NCS. ThS. Chu Thị Diệp
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
(Quanlynhanuoc.vn) – Trong bối cảnh đẩy mạnh công cuộc cải cách hành chính và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, đặc biệt từ ngày 01/7/2025 đánh dấu thời điểm có hiệu lực của nhiều đạo luật quan trọng, như Luật Đất đai năm 2024, Luật Căn cước, Luật Tổ chức chính quyền địa phương sửa đổi, đặt ra những yêu cầu mới trong hoạt động công vụ ở xã, phường, nơi mà cán bộ, công chức trực tiếp tiếp xúc và giải quyết công việc cho người dân. Trong bối cảnh đó, việc nâng cao đạo đức công vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã không chỉ để bảo đảm hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước mà còn góp phần xây dựng nền hành chính liêm chính, chuyên nghiệp, phục vụ Nhân dân.
Từ khóa: Chính quyền cấp xã, đạo đức công vụ, cán bộ, công chức cấp xã, hiệu lực, hiệu quả, quản lý nhà nước.
1. Đặt vấn đề
Chính quyền cấp xã là cấp gần dân nhất, thực hiện trực tiếp các thủ tục hành chính liên quan đến đời sống hằng ngày, như: hộ tịch, đất đai, căn cước, an sinh xã hội… Do đó, đạo đức công vụ của cán bộ, công chức cấp xã không chỉ ảnh hưởng đến hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, mà còn quyết định niềm tin của người dân vào bộ máy công quyền. Việc nâng cao đạo đức công vụ không chỉ là vấn đề nhận thức, mà còn đòi hỏi những giải pháp toàn diện: từ bồi dưỡng phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp, đến hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát, xử lý kỷ luật và xây dựng văn hóa công sở. Đặc biệt, phải gắn trách nhiệm người đứng đầu với chất lượng phục vụ của đội ngũ công chức, đề cao vai trò nêu gương, minh bạch hóa quy trình hành chính và tạo động lực phấn đấu vì lợi ích chung. Chỉ khi đạo đức công vụ trở thành nền tảng, chính quyền cấp xã mới thực sự trở thành “cánh tay nối dài” tin cậy của Đảng và Nhà nước trong phục vụ Nhân dân.
2. Quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công vụ
Cơ sở lý luận về đạo đức công vụ cấp xã, phường là nền tảng quan trọng để xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở vừa có năng lực, vừa có phẩm chất đạo đức, bảo đảm thực thi công vụ hiệu quả, đúng pháp luật và gắn bó với Nhân dân. Trước hết, để xác định đạo đức công vụ ở xã, phường, cần xuất phát từ khái niệm chung về đạo đức công vụ: đạo đức công vụ là hệ thống các chuẩn mực, giá trị đạo đức điều chỉnh hành vi của cán bộ, công chức trong quá trình thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao, nhằm bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước và phục vụ lợi ích công. Đạo đức công vụ là sự kết tinh giữa đạo đức nghề nghiệp và đạo đức cách mạng, phản ánh những yêu cầu chính trị, pháp lý và xã hội đặt ra đối với người thực thi công vụ trong bộ máy hành chính.
Ở cấp xã, phường, nơi gần dân nhất, giải quyết những công việc hành chính thiết yếu hằng ngày, như: đất đai, hộ tịch, an sinh, an ninh trật tự, môi trường… thì đạo đức công vụ không chỉ là yêu cầu bắt buộc về thái độ, hành vi ứng xử chuẩn mực, mà còn mang tính quyết định đối với niềm tin của người dân vào chính quyền.
Chủ nghĩa Mác – Lênin tiếp cận đạo đức từ tầng sâu của mối quan hệ lợi ích giữa cá nhân và cộng đồng, đạo đức công vụ không phải là những quy tắc phi thực tiễn hay mang tính áp đặt, mà bắt nguồn từ những lợi ích thực chất của con người và cộng đồng. Khi lợi ích được xác định đúng đắn, phản ánh quy luật phát triển khách quan và lợi ích chung của xã hội, thì đạo đức cũng trở thành kim chỉ nam cho hành vi cá nhân. Trong xã hội có giai cấp, các lợi ích có thể đối lập, xung đột, nhưng trong điều kiện xây dựng chủ nghĩa xã hội, nơi lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể được định hướng hài hòa thì việc dung hòa hai mặt này trở thành mục tiêu của đạo đức cách mạng. C.Mác cho rằng “Nếu như lợi ích đúng đắn là nguyên tắc của toàn bộ đạo đức, thì do đó, cần ra sức làm cho lợi ích riêng của con người cá biệt phù hợp với lợi ích của toàn thể loài người”1.
