TS. Trần Mai Vân
Trường Đại học Y Hà Nội
(Quanlynhanuoc.vn) – Phát triển kinh tế tư nhân trong bối cảnh cải cách hành chính ở Việt Nam hiện nay là một trong những động lực then chốt thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Cải cách hành chính góp phần tạo lập môi trường đầu tư thông thoáng, minh bạch, giảm thiểu thủ tục hành chính rườm rà, chi phí không chính thức và rủi ro pháp lý cho doanh nghiệp tư nhân. Sự phối hợp hiệu quả giữa cải cách thể chế và phát triển khu vực kinh tế tư nhân sẽ tạo đà cho quá trình hiện đại hóa nền kinh tế, phát huy mạnh mẽ tiềm năng nội lực đất nước.
Từ khóa: Phát triển kinh tế tư nhân, cải cách hành chính, tăng trưởng kinh tế, năng lực cạnh tranh, môi trường đầu tư, ở Việt Nam.
1. Đặt vấn đề
Trong tiến trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà nước Việt Nam xác định kinh tế tư nhân là một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân ngày càng đóng vai trò tích cực trong huy động nguồn lực xã hội, tạo việc làm, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và góp phần tăng trưởng GDP. Tuy nhiên, để khu vực này phát triển bền vững và hiệu quả, cần có một môi trường thể chế và hành chính thuận lợi, minh bạch, ổn định. Trong bối cảnh đó, cải cách hành chính, đặc biệt là cải cách thủ tục hành chính, cải thiện chất lượng dịch vụ công, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước trở thành điều kiện tiên quyết để tháo gỡ những rào cản và khơi thông các nguồn lực trong khu vực kinh tế tư nhân. Thực tế cho thấy, những cải tiến trong hành chính đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp tư nhân, song vẫn còn tồn tại không ít hạn chế, bất cập cần tiếp tục được khắc phục. Do đó, việc nghiên cứu mối quan hệ giữa phát triển kinh tế tư nhân và cải cách hành chính là yêu cầu cấp thiết hiện nay, nhằm góp phần hoàn thiện thể chế và nâng cao hiệu quả quản trị quốc gia.
2. Một số vấn đề lý luận về phát triển kinh tế tư nhân trong bối cảnh cải cách hành ở Việt Nam hiện nay
Phát triển kinh tế tư nhân trong bối cảnh cải cách hành chính ở Việt Nam là một trong những vấn đề chiến lược, phản ánh sự kết hợp giữa lý luận đổi mới nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với yêu cầu nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, từ đó tạo ra môi trường thuận lợi cho khu vực tư nhân phát triển. Về phương diện lý luận, sự phát triển kinh tế tư nhân không chỉ là kết quả của các điều kiện kinh tế – xã hội khách quan mà còn là sản phẩm của nhận thức chính trị và thể chế quản trị nhà nước. Trong bối cảnh cải cách hành chính, lý luận phát triển kinh tế tư nhân cần được đặt trong mối quan hệ biện chứng giữa nhà nước và thị trường, giữa đổi mới tổ chức bộ máy hành chính với tạo lập môi trường đầu tư kinh doanh minh bạch, thuận lợi cho mọi thành phần kinh tế, đặc biệt là khu vực kinh tế tư nhân.
Trước hết, xét từ góc độ chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, phát triển kinh tế tư nhân trong nền kinh tế nhiều thành phần là điều tất yếu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa Mác – Lênin, cho rằng, trong thời kỳ quá độ, do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất còn hạn chế, sự tồn tại nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế là khách quan. Mục tiêu của chủ nghĩa cộng sản không phải là xóa bỏ mọi hình thức sở hữu, mà là xóa bỏ chế độ sở hữu tư sản – hình thức chiếm đoạt mang tính bóc lột lao động. Chủ nghĩa cộng sản hướng đến xóa bỏ quyền chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa đối với tư liệu sản xuất, thay bằng sở hữu toàn dân hoặc tập thể, nhằm đảm bảo công bằng, bình đẳng, và chấm dứt bất công giai cấp trong phân phối của cải xã hội.
Trong tác phẩm “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản”, C. Mác cho rằng: “…đặc trưng của chủ nghĩa cộng sản không phải là xóa bỏ chế độ sở hữu nói chung, mà là xóa bỏ chế độ sở hữu tư sản…”1. Do đó, khu vực kinh tế tư nhân cần được thừa nhận là một bộ phận hợp pháp và quan trọng của nền kinh tế. “Chủ nghĩa cộng sản không tước bỏ của ai cái khả năng chiếm hữu những sản phẩm xã hội cả. Chủ nghĩa cộng sản chỉ tước bỏ quyền dùng sự chiếm hữu ấy để nô dịch lao động của người khác”2. Một hình thái kinh tế – xã hội chỉ diệt vong khi nó trở nên lỗi thời, kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển. Đồng thời, quan hệ sản xuất mới chỉ xuất hiện khi điều kiện vật chất của nó đã chín muồi trong lòng xã hội cũ, phản ánh tính kế thừa và cách mạng trong tiến trình phát triển xã hội. Do vậy, “không một hình thái xã hội nào diệt vong trước khi tất cả những lực lượng sản xuất mà hình thái xã hội đó tạo địa bàn đầy đủ cho phát triển, vẫn chưa phát triển, và những quan hệ sản xuất mới, cao hơn, cũng không bao giờ xuất hiện trước khi những điều kiện tồn tại vật chất của những quan hệ đó chưa chín muồi trong lòng bản thân xã hội cũ”3.
V.I. Lênin từng khẳng định, để hoàn thành chủ nghĩa xã hội “cần phải có một thời kỳ quá độ khá lâu dài từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội”4; cần vận dụng chính sách kinh tế nhiều hình thức, khuyến khích các yếu tố tư nhân tham gia vào sản xuất, lưu thông nhằm phục vụ cho công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế. Theo Lênin: “chúng ta phải hiểu những đường lối, thể thức, thủ đoạn và phương sách trung gian cần thiết để chuyển từ những quan hệ tiền tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội. Đó là mấu chốt của vấn đề”5.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng khẳng định vai trò của “các nhà công thương” trong phát triển đất nước sau Cách mạng Tháng Tám và trong thời kỳ hòa bình lập lại. Quan điểm này được Đảng Cộng sản Việt Nam kế thừa và phát triển, nhất là từ Đại hội VI (1986) đến nay, khi chính thức xác lập vai trò của kinh tế tư nhân như một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời, “coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ”6.
Về mặt lý luận hiện đại, nhiều học thuyết kinh tế thị trường đều đề cao vai trò của khu vực tư nhân trong việc tạo ra giá trị gia tăng, đổi mới sáng tạo và thu hút nguồn lực xã hội. Các lý thuyết về tăng trưởng nội sinh nhấn mạnh vai trò của doanh nghiệp tư nhân trong việc thúc đẩy đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất và chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Theo lý thuyết “thể chế kinh tế”, sự phát triển của khu vực tư nhân phụ thuộc vào chất lượng thể chế đặc biệt là hệ thống pháp luật, thủ tục hành chính, khả năng tiếp cận nguồn lực và bảo vệ quyền tài sản. Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng cho rằng: “Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố và phát triển; kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế – xã hộ”7. Do đó, cải cách hành chính đóng vai trò then chốt trong việc thiết lập môi trường thể chế thuận lợi, thúc đẩy niềm tin và khuyến khích các chủ thể tư nhân mở rộng đầu tư, đổi mới và cạnh tranh.
Cải cách hành chính là điều kiện quan trọng hàng đầu để giải phóng năng lực cho khu vực kinh tế tư nhân. Trên thực tế, quá trình phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam trong thời gian qua cho thấy, mối quan hệ chặt chẽ giữa tiến trình cải cách hành chính với sự gia tăng số lượng, quy mô và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp tư nhân. Cải cách hành chính được hiểu là quá trình đổi mới phương thức tổ chức và hoạt động của hệ thống hành chính nhà nước nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả phục vụ nhân dân và doanh nghiệp. Bốn nội dung cơ bản của cải cách hành chính hiện nay là: cải cách thể chế, cải cách thủ tục hành chính, cải cách tổ chức bộ máy và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức. Mỗi nội dung cải cách này đều có tác động trực tiếp và gián tiếp đến khu vực tư nhân. Cải cách thể chế sẽ tạo ra khung pháp lý rõ ràng, minh bạch, đồng bộ; cải cách thủ tục hành chính giúp giảm chi phí, thời gian, rủi ro cho doanh nghiệp; cải cách bộ máy làm tăng hiệu quả phối hợp và giảm tình trạng chồng chéo, trùng lặp trong quản lý; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ giúp tăng tính chuyên nghiệp, thái độ phục vụ và sự hỗ trợ doanh nghiệp trong quá trình hoạt động.
Về phương diện lý luận quản trị nhà nước, cải cách hành chính góp phần chuyển đổi vai trò của nhà nước từ “chủ thể kiểm soát” sang “người kiến tạo và phục vụ”. Theo đó, nhà nước không can thiệp trực tiếp vào hoạt động kinh doanh, mà tập trung xây dựng môi trường pháp lý và hành chính thuận lợi, bảo đảm quyền tự do kinh doanh và cạnh tranh lành mạnh. Vai trò của chính quyền trong nền kinh tế chuyển từ “quản lý doanh nghiệp” sang “hỗ trợ doanh nghiệp phát triển”. Quan điểm này hoàn toàn phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế tư nhân – khu vực có khả năng tự chủ cao, nhạy bén với thị trường và đóng vai trò tạo việc làm, thu nhập cho người lao động. Đồng thời, lý luận về quản trị công hiện đại cũng khẳng định rằng nhà nước chỉ nên đóng vai trò điều tiết, giám sát và bảo vệ công lý, trong khi các hoạt động kinh tế cụ thể nên để thị trường quyết định. Việc hiện thực hóa quan điểm đó đòi hỏi quá trình cải cách hành chính phải gắn với tăng cường tính minh bạch, trách nhiệm giải trình, giảm bớt cơ chế xin – cho, loại bỏ các rào cản thủ tục và chi phí không chính thức đang cản trở doanh nghiệp tư nhân.
Lý luận phát triển kinh tế tư nhân trong bối cảnh cải cách hành chính ở Việt Nam là một hệ thống các quan điểm mang tính biện chứng, toàn diện và thống nhất giữa thể chế, hành chính, thị trường. Kinh tế tư nhân không thể phát triển trong môi trường hành chính quan liêu, kém hiệu quả; ngược lại, cải cách hành chính cũng chỉ có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc khi thúc đẩy được sự phát triển của doanh nghiệp và nền kinh tế. Trong điều kiện Việt Nam đang xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, việc phát triển lý luận và thực tiễn về kinh tế tư nhân trong mối quan hệ với cải cách hành chính là yêu cầu cấp thiết, có ý nghĩa chiến lược lâu dài. Chỉ khi xây dựng được một nền hành chính hiện đại, dân chủ, phục vụ và thân thiện, thì mới có thể khơi dậy và phát huy tối đa tiềm năng, động lực của khu vực tư nhân – động lực quan trọng của nền kinh tế quốc dân.
3. Thực trạng, nguyên nhân ảnh hưởng đến phát triển kinh tế tư nhân trong bối cảnh cải cách hành chính ở Việt Nam hiện nay
3.1. Thực trạng phát triển kinh tế tư nhân trong bối cảnh cải cách hành chính hiện nay
Kinh tế tư nhân là một bộ phận quan trọng, góp phần tích cực vào tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm, huy động nguồn lực xã hội và thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Trong điều kiện Việt Nam đang đẩy mạnh xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện cải cách hành chính sâu rộng, việc đánh giá thực trạng phát triển kinh tế tư nhân là yêu cầu thiết yếu để nhận diện những kết quả đạt được, những hạn chế tồn tại và các yếu tố tác động từ quá trình cải cách hành chính. Đây là cơ sở thực tiễn để xây dựng chính sách phù hợp, bảo đảm cho khu vực kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ, bền vững và đúng định hướng của Đảng và Nhà nước.
Trong những năm gần đây, Trung ương đã ban hành nhiều nghị quyết và chương trình hành động nhằm thúc đẩy khu vực tư nhân. Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 03/6/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) đã xác định phát triển kinh tế tư nhân là “một động lực quan trọng” của nền kinh tế. Nghị quyết 02/NQ-CP, ngày 08/01/2025 của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia đã tập trung vào cắt giảm điều kiện kinh doanh, đơn giản hóa thủ tục hành chính, thúc đẩy chuyển đổi số trong cung cấp dịch vụ công.
Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân. Chính phủ cũng đang triển khai Chiến lược phát triển doanh nghiệp tư nhân giai đoạn 2021- 2030 nhằm khuyến khích khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, nâng cao năng lực quản trị và hỗ trợ tiếp cận tài chính, công nghệ, thị trường trong nước và quốc tế.
Trong thời gian qua, kinh tế tư nhân ở Việt Nam đã có sự phát triển vượt bậc về cả số lượng, quy mô và đóng góp vào nền kinh tế quốc dân. “Khu vực kinh tế tư nhân hiện có khoảng hơn 940 nghìn doanh nghiệp và hơn 5 triệu hộ kinh doanh đang hoạt động, đóng góp khoảng 50% GDP, hơn 30% tổng thu ngân sách nhà nước và sử dụng khoảng 82% tổng số lao động vào tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm, là lực lượng quan trọng thúc đẩy đổi mới sáng tạo, nâng cao năng suất lao động, gia tăng năng lực cạnh tranh quốc gia, góp phần xoá đói, giảm nghèo, ổn định đời sống xã hội”8. Một số tập đoàn tư nhân lớn, như Vingroup, Sun Group, FPT, Thaco… đã từng bước khẳng định vị thế trong các lĩnh vực then chốt, như bất động sản, du lịch, công nghệ thông tin, công nghiệp ô tô, logistics… cho thấy tiềm năng phát triển rất lớn của khu vực này trong dài hạn. Bên cạnh đó, kinh tế tư nhân cũng đóng vai trò quan trọng trong việc thu hút đầu tư, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy xuất khẩu và cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Nhiều doanh nghiệp tư nhân không chỉ phát triển trong nước mà còn mở rộng thị trường ra quốc tế, góp phần xây dựng thương hiệu quốc gia. Sự năng động, linh hoạt, nhạy bén với thị trường của khu vực tư nhân đã và đang trở thành động lực thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và chuyển đổi số quốc gia.
Tuy nhiên, sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân vẫn còn gặp nhiều rào cản, hạn chế cả về nội lực doanh nghiệp lẫn môi trường thể chế, hành chính. Trên thực tế, đa số doanh nghiệp tư nhân của Việt Nam có quy mô nhỏ và vừa, thậm chí siêu nhỏ, năng lực cạnh tranh còn yếu, công nghệ lạc hậu, trình độ quản trị hạn chế và ít có khả năng tiếp cận các nguồn vốn dài hạn. Số lượng doanh nghiệp lớn đủ khả năng tham gia chuỗi giá trị toàn cầu còn rất ít. Trong khi đó, tỷ lệ doanh nghiệp ngừng hoạt động, giải thể, rút lui khỏi thị trường hàng năm vẫn ở mức cao, cho thấy sức chống chịu của doanh nghiệp tư nhân trong nước còn mong manh. Dù đã có nhiều nỗ lực cải cách hành chính, song môi trường đầu tư, kinh doanh ở Việt Nam vẫn còn phức tạp, thiếu minh bạch, nhiều thủ tục rườm rà, chồng chéo, gây tốn kém thời gian và chi phí cho doanh nghiệp. Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới (World Bank), chỉ số thuận lợi kinh doanh của Việt Nam tuy có cải thiện nhưng vẫn ở mức trung bình, còn thấp hơn so với nhiều nước trong khu vực ASEAN. Các lĩnh vực như đăng ký kinh doanh, cấp phép xây dựng, tiếp cận điện năng, thuế, hải quan… vẫn còn là rào cản đối với doanh nghiệp tư nhân.
Thủ tục hành chính còn phức tạp, chồng chéo, gây khó khăn cho doanh nghiệp. Nhiều quy định pháp luật thay đổi liên tục, không thống nhất giữa các địa phương, khiến doanh nghiệp gặp rủi ro pháp lý. Việc thực hiện các thủ tục hành chính điện tử còn hình thức, chưa thay thế được hoàn toàn phương thức truyền thống. Hệ thống cơ sở dữ liệu chưa được kết nối, dẫn đến tình trạng doanh nghiệp phải khai báo lặp lại nhiều lần. Cơ chế “xin – cho” vẫn tồn tại trong một số lĩnh vực như đất đai, đầu tư, xây dựng, cấp phép kinh doanh… Tình trạng cán bộ nhũng nhiễu, gây phiền hà cho doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, vẫn là vấn đề gây bức xúc, làm giảm niềm tin của doanh nghiệp vào bộ máy hành chính nhà nước.Việc thực hiện các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân còn nhiều bất cập, thiếu đồng bộ và hiệu quả thấp. Mặc dù có nhiều chương trình như hỗ trợ đổi mới công nghệ, hỗ trợ khởi nghiệp, hỗ trợ tiếp cận vốn, đất đai… nhưng quá trình triển khai còn chậm, thủ tục phức tạp, ít doanh nghiệp được hưởng lợi thực sự. Bên cạnh đó, vẫn còn tình trạng phân biệt đối xử, ưu tiên các doanh nghiệp nhà nước hoặc doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, trong khi doanh nghiệp tư nhân trong nước chưa được tạo điều kiện công bằng để cạnh tranh và phát triển.
3.2. Nguyên nhân ảnh hưởng đến phát triển kinh tế tư nhân trong bối cảnh cải cách hành chính ở Việt Nam hiện nay
Phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam trong bối cảnh cải cách hành chính vẫn còn gặp nhiều trở ngại. Những nguyên nhân ảnh hưởng đến quá trình này không chỉ đến từ phía doanh nghiệp, mà còn bắt nguồn từ các yếu tố thể chế, hành chính, tổ chức và con người.
Thứ nhất, