.
Về mục tiêu cụ thể từ nay đến cuối năm 2025: 100% thủ tục hành chính đủ điều kiện được cung cấp dưới dạng dịch vụ công trực tuyến toàn trình, với khả năng định danh, xác thực người dùng thông qua nền tảng VneID; 100% kết quả giải quyết thủ tục hành chính được trả dưới dạng điện tử, bảo đảm tính liên thông và truy xuất; 90% hồ sơ công việc được xử lý trên môi trường mạng, trừ những hồ sơ thuộc phạm vi bí mật nhà nước; 90% người dân và doanh nghiệp hài lòng với việc giải quyết thủ tục hành chính do Bộ cung cấp; 100% hệ thống thông tin của Bộ được phê duyệt cấp độ bảo mật và triển khai đầy đủ giải pháp an toàn thông tin theo cấp độ; hoàn thiện hệ thống báo cáo của Bộ, kết nối đầy đủ với Hệ thống báo cáo Chính phủ; 80% cán bộ, công chức, viên chức thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật được tập huấn về chuyển đổi số, trong đó ít nhất 75% các buổi tập huấn thực hiện theo hình thức trực tuyến; sẵn sàng khôi phục các hệ thống thông tin phục vụ người dân trong vòng 24h khi xảy ra sự cố nghiêm trọng.
Việc xác lập những mục tiêu cụ thể và dài hạn như trên thể hiện sự quyết tâm mạnh mẽ của Bộ Xây dựng trong việc bứt phá chuyển đổi số, hướng đến nền hành chính số hóa, minh bạch, hiệu quả, tạo đà thúc đẩy kinh tế – xã hội.
b. Một số giải pháp đẩy mạnh chuyển đổi số
Một là, hoàn thiện thể chế, chính sách số.
Thể chế là nền tảng để các hoạt động chuyển đổi số được vận hành hợp pháp, hiệu quả và linh hoạt, do đó, cần rà soát, đề xuất sửa đổi, bổ sung hệ thống văn bản quy phạm pháp luật nhằm tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho việc ứng dụng công nghệ thông tin, phát triển chính phủ số, kinh tế số và bảo đảm an toàn thông tin. Việc này bao gồm cả các quy định về thu thập, xử lý, chia sẻ dữ liệu giữa các cơ quan trong và ngoài ngành Xây dựng.
Cần cập nhật kiến trúc chính phủ điện tử/chính phủ số của Bộ Xây dựng phiên bản 4.0 làm cơ sở định hướng triển khai các hệ thống thông tin và dữ liệu dùng chung phù hợp với chuẩn kết nối quốc gia.Xây dựng các chương trình phát triển chính phủ số ngành Xây dựng, thúc đẩy các lĩnh vực, như: quản lý xây dựng, đô thị, hạ tầng, bất động sản, vật liệu xây dựng và quản lý nhà nước thông qua mô hình dữ liệu số hóa. Đồng thời, cần ban hành chương trình đẩy mạnh sản xuất thông minh và chuyển đổi số, đặc biệt trong các lĩnh vực vật liệu xây dựng, quy hoạch đô thị, quản lý công trình và quản lý khai thác hạ tầng kỹ thuật.
Hai là, phát triển và hiện đại hóa hạ tầng số.
Một trong những điều kiện tiên quyết cho chuyển đổi số là xây dựng và hoàn thiện hạ tầng công nghệ số đáp ứng yêu cầu về tốc độ, độ an toàn và khả năng kết nối liên thông. Năm 2025, Bộ Xây dựng tập trung vào: đầu tư nâng cấp Trung tâm dữ liệu của Bộ, hướng đến tiêu chuẩn điện toán đám mây, tăng cường khả năng kết nối với Trung tâm dữ liệu quốc gia, bảo đảm khả năng xử lý dữ liệu lớn và bảo mật; ảo hóa hạ tầng máy chủ, triển khai mô hình quản lý tập trung để tối ưu hóa hiệu suất hoạt động, giảm chi phí đầu tư phần cứng. Cần bổ sung, thay thế hạ tầng công nghệ thông tin dùng chung, thay thế các thiết bị máy chủ, thiết bị lưu trữ đã lỗi thời, bảo đảm hệ thống vận hành ổn định, trong đó chú trọng trang bị thiết bị hội nghị truyền hình, thiết bị mạng, nâng cấp phần mềm kế toán và phần mềm quản lý nội bộphục vụ điều hành, chỉ đạo số từ trung ương đến các đơn vị trực thuộc.
Ba là, phát triển dữ liệu số và nền tảng tích hợp dữ liệu.
Dữ liệu là tài nguyên cốt lõi của chuyển đổi số, vì vậy, chú trọng đến việc xây dựng Cơ sở dữ liệu quốc gia về hoạt động xây dựng, năng lực hành nghề, thị trường bất động sản, nhà ở, vật liệu xây dựng, khoa học công nghệ, và phát triển đô thị. Mở rộng các hệ thống thông tin ngành, tích hợp vào một nền tảng dữ liệu dùng chung, có khả năng liên thông với các cơ sở dữ liệu quốc gia, như: dân cư, đất đai, tài chính, đăng kiểm. Tổ chức số hóa hồ sơ, tài liệu chuyên ngành, chuẩn hóa quy trình nhập liệu và lưu trữ thông tin điện tử. Xây dựng Cổng dữ liệu mở Bộ Xây dựng, công khai các dữ liệu có thể khai thác nhằm hỗ trợ nghiên cứu, đầu tư, báo chí và phản biện chính sách.
Bốn là, bảo đảm an toàn thông tin và an ninh mạng.
Cùng với gia tăng dữ liệu và dịch vụ số là nguy cơ mất an toàn, rò rỉ dữ liệu. Giải pháp về an toàn thông tin được triển khai theo các hướng: 100% hệ thống thông tin được xác định cấp độ an toàn thông tin và triển khai các giải pháp bảo mật tương ứng; thường xuyên kiểm tra, đánh giá rủi ro và khả năng phòng vệ mạng, đặc biệt với các hệ thống phục vụ người dân như giải quyết thủ tục hành chính trực tuyến, dịch vụ công, sàn giao dịch điện tử. Bên cạnh đó, cần tổ chức các khóa đào tạo, diễn tập thực chiến về bảo mật mạng, nâng cao năng lực cho đội ngũ chuyên trách về công nghệ thông tin, mạng và bảo mật thông tin. Đặc biệt, triển khai việc xây dựng quy trình phản ứng nhanh và phục hồi hoạt động sau sự cố an toàn thông tin, bảo đảm các hệ thống cốt lõi có thể vận hành trở lại trong vòng 24 giờ.
Năm là, phát triển nhân lực số.
Chuyển đổi số không thể thành công nếu thiếu nguồn nhân lực có tư duy số, kỹ năng số và văn hóa làm việc phù hợp với môi trường số. Bộ Xây dựng triển khai Chương trình tập huấn kỹ năng số cho cán bộ, công chức, viên chức, đặc biệt đội ngũ làm công tác phổ biến giáo dục pháp luật, quản lý đầu tư xây dựng, cấp phép, thanh tra. Đẩy mạnh các phong trào “Bình dân học vụ số ngành Xây dựng”, phổ cập kiến thức cơ bản về kỹ năng số và công nghệ mới đến từng đơn vị; đồng thời, tăng cường hợp tác quốc tế, học tập mô hình chính phủ số của các quốc gia tiên tiến, tiếp nhận chuyển giao công nghệ, kỹ năng quản lý, kỹ thuật số và phân tích dữ liệu.
Sáu là, phát triển chính phủ số và hiện đại hóa dịch vụ công.