V.I. Lênin tiếp cận đạo đức công vụ từ góc độ lợi ích của giai cấp vô sản. Theo V.I. Lênin, đạo đức không tồn tại một cách siêu hình, trừu tượng mà phản ánh lợi ích, quan hệ và đấu tranh giữa các giai cấp trong xã hội. Đối với giai cấp vô sản, đạo đức chân chính là những chuẩn mực hành vi phục vụ cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng con người, hướng tới xây dựng xã hội công bằng, không có áp bức, bóc lột và bất công. Ông nhấn mạnh, “Đạo đức của chúng ta là từ những lợi ích của cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản mà ra”2. Đạo đức không chỉ là những chuẩn mực đạo lý thuần túy mà phải phục vụ mục tiêu chính trị, là vũ khí tinh thần góp phần xóa bỏ chế độ cũ bất công, áp bức và xây dựng xã hội mới công bằng, dân chủ. “Đạo đức chân chính là đạo đức phục vụ Nhân dân, phục vụ cách mạng, gắn bó mật thiết với lợi ích của giai cấp lao động. Đạo đức đó là những gì góp phần phá hủy xã hội cũ của bọn bóc lột và góp phần đoàn kết tất cả những người lao động chung quanh giai cấp vô sản đang sáng tạo ra xã hội mới, của những người cộng sản”3.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ dẫn về đạo đức công vụ: “… để giúp công việc Chính phủ một cách đắc lực, để nâng cao tinh thần kháng chiến, anh em viên chức bây giờ phải có 4 đức tính là: Cần, kiệm, liêm, chính” và Người dặn thêm: “có cần, có kiệm, không tiêu đến nhiều tiền, anh em viên chức mới có thể trở nên liêm, chính để cho người ngoài kính nể được”4. Tư tưởng đạo đức đó, đến nay vẫn là kim chỉ nam trong xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đạo đức công vụ là phải phục vụ Nhân dân, trên cơ sở lấy dân làm gốc, Người căn dặn: đối với người cán bộ phải nhận thức rõ: “Cơm chúng ta ăn, áo chúng ta mặc, vật liệu chúng ta dùng, đều do mồ hôi, nước mắt của nhân dân mà ra. Vì vậy, chúng ta phải đền bù xứng đáng cho nhân dân. Muốn làm như vậy, chúng ta phải cố gắng thực hành cần, kiệm, liêm, chính”5. Đạo đức công vụ được coi là nền tảng tạo nên tính chính danh và tính chính nghĩa cho quyền lực nhà nước. Nếu quyền lực không được sử dụng trên nền tảng đạo đức, quyền lực đó dễ bị tha hóa và đi ngược lại mục tiêu phục vụ nhân dân. Như vậy, đạo đức công vụ không chỉ là yêu cầu “nên có” mà là một bộ phận thiết yếu trong cấu trúc hoạt động nhà nước.
Điều 8, Hiến pháp năm 2013 đề cập: “Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng Nhân dân, tận tụy phục vụ Nhân dân, liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của Nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền”6.
Đặc biệt, từ ngày 01/7/2025, một số luật có hiệu lực, như: Luật Đất đai năm2024, Luật Căn cước công dân (sửa đổi), Luật Tổ chức chính quyền địa phương sửa đổi sẽ trực tiếp làm thay đổi cả về nội dung công việc, quyền hạn và trách nhiệm pháp lý của cán bộ, công chức cấp xã. Những thay đổi này đồng nghĩa với việc đòi hỏi đội ngũ cán bộ thực thi công vụ phải có trình độ pháp lý tốt hơn, tinh thần trách nhiệm cao hơn và đạo đức nghề nghiệp nghiêm cẩn hơn, nhất là trong các lĩnh vực nhạy cảm, như: cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, xác nhận nhân thân, xử lý tranh chấp địa giới hành chính… Do đó, việc cập nhật, củng cố và vận dụng hệ thống cơ sở pháp lý về đạo đức công vụ là điều kiện bảo đảm thực thi pháp luật hiệu quả; đồng thời, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động hành chính ở cấp cơ sở.
3. Thực trạng đạo đức công vụ của cán bộ cấp xã hiện nay
Từ ngày 01/7/2025 các xã, phường đi vào hoạt động chính thức theo mô hình chính quyền địa phương hai cấp là tỉnh và xã, đội ngũ cán bộ cấp xã trở thành lực lượng trực tiếp triển khai, tổ chức thực hiện và đưa các chính sách, pháp luật vào cuộc sống. Đây là thời điểm đặt ra nhiều yêu cầu mới đối với chất lượng, đạo đức và năng lực công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã, những người gần dân nhất, thường xuyên tiếp xúc với nhân dân trong xử lý các thủ tục hành chính.
Đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã đã và đang có nhiều cố gắng thích ứng với những yêu cầu mới. Không ít cán bộ trẻ, có trình độ chuyên môn vững vàng, phẩm chất chính trị tốt, tinh thần trách nhiệm cao và thái độ phục vụ Nhân dân nghiêm túc đã góp phần thay đổi bộ mặt chính quyền cơ sở. Việc tiếp cận công nghệ, ứng dụng phần mềm quản lý hành chính công, cải cách thủ tục hành chính đã được nhiều cán bộ xã, phường triển khai khá hiệu quả, góp phần nâng cao chỉ số hài lòng của người dân. Một số địa phương vùng sâu, vùng xa, tuy còn khó khăn về điều kiện kinh tế – xã hội, nhưng nhờ sự chủ động, nỗ lực rèn luyện của cán bộ cơ sở đã từng bước giảm tình trạng nhũng nhiễu, cửa quyền trong giải quyết công việc hành chính.
Hiện nay, trước yêu cầu nhiệm vụ mới, bên cạnh những kết quả tích cực, tình trạng chung của đội ngũ cán bộ cấp xã vẫn bộc lộ những hạn chế, bất cập, như:
Một là, về trình độ chuyên môn và năng lực thực thi công vụ. Một bộ phận không nhỏ cán bộ cấp xã còn lúng túng trong việc triển khai các quy định mới của luật, đặc biệt là Luật Đất đai năm 2024, một lĩnh vực nhạy cảm, đòi hỏi kiến thức pháp lý sâu và sự cẩn trọng trong từng bước xử lý. Sự thay đổi về quy trình, hệ thống dữ liệu đất đai, cũng như việc tăng cường số hóa thông tin công dân theo Luật Căn cước đã tạo áp lực lớn lên chính quyền cấp xã. Không ít cán bộ chưa theo kịp tốc độ đổi mới, dẫn đến tình trạng xử lý chậm trễ, sai sót hoặc né tránh trách nhiệm.
Hai là, về phẩm chất đạo đức công vụ. Đây là “điểm yếu” còn khá rõ trong một bộ phận cán bộ cấp xã hiện nay. Vẫn còn tình trạng cán bộ thiếu tinh thần trách nhiệm, thái độ cửa quyền, ban ơn, gây phiền hà cho người dân trong quá trình giải quyết hồ sơ, thủ tục, làm suy giảm lòng tin của Nhân dân đối với chính quyền cơ sở. Một bộ phận cán bộ có biểu hiện vụ lợi, thiếu công tâm trong công tác, chưa thực sự thấm nhuần tư tưởng “công bộc của dân”, xem công việc Nhà nước như “quyền lợi cá nhân”, thiếu tinh thần phục vụ, tham nhũng vặt, nhận hối lộ vẫn đang là vấn đề đáng lo ngại.
Ba là, việc chấp hành kỷ luật, kỷ cương hành chính. Mặc dù thời gian qua đã có nhiều chỉ đạo siết chặt kỷ luật công vụ, nhưng ở xã, phường tình trạng làm việc không đúng giờ, làm việc qua loa, thiếu giám sát vẫn tồn tại. Cơ chế kiểm tra, giám sát cán bộ cấp xã, phường còn nhiều lỗ hổng; việc xử lý sai phạm chưa nghiêm, đôi khi mang tính hình thức, dẫn đến tâm lý chủ quan, thiếu trách nhiệm trong đội ngũ cán bộ.
Ngoài ra, cơ cấu cán bộ xã, phường hiện nay cũng còn bất cập, như: ở nhiều nơi, cán bộ kiêm nhiệm nhiều chức danh, quá tải công việc nhưng chưa có điều kiện bồi dưỡng, nâng cao trình độ. Trong khi đó, một số cán bộ được bổ nhiệm theo cơ chế “cục bộ”, “ưu tiên người nhà” hoặc thiếu quy trình đánh giá công tâm, dẫn đến tình trạng không đúng người, đúng việc. Điều này làm giảm hiệu quả hoạt động của bộ máy hành chính cấp xã; đồng thời, tạo rào cản trong việc nâng cao đạo đức và chất lượng phục vụ.
Trước những yêu cầu, nhiệm vụ mới từ hệ thống luật pháp có hiệu lực từ 01/7/2025, đòi hỏi đội ngũ cán bộ cấp xã phải thực sự chuyển mình mạnh mẽ, không chỉ về kiến thức, kỹ năng mà còn về đạo đức công vụ, tinh thần phục vụ và trách nhiệm với dân. Đây là yếu tố then chốt bảo đảm cho quá trình thực thi pháp luật tại cơ sở được hiệu quả, công bằng, dân chủ và minh bạch hơn trong giai đoạn hiện nay.
Những nguyên nhân chính dẫn đến hạn chế nêu trên là do: (1) nhận thức chính trị và phẩm chất đạo đức của một bộ phận cán bộ, công chức xã, phường còn yếu kém; khi xử lý công việc còn tư tưởng mang tính ban phát, quan liêu, thiếu tinh thần cầu thị, thậm chí vi phạm đạo đức công vụ; còn hành vi tham nhũng vặt, lợi dụng vị trí công tác để trục lợi bất chính. (2) Công tác giáo dục, bồi dưỡng đạo đức công vụ còn hình thức, thiếu chiều sâu. Công tác kiểm tra, giám sát việc rèn luyện đạo đức công vụ của cán bộ ở cơ sở còn lỏng lẻo, thiếu chế tài cụ thể khi cán bộ vi phạm. (3) Cơ chế tuyển dụng, đánh giá và sử dụng cán bộ cấp xã còn bất cập. Việc tuyển chọn cán bộ nhiều khi chưa dựa vào tiêu chuẩn đạo đức, phẩm chất chính trị mà vẫn còn chịu tác động của mối quan hệ cá nhân, địa phương chủ nghĩa hoặc xu hướng “chạy vị trí”, “chạy biên chế” vẫn chưa được khắc phục triệt để. (4) Sự thiếu minh bạch, công khai trong hoạt động công vụ tạo điều kiện cho vi phạm đạo đức công vụ. (5) Chế độ đãi ngộ và điều kiện làm việc của cán bộ xã, phường còn thấp, ảnh hưởng đến động lực rèn luyện đạo đức.
4. Một số giải pháp nâng cao đạo đức công vụ cho cán bộ cấp xã, phường hiện nay
Để nâng cao đạo đức công vụ tại cấp cơ sở, cần triển khai một loạt giải pháp đồng bộ, toàn diện từ nhận thức, tổ chức bộ máy đến công tác giám sát và chế tài xử lý.
Thứ nhất, cần tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao nhận thức về vai trò, trách nhiệm và chuẩn mực đạo đức công vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức xã, phường. Việc quán triệt sâu sắc chủ nghĩa Mác – Lê nin; tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng, gắn với học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là nền tảng quan trọng để cán bộ tự soi lại mình và tự sửa mình. Bên cạnh đó, cần tổ chức thường xuyên các lớp bồi dưỡng về đạo đức công vụ, kỹ năng tiếp công dân, xử lý tình huống hành chính, bảo đảm cán bộ không chỉ có phẩm chất đạo đức tốt mà còn đủ năng lực thực hiện nhiệm vụ được giao.
Thứ hai, đổi mới công tác tuyển dụng, bố trí và đánh giá cán bộ, công chức xã, phường theo hướng công khai, minh bạch, lấy phẩm chất đạo đức và năng lực thực tiễn làm tiêu chí hàng đầu. Cần kiên quyết ngăn chặn, chấm dứt tình trạng “chạy chức, chạy quyền”, bổ nhiệm theo quan hệ thân quen mà bỏ qua yếu tố đạo đức, năng lực. Việc đánh giá cán bộ, công chức cũng cần thực chất, định kỳ và có sự tham gia của người dân, những người trực tiếp thụ hưởng dịch vụ công để bảo đảm tính khách quan. Các cơ quan cấp trên cần tăng cường giám sát, kiểm tra quy trình bổ nhiệm, luân chuyển cán bộ cấp xã nhằm tránh việc để lọt những cán bộ thiếu chuẩn mực vào bộ máy hành chính cơ sở.
Thứ ba, xây dựng môi trường làm việc công khai, minh bạch, chuyên nghiệp, lấy sự hài lòng của người dân làm thước đo cho hiệu quả công vụ. Chính quyền xã, phường cần công khai quy trình thủ tục hành chính, thời gian giải quyết, lệ phí rõ ràng, tạo điều kiện để người dân giám sát. Việc ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong hoạt động hành chính là một giải pháp quan trọng nhằm hạn chế tiếp xúc trực tiếp để giảm nguy cơ tiêu cực, nhũng nhiễu; đồng thời, nâng cao tính minh bạch, trách nhiệm giải trình của cán bộ, công chức. Các địa phương cần tiếp tục triển khai hiệu quả cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông” trong giải quyết thủ tục hành chính; đồng thời, lấy ý kiến đánh giá của công dân làm cơ sở điều chỉnh hoạt động công vụ.
Thứ tư, tăng cường vai trò giám sát của Nhân dân, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội đối với cán bộ, công chức xã, phường. Cần phát huy hiệu quả các mô hình, như: “Hòm thư góp ý”, “Trang web góp ý kiến trực tuyến”, “Sổ tay góp ý cán bộ”…; đồng thời, tổ chức các hội nghị tiếp xúc giữa chính quyền và Nhân dân để người dân phản ánh, kiến nghị trực tiếp. Các ý kiến cần được tiếp thu, xử lý công khai, minh bạch, tránh tình trạng hình thức, làm qua loa. Bên cạnh đó, cần bảo vệ người dân khi tố giác tiêu cực của cán bộ để tạo niềm tin và khuyến khích người dân tham gia giám sát chính quyền.
Thứ năm, kiên quyết xử lý các hành vi vi phạm đạo đức công vụ, xây dựng cơ chế khen thưởng, kỷ luật rõ ràng, nghiêm minh. Những cán bộ có biểu hiện tiêu cực, nhũng nhiễu, cửa quyền cần bị xử lý nghiêm khắc, công khai kết quả xử lý trước Nhân dân. Đồng thời, những cán bộ tận tụy, sáng tạo, được Nhân dân tín nhiệm phải được tuyên dương, khen thưởng kịp thời để nhân rộng. Việc này không chỉ góp phần răn đe mà còn tạo động lực cho cán bộ, công chức rèn luyện, phấn đấu, giữ vững phẩm chất đạo đức công vụ trong bối cảnh nhiệm vụ ngày càng nhiều và áp lực cao hơn.
5. Kết luận
Nâng cao đạo đức công vụ cho chính quyền xã, phường là nhiệm vụ mang tính chiến lược, lâu dài, gắn liền với hiệu quả của cả hệ thống chính trị ở cơ sở. Đây không chỉ là trách nhiệm của từng cán bộ, công chức mà còn là yêu cầu đặt ra đối với cấp ủy, chính quyền cấp xã; của cấp ủy, chính quyền cấp tỉnh; của các cơ quan ban, bộ, ngành Trung ương cũng như các cơ quan giám sát và của toàn dân. Thực hiện đồng bộ các giải pháp trên sẽ góp phần xây dựng chính quyền cơ sở vững mạnh, liêm chính, phục vụ Nhân dân ngày càng tốt hơn trong thời kỳ mới.
Chú thích:
1. C.Mác và Ph. Ăngghen toàn tập. Tập 2. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 199 – 200.
2, 3. V.I. Lênin toàn tập (1978). Tập 41. NXB. Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, tr. 367; 369.
4. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 4. Lời khuyên anh em viên chức. 17/01/1946. H. NXB. Chính trị quốc gia – Sự thật, tr.181.
5. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 9. H. NXB. Chính trị quốc gia – Sự thật, tr. 145.
6. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. H. NXB Chính trị Quốc gia – Sự thật, năm 2013, tr.11.
Tài liệu tham khảo:
1. Quốc hội (2025). Nghị quyết số 202/2025/QH15 ngày 12/6/2025 của Quốc hội về việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh.
2. Toàn văn Luật số 72/2025/QH15 Tổ chức chính quyền địa phương. https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/toan-van-luat-so-72-2025-qh15-to-chuc-chinh-quyen-dia-phuong-119250618161434371.htm.
3. Toàn văn 34 Nghị quyết về sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã. https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/toan-van-34-nghi-quyet-cua-ubtvqh-ve-sap-xep-cac-don-vi-hanh-chinh-cap-xa-119250616215143373.htm.