Tư tưởng Hồ Chí Minh về kiểm soát quyền lực trong công vụ và bài học kinh nghiệm cho phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay

ThS. NCS. Nguyễn Xuân Thể
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh

(Quanlynhanuoc.vn) – Bài viết phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về kiểm soát quyền lực trong công vụ, đặc biệt nhấn mạnh giá trị lý luận và thực tiễn của tư tưởng này trong công cuộc phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở làm rõ quan niệm của Người về bản chất quyền lực, nguy cơ lạm dụng quyền lực và các cơ chế kiểm soát quyền lực (kiểm soát nội bộ hệ thống, giám sát của Nhân dân và xã hội), từ đó, rút ra những bài học kinh nghiệm, đồng thời, đề xuất các giải pháp nhằm vận dụng hiệu quả tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn xây dựng nền công vụ liêm chính, kiến tạo và phục vụ Nhân dân tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

Từ khóa: Tư tưởng Hồ Chí Minh, kiểm soát quyền lực trong công vụ, phòng, chống tham nhũng.

1. Đặt vấn đề

Kiểm soát quyền lực là một vấn đề cốt lõi của khoa học lý luận chính trị và quản lý công, có ý nghĩa quyết định đối với sự ổn định, phát triển bền vững của mọi thể chế nhà nước. Trong một nhà nước dân chủ, nơi quyền lực tối cao thuộc về Nhân dân, việc kiểm soát quyền lực càng trở nên bức thiết nhằm ngăn chặn nguy cơ lạm dụng, tha hóa quyền lực, đặc biệt là tệ nạn tham nhũng. Tham nhũng với bản chất là sự lạm dụng vị trí và quyền hạn được giao để trục lợi cá nhân hoặc nhóm lợi ích, luôn là “quốc nạn” đe dọa sự liêm chính, hiệu quả của bộ máy nhà nước, làm xói mòn niềm tin của công chúng và cản trở tiến trình phát triển kinh tế – xã hội.

Ở Việt Nam, công cuộc phòng, chống tham nhũng đã và đang được Đảng và Nhà nước đẩy mạnh với quyết tâm chính trị cao, đạt được những kết quả tích cực, được dư luận trong nước và quốc tế ghi nhận. Tuy nhiên, tình hình tham nhũng vẫn còn tiềm ẩn những diễn biến phức tạp, đòi hỏi phải có những giải pháp căn cơ, bền vững và triệt để hơn nữa. Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu, quán triệt và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về kiểm soát quyền lực trong công vụ không chỉ mang giá trị lý luận sâu sắc mà còn cung cấp những định hướng quan trọng, thiết thực cho công tác phòng, chống tham nhũng hiện nay.

2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về kiểm soát quyền lực trong công vụ

Trong thực tế, có rất nhiều quan niệm khác nhau về công vụ với nhiều góc độ tiếp cận và nghiên cứu. Tuy nhiên, về cơ bản có thể hiểu: “Công vụ là một loại lao động mang tính quyền lực, trên cơ sở pháp lý, phần lớn do cán bộ, công chức thực hiện với các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước, gắn với quyền lực nhà nước, nhân danh nhà nước để phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân”1. Trong đó, các yếu tố cấu thành công vụ, như: hệ thống pháp luật, cơ chế hoạt động, bộ máy tổ chức và đặc biệt là đội ngũ cán bộ, công chức thực hiện hoạt động công vụ nhằm phục vụ Nhân dân.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý đến việc kiểm soát quyền lực, tư tưởng của Người được xây dựng trên nền tảng triết lý nhằm xây dựng một Nhà nước thực sự “của dân, do dân, vì dân”, nơi quyền lực nhà nước có nguồn gốc từ Nhân dân và phải phục vụ lợi ích của Nhân dân. Quan niệm của Người về bản chất quyền lực và nguy cơ lạm dụng quyền lực đã nói lên những nội dung tư tưởng thống nhất một cách triệt để.

Một là, quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhất quán khẳng định, quyền lực nhà nước trong chế độ mới thuộc về Nhân dân. Người viết: “Nước ta là nước dân chủ, bao nhiêu quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”2. Đây là luận điểm nền tảng, xuất phát từ nguyên tắc chủ quyền Nhân dân, theo đó, Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước. Mọi quyền lực nhà nước, từ lập pháp, hành pháp đến tư pháp đều do Nhân dân ủy thác cho các cơ quan nhà nước và cán bộ, công chức để thực thi. Do đó, cán bộ, công chức chỉ là những người “đầy tớ” hay “công bộc của dân”, phải tận tâm, tận lực phục vụ Nhân dân chứ không phải là “ông chủ” của Nhân dân.