Một trụ cột quan trọng trong chuyển đổi số là việc hình thành mô hình chính phủ số, trong đó các dịch vụ công được cung cấp thông suốt, thuận tiện, phi giấy tờ và “phi địa giới hành chính”. Để đạt được điều đó, Bộ Xây dựng tập trung: (1) Nâng cấp toàn diện Hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính theo hướng tích hợp, thống nhất, dễ sử dụng và thân thiện với người dân, đồng thời có khả năng xử lý đồng thời các nghiệp vụ nội bộ như phê duyệt, ký số, gửi nhận văn bản điện tử; (2) Triển khai nền tảng quản trị tập trung ngành Xây dựng, cho phép kết nối, đồng bộ và điều phối toàn bộ các hoạt động chỉ đạo điều hành của Bộ qua một trung tâm chỉ huy số (IOC), sử dụng AI để hỗ trợ ra quyết định; (3) Phát triển các hệ thống báo cáo, phân tích dữ liệu theo thời gian thực, kết nối với Hệ thống báo cáo Chính phủ và các bộ, ngành, bảo đảm thông tin phục vụ điều hành nhanh chóng, chính xác; (4) Tích hợp định danh điện tử VNeID trong toàn bộ dịch vụ công, bảo đảm tính xác thực, an toàn khi người dân và doanh nghiệp tham gia các giao dịch điện tử với Bộ Xây dựng. (5) Giảm mạnh sử dụng tài liệu giấy, tăng cường họp và làm việc trực tuyến, tạo dựng văn hóa làm việc số trong nội bộ cơ quan hành chính.
Bảy là, phát triển kinh tế số và xã hội.
Kinh tế số trong lĩnh vực xây dựng đòi hỏi chuyển đổi mạnh mẽ trong phương thức sản xuất, cung cấp dịch vụ và quản lý tài nguyên ngành, vì vậy, trong thời gian tới, cần triển khai rộng rãi mô hình thông tin công trình (BIM) trong thiết kế, thi công, quản lý công trình và hạ tầng kỹ thuật đô thị; kết nối BIM với các hệ thống giám sát, quản lý và quy hoạch. Tiếp tục ứng dụng hệ thống thông tin địa lý (GIS) để công khai quy hoạch, hạ tầng kỹ thuật, nhà ở, bất động sản, phục vụ người dân và nhà đầu tư tra cứu dữ liệu theo thời gian thực. Xây dựng, vận hành Sàn giao dịch bất động sản và quyền sử dụng đất điện tử, quản lý tập trung các giao dịch theo hướng minh bạch, công khai và kết nối với cơ sở dữ liệu dân cư, tài chính, quy hoạch. Cần thực hiện thu phí không dừng tại các bến xe, bãi đỗ, triển khai giám sát giao thông thông minh, hệ thống kiểm tra tải trọng xe, hỗ trợ quản lý vận tải đô thị thông minh. Cung cấp dữ liệu mở về thị trường bất động sản, vật liệu xây dựng, quy hoạch… để phục vụ doanh nghiệp và nhà đầu tư ra quyết định nhanh chóng, chính xác. Phát triển hệ thống nền tảng số chuyên ngành, như: nền tảng cấp phép xây dựng, nền tảng kiểm soát chất lượng vật liệu xây dựng, nền tảng tương tác giữa người dân và chính quyền đô thị.
Tám là, chuyển đổi số trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật.
Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật là một phần thiết yếu để nâng cao hiểu biết pháp lý trong xã hội, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi số toàn diện, do đó, cần chuẩn hóa, chia sẻ, cập nhật dữ liệu phổ biến giáo dục pháp luật trên Kho dữ liệu số dùng chung, bảo đảm thông tin pháp luật đến đúng đối tượng, đúng thời điểm. Tăng cường truyền thông pháp luật qua hình ảnh, video, mạng xã hội, trò chơi số, podcast, nhằm thay đổi hình thức tuyên truyền từ truyền thống sang trực quan, tương tác. Tiếp tục xây dựng các nền tảng đào tạo pháp luật trực tuyến, cho phép cán bộ, người dân, doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận kiến thức pháp lý mọi lúc, mọi nơi; đồng thời, duy trì các chuyên mục hỗ trợ pháp lý trên Cổng thông tin điện tử Bộ và các đơn vị, bảo đảm thông tin được cập nhật thường xuyên, chính xác và dễ tra cứu. Cần tổ chức các khóa tập huấn kỹ năng số cho đội ngũ làm công tác pháp luật, nâng cao khả năng sử dụng nền tảng số để phổ biến pháp luật hiệu quả. Đặc biệt, đẩy manh hợp tác quốc tế và học hỏi kinh nghiệm chuyển đổi số trong công tác phổ biến giáo dục pháp luật, tiếp nhận các mô hình, công nghệ và nội dung hiệu quả, phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
4. Kết luận
Chuyển đổi số tại Bộ Xây dựng trong năm 2025 là một nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược, đặt nền móng cho một mô hình quản lý nhà nước hiện đại, minh bạch, hiệu quả và hướng đến phục vụ người dân, doanh nghiệp tốt hơn. Những mục tiêu cụ thể, khả thi đã được đặt ra, bao quát từ hoàn thiện thể chế, phát triển hạ tầng số, xây dựng dữ liệu mở đến ứng dụng công nghệ mới, như: BIM, AI, IoT, GIS…
Qua phân tích các nhóm giải pháp chính và đánh giá thực trạng triển khai, có thể thấy rằng, mặc dù đã có nền tảng khởi đầu tốt, quá trình chuyển đổi số tại Bộ Xây dựng vẫn đang đối mặt với nhiều thách thức: từ nhận thức chưa đồng đều, thiếu đồng bộ về hạ tầng, thiếu hụt nhân lực chuyên môn đến vấn đề chia sẻ dữ liệu và liên thông hệ thống. Vì vậy, để thành công, chuyển đổi số cần được triển khai một cách đồng bộ, lấy con người làm trung tâm, dữ liệu làm nền tảng, công nghệ làm công cụ và sự phối hợp liên ngành làm động lực. Thực hiện đúng định hướng và có sự tham gia đồng hành từ Chính phủ, doanh nghiệp, địa phương và người dân, chuyển đổi số trong ngành Xây dựng không chỉ giúp Bộ Xây dựng hoàn thành nhiệm vụ chính trị mà còn tạo ra động lực lớn cho đổi mới sáng tạo, phát triển kinh tế số, đô thị thông minh và xã hội số Việt Nam trong tương lai.
Chú thích:
1, 2, 6, 7, 8, 9. Bộ Xây dựng (2025). Quyết định số 544/QĐ-BXD ngày 18/4/2025 ban hành Kế hoạch chuyển đổi số năm 2025.
3, 4, 5, 10. Bộ Xây dựng (2024). Báo cáo chuyển đổi số ngành Xây dựng ngày 27/8/2024.
Tài liệu tham khảo:
1. Bộ Chính trị (2024). Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 về thúc đẩy chuyển đổi số trong toàn hệ thống chính trị.
2. Bộ Thông tin và Truyền thông (2021). Hướng dẫn xây dựng kiến trúc chính phủ số cấp bộ, ngành, địa phương.
3. Bộ Xây dựng (2017). Quyết định 203/QĐ-BXD ngày 21/3/2017 về việc thành lập Ban Chỉ đạo thực hiện Đề án áp dụng Mô hình thông tin công trình (BIM) trong hoạt động xây dựng và quản lý vận hành công trình.
3. Thủ tướng Chính phủ (2016). Quyết định số 2500/QĐ-TTg ngày 22/12/2016 phê duyệt đề án áp dụng mô hình thông tin công trình (BIM) trong hoạt động xây dựng và quản lý vận hành công trình.
4. Thủ tướng Chính phủ (2020). Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 về phê duyệt Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.
5. UNDP Việt Nam (2022). Chuyển đổi số và tiếp cận dịch vụ công ở Việt Nam: Cơ hội và thách thức. Báo cáo Nghiên cứu chính sách năm 2022.
6. Xây dựng chính phủ số đáp ứng hiện đại hóa nền hành chính và đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, hiệu quả. https://www.quanlynhanuoc.vn/2024/04/16/xay-dung-chinh-phu-so-dap-ung-hien-dai-hoa-nen-hanh-chinh-va-doi-moi-quan-tri-quoc-gia-theo-huong-hien-dai-hieu-qua/