Hai là, nguy cơ tha hóa, lạm dụng quyền lực. Mặc dù tin tưởng vào bản chất tốt đẹp của cán bộ cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt cảnh giác trước nguy cơ tha hóa, lạm dụng quyền lực. Người chỉ rõ, quyền lực, dù được trao bởi Nhân dân vẫn tiềm ẩn khả năng bị lợi dụng nếu người nắm giữ quyền lực không tu dưỡng đạo đức, bản lĩnh chính trị. Người đã nhiều lần cảnh báo về các căn bệnh có thể làm suy yếu bộ máy và tha hóa cán bộ, điển hình là “quan liêu, tham ô, lãng phí”.

Trong đó, quan liêu là căn bệnh của những người có chức, có quyền nhưng xa rời quần chúng, không nắm vững tình hình thực tiễn, làm việc rườm rà, giấy tờ, mệnh lệnh, thiếu kiểm tra, gây phiền hà cho dân. Người nói: “Quan liêu tức là xa rời thực tế, xa rời dân chúng”3. Tham ô là biểu hiện một cách cụ thể của tha hoá quyền lực, là hành vi trực tiếp lấy của công làm của tư, đây không chỉ là một biểu hiện tiêu cực mà có thể xem là một tội ác đối với Nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh coi tham ô là một trong những “tật xấu” nguy hiểm nhất, là “giặc nội xâm”, phá hoại từ bên trong. Người cho rằng: “tham ô là trộm cắp của công, tức là trộm cắp của dân,… Tội tham ô, dù lớn hay nhỏ, dù cố ý hay không cố ý đều là một tội ác”4. Người nhấn mạnh, “tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu là kẻ thù của Nhân dân”5 như một luận điểm chắc chắn về nguy cơ có thể xảy ra và hậu quả chắc chắn đến với những hành vi lệch chuẩn, những hành động tiêu cực và là biểu hiện cụ thể của sự tha hoá và lạm dụng quyền lực trong công vụ. Lãng phí là việc sử dụng không hiệu quả tài sản của Nhà nước và Nhân dân, gây tổn thất lớn. Người chỉ rõ: “Lãng phí tuy không tham ô, nhưng kết quả tai hại cũng to bằng tham ô”6. Theo Người, chủ nghĩa cá nhân không chỉ làm tha hóa đạo đức mà còn dẫn đến sự lạm dụng quyền lực vì mục đích riêng. Khi cán bộ mang nặng tư tưởng cá nhân, quyền lực công sẽ dễ bị biến thành công cụ tư lợi, gây tổn hại đến lợi ích của Nhân dân và uy tín của bộ máy nhà nước.

Ba là, các cơ chế kiểm soát quyền lực. Để ngăn chặn và đấu tranh với nguy cơ lạm dụng quyền lực, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề xuất và kiên trì thực hiện nhiều cơ chế kiểm soát quyền lực một cách đồng bộ, bao gồm cả kiểm soát từ bên trong hệ thống nhà nước và kiểm soát từ bên ngoài.

Đối với kiểm soát quyền lực từ bên trong hệ thống. Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng việc thực hành dân chủ rộng rãi trong nội bộ Đảng và các cơ quan nhà nước. Người nhấn mạnh nguyên tắc tập trung dân chủ, đồng thời, đề cao tự phê bình và phê bình như một phương thuốc hữu hiệu để ngăn ngừa bệnh tật. Qua đó, “mỗi cán bộ, đảng viên cần phải thật thà tự phê bình và phê bình đồng chí. Đó là vũ khí sắc bén nhất để rèn luyện tư tưởng và tăng cường đoàn kết nội bộ”7. Tự phê bình và phê bình giúp mỗi người tự soi rọi, nhận diện và sửa chữa khuyết điểm, đồng thời giúp đỡ đồng chí, đồng nghiệp cùng tiến bộ, tránh xa những sai lầm, tiêu cực. Đồng thời, phân công, phối hợp và kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan nhà nước. Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, có quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước, bao gồm Chính phủ và các cơ quan tư pháp. Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và phải báo cáo công tác trước Quốc hội. Các cơ quan tư pháp độc lập trong xét xử nhưng cũng chịu sự giám sát của Quốc hội và Nhân dân, bảo đảm công lý được thực thi một cách khách quan.

Ngoài ra, xây dựng bộ máy tinh gọn, hiệu quả nhằm tạo ra một nền hành chính linh hoạt, vận hành nhanh gọn, đáp ứng tốt yêu cầu phục vụ Nhân dân và thích ứng với bối cảnh phát triển. Bộ máy tinh gọn không chỉ tiết kiệm nguồn lực mà còn góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và phòng chống quan liêu, tham nhũng. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Nói chung, các cơ quan đều phải tiết kiệm. Riêng cơ quan cung cấp tổ chức còn kềnh càng, thừa người, phải sắp xếp cho gọn gàng, hợp lý, mọi người đều có công việc thiết thực, những người thừa phải đưa đi chỗ thiếu, những người ở lại phải thi đua nâng cao năng suất của mình. Thế là tinh giản, tinh là đưa năng suất lên cao, làm cho mau cho tốt, giản là vừa phải, không kềnh càng, tránh hình thức”8.

Theo Người, đối với: “các cơ quan chính quyền và đoàn thể, các cơ quan kinh tế và các ủy ban cần phải nâng cao năng suất, giảm bớt số người (tinh giản),… Vô luận thế nào cũng phải tìm đủ cách để biên chế các cơ quan lại”9; “bộ máy nhà nước càng gọn nhẹ, càng giản dị, thì càng giảm bớt được bệnh quan liêu”10. Như vậy, Người chủ trương xây dựng một bộ máy nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu quả, giảm bớt các khâu trung gian, đơn giản hóa thủ tục hành chính. Điều này không chỉ nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý mà còn hạn chế tối đa các kẽ hở, cơ hội cho tham nhũng, lãng phí phát sinh.

Đối với kiểm soát quyền lực từ bên ngoài hệ thống. Sự giám sát từ bên ngoài góp phần cân bằng quyền lực, ngăn ngừa quan liêu, tham nhũng và củng cố lòng tin của xã hội đối với Nhà nước. Trong đó:

(1) Sự giám sát của Nhân dân, là hình thức kiểm soát quyền lực quan trọng nhất và có ý nghĩa quyết định theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Người luôn nhấn mạnh vai trò chủ thể của Nhân dân trong việc xây dựng và kiểm soát quyền lực nhà nước. Luận điểm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” là cốt lõi thể hiện quyền làm chủ và giám sát tối cao của Nhân dân đối với mọi hoạt động của Nhà nước và cán bộ, công chức. Người khẳng định: “Nếu Chính phủ làm điều gì sai thì dân có quyền phê bình, nói cho Chính phủ biết. Nếu Chính phủ cứ không nghe, không sửa thì dân có quyền đuổi Chính phủ”11. Điều này cho thấy, tầm quan trọng tuyệt đối của sự giám sát từ Nhân dân thông qua các hình thức trực tiếp và gián tiếp, như: đóng góp ý kiến, thực hiện quyền tố cáo, khiếu nại…

(2) Sự giám sát của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể Nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội trong việc tập hợp, phát huy sức mạnh của Nhân dân, đồng thời, thực hiện chức năng giám sát, phản biện xã hội đối với hoạt động của Đảng và Nhà nước, góp phần bảo vệ quyền lợi chính đáng của Nhân dân. Sự giám sát của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể là hình thức kiểm soát quyền lực dựa trên vai trò đại diện cho ý chí, nguyện vọng của Nhân dân. Người cho rằng: “Nếu công tác kiểm tra cho chu đáo thì cũng như ngọn đèn “pha”. Bao nhiêu tình hình, bao nhiêu ưu điểm và khuyết điểm, bao nhiêu cán bộ chúng ta đều thấy rõ. Chín phần mười khuyết điểm trong công việc của chúng ta là vì thiếu sự kiểm tra”12. Thông qua việc góp ý, phản biện xã hội và theo dõi việc thực hiện chính sách, pháp luật, các tổ chức này góp phần phát hiện sai phạm, nâng cao trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức.

(3) Sự giám sát của báo chí và dư luận xã hội là hình thức kiểm soát quyền lực thông qua việc phản ánh, phát hiện và đấu tranh với những sai phạm, yếu kém của các cơ quan, tổ chức và cá nhân có chức vụ trong xã hội. Báo chí giữ vai trò là “cầu nối” giữa Nhân dân và chính quyền, góp phần thúc đẩy tính minh bạch, công khai và nâng cao trách nhiệm giải trình. Dư luận xã hội, với sức ép từ phía cộng đồng, tạo ra cơ chế giám sát mềm nhưng có ảnh hưởng mạnh mẽ, góp phần ngăn ngừa lạm dụng quyền lực và khuyến khích hành vi liêm chính trong nền công vụ. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Các báo chí phải theo dõi và tuyên truyền… làm cho cán bộ ở địa phương tự phê bình, phê phán, đấu tranh với bệnh quan liêu, tham ô, lãng phí”13. Qua đó, Người xem báo chí là một công cụ sắc bén để phát hiện, phê phán các hiện tượng tiêu cực, tham nhũng, lãng phí, đồng thời biểu dương những nhân tố tích cực, gương người tốt, việc tốt. Báo chí và dư luận xã hội có vai trò quan trọng trong việc tạo áp lực công khai, buộc các cá nhân, tổ chức có hành vi sai phạm phải chịu trách nhiệm, góp phần tạo dựng môi trường xã hội, không dung túng cho tham nhũng.

3. Bài học kinh nghiệm cho phòng, chống tham nhũng

Những năm qua, Việt Nam đã rất nghiêm túc trong việc phòng, chống tham nhũng. Mặc dù đạt được nhiều kết quả quan trọng, công tác phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam vẫn đối mặt với không ít thách thức và hạn chế. Trong đó, tính tự giác, tự kiểm soát của một bộ phận cán bộ còn yếu, còn tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, dẫn đến “các hành vi tham nhũng, tiêu cực ngày càng tinh vi, khó lường”14. Bên cạnh đó, cơ chế kiểm soát quyền lực chưa thực sự đồng bộ và hiệu quả tuyệt đối. Sự phối hợp giữa các cơ quan có chức năng kiểm tra, giám sát đôi khi còn chưa thực sự chặt chẽ, đồng bộ, còn tình trạng chồng chéo hoặc bỏ sót. Việc giám sát của Nhân dân và xã hội, mặc dù đã được khuyến khích nhưng đôi khi còn mang tính hình thức hoặc gặp khó khăn trong việc tiếp cận thông tin và bảo vệ người tố giác.

Có thể nói, tham nhũng vẫn diễn biến phức tạp. Tham nhũng vẫn còn tiềm ẩn nguy cơ xảy ra ở nhiều lĩnh vực, đặc biệt là các lĩnh vực nhạy cảm, như: quản lý đất đai, tài nguyên, đầu tư công, mua sắm công, tài chính, ngân hàng… với sự xuất hiện của các hành vi tham nhũng có tổ chức, liên quan đến lợi ích nhóm và sự thông đồng giữa cán bộ và doanh nghiệp. Trước tình hình đó, để tiếp tục nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng, cần kiên trì vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về kiểm soát quyền lực trong bối cảnh mới.

Thứ nhất, kiên trì mục tiêu xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Đây là quá trình thường xuyên, liên tục nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng và phẩm chất đạo đức, bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Kiên trì thực hiện mục tiêu này là điều kiện tiên quyết để bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Một Đảng trong sạch, vững mạnh sẽ là nền tảng chính trị vững chắc cho bộ máy nhà nước hoạt động hiệu lực, hiệu quả, giữ vững niềm tin của Nhân dân và phòng ngừa từ gốc các biểu hiện suy thoái, lạm dụng quyền lực, tham nhũng. Ngoài ra, đây còn được xem nhân tố quyết định mọi thắng lợi trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Cần tiếp tục đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đặt trọng tâm vào xây dựng đạo đức, bản lĩnh chính trị, tinh thần “tự soi, tự sửa” cho đội ngũ cán bộ, đảng viên theo tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Thứ hai, nâng cao nhận thức xã hội về phòng, chống tham nhũng. Về bản chấy, đây là quá trình tuyên truyền, giáo dục để mọi tầng lớp nhân dân hiểu rõ bản chất, tác hại của tham nhũng và vai trò, trách nhiệm của mình trong việc đấu tranh phòng ngừa. Đây là yếu tố nền tảng tạo nên sự đồng thuận xã hội, huy động sức mạnh toàn dân trong kiểm soát quyền lực và xây dựng nền công vụ liêm chính. Khi người dân có hiểu biết và thái độ kiên quyết với tham nhũng, xã hội sẽ hình thành “hàng rào” đạo đức và dư luận, góp phần phát hiện, ngăn chặn kịp thời các hành vi tiêu cực. Xây dựng văn hóa không dung túng tham nhũng trong toàn xã hội, khuyến khích mọi công dân tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh này thông qua giáo dục, tuyên truyền và các phong trào thi đua.

Thứ ba, hoàn thiện đồng bộ cơ chế kiểm soát quyền lực. Cần xác định kiểm soát quyền lực từ sớm, từ xa. Ngăn chặn nguy cơ tham nhũng ngay từ khâu ban hành chính sách, quy hoạch, dự án, bảo đảm tính công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình. Cần có cơ chế kiểm soát quyền lực chặt chẽ trong quá trình xây dựng và thực thi chính sách, quy định pháp luật; siết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính và xử lý nghiêm minh. Áp dụng các biện pháp xử lý nghiêm khắc, không có “vùng cấm”, không có ngoại lệ đối với mọi hành vi tham nhũng, tiêu cực, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; phát huy tối đa vai trò giám sát của Nhân dân và xã hội. Xây dựng các kênh tiếp nhận thông tin, phản ánh, tố giác tham nhũng một cách hiệu quả, an toàn và bảo vệ người tố giác. Đẩy mạnh công khai, minh bạch trong mọi hoạt động công vụ, đặc biệt là các lĩnh vực dễ phát sinh tham nhũng. Tăng cường năng lực và tính độc lập của các cơ quan kiểm tra, giám sát chuyên trách, bảo đảm các cơ quan này có đủ thẩm quyền, nguồn lực và sự độc lập cần thiết để thực hiện nhiệm vụ một cách khách quan, hiệu quả, tránh sự can thiệp từ bên ngoài.

Thứ tư, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ – thông tin, chuyển đổi số trong quản lý công. Cụ thể, đây là quá trình hiện đại hóa hoạt động của bộ máy hành chính thông qua việc sử dụng các nền tảng số, dữ liệu lớn và tự động hóa quy trình quản lý. Về mặt thực tiễn hiện nay, đây được xem là giải pháp quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả điều hành, minh bạch hóa thông tin và cải thiện chất lượng phục vụ người dân. Việc ứng dụng công nghệ giúp giảm thiểu tiếp xúc trực tiếp, hạn chế nhũng nhiễu, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân giám sát hoạt động công vụ và thúc đẩy nền hành chính công khai, hiệu quả, hiện đại. Việc số hóa các quy trình, dịch vụ công sẽ giảm thiểu sự tiếp xúc trực tiếp giữa cán bộ và người dân, tăng tính minh bạch, hạn chế tham nhũng vặt và tạo điều kiện thuận lợi cho việc giám sát từ xa.

Thứ năm, quan tâm đời sống vật chất và tinh thần của cán bộ, công chức. Cần nhận thức được rằng đây là việc bảo đảm mức thu nhập hợp lý, điều kiện làm việc thuận lợi và môi trường tâm lý tích cực cho đội ngũ làm việc trong bộ máy nhà nước. Đây là yếu tố quan trọng để khuyến khích sự tận tâm, trách nhiệm và giữ gìn phẩm chất đạo đức công vụ. Khi cán bộ, công chức được bảo đảm quyền lợi chính đáng và có động lực nghề nghiệp, họ sẽ yên tâm cống hiến, giảm nguy cơ bị cám dỗ bởi lợi ích cá nhân, từ đó góp phần thúc đẩy mỗi cán bộ công chức thực hiện một cách tận tâm và toàn ý với hoạt động công vụ được giao. Bảo đảm chế độ đãi ngộ hợp lý, chính sách tiền lương đủ sống, tạo môi trường làm việc lành mạnh để cán bộ, công chức yên tâm công tác, hạn chế các cám dỗ vật chất, nâng cao tính liêm chính và sự tận tâm phục vụ Nhân dân.

Thứ sáu, thực hiện một cách triệt để công tác sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị. Việc thực hiện triệt để và đồng bộ công tác này giúp thu gọn đầu mối, tinh giản biên chế, giảm chi phí vận hành, từ đó góp phần nâng cao hiệu lực lãnh đạo, hiệu quả quản lý và chất lượng phục vụ Nhân dân. Đây cũng là bước đi cần thiết trong tiến trình cải cách hành chính, xây dựng hệ thống chính trị hiện đại, hoạt động linh hoạt và thực chất hơn. Thực hiện theo tinh thần của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi “thực hành chấn chỉnh biên chế để bớt sự đóng góp cho dân và thêm lực lượng vào công việc tăng gia sản xuất”15. Tuy nhiên, “Tinh giản không có nghĩa là cắt giảm một cách một cách cơ học mà là loại bỏ những vị trí không cần thiết, giảm những công việc không hiệu quả”16. Bên cạnh đó, “Không để cơ quan nhà nước là “vùng trú ẩn an toàn” cho cán bộ yếu kém”17. Đây là nội dung quan trọng trong việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, tạo lập môi trường công vụ minh bạch, cạnh tranh lành mạnh và thúc đẩy đổi mới trong hệ thống chính trị, hành chính và cũng là điều kiện tiên quyết để tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước trong giai đoạn phát triển mới.

4. Kết luận

Tư tưởng Hồ Chí Minh về kiểm soát quyền lực trong công vụ là di sản lý luận quý giá, có vai trò định hướng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Trước thực trạng tham nhũng, lạm dụng quyền lực hiện nay, những nội dung cốt lõi trong tư tưởng của Người càng mang ý nghĩa thực tiễn sâu sắc. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh việc đặt đạo đức lên hàng đầu trong hành xử quyền lực, đồng thời xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực mạnh, đồng bộ và hiệu quả về tổ chức, pháp lý, xã hội. Việc vận dụng tư tưởng của Người cần gắn với các xu hướng hiện đại, như: chuyển đổi số, tăng cường giám sát xã hội, truyền thông và ứng dụng công nghệ trên tinh thần đổi mới, dân chủ và pháp quyền, tránh sao chép máy móc.

Chú thích:
1. Bộ Nội vụ (2018). Tài liệu bồi dưỡng cán bộ chuyên viên. Hà Nội, tr. 22.
2. Hồ Chí Minh toàn tập. (2011). Tập 12. H. NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, tr. 62.
3, 7. Hồ Chí Minh toàn tập. (2011). Tập 6. H. NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, tr. 195, tr. 263.
4, 5, 6, 8, 9, 15. Hồ Chí Minh toàn tập. (2011). Tập 7. H. NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, tr. 132, 125, 320, 432, 367, 164.
10, 12. Hồ Chí Minh toàn tập. (2011). Tập 5. H. NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, tr. 297, 419.
11. Hồ Chí Minh toàn tập. (2011). Tập 4. H. NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, tr. 102.
13. Hồ Chí Minh toàn tập. (2011). Tập 9. H. NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, tr. 123 – 124.
14. Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực (2023). Báo cáo tổng kết công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực năm 2022 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2023, tr. 26.
16, 17. Tô Lâm (2024). Phát huy cao độ tinh thần trách nhiệm, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo với quyết tâm cao nhất để hoàn thành sớm việc tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị; góp phần tăng tốc, bứt phá vượt các mục tiêu, nhiệm vụ của năm 2024, 2025 và cả nhiệm kỳ Đại hội XIII; chuẩn bị thật tốt đại hội đảng các cấp tiến tới Đại hội XIV của Đảng. Tạp chí Cộng sản, 1051 (12/2024): 7.
Tài liệu tham khảo:
1. Bộ Chính trị (2024). Quy định số 144-QĐ/TW ngày 09/5/2024 về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới.
2. Bộ Chính trị (2025). Chỉ thị số 42-CT/TW ngày 16/01/2025 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I, II. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.
4. Tìm hiểu những điểm mới của Quy định số 296-QĐ/TW về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng. https://www.quanlynhanuoc.vn/2025/07/08/tim-hieu-nhung-diem-moi-cua-quy-dinh-so-296-qd-tw-ve-cong-tac-kiem-tra-giam-sat-va-ky-luat-cua-dang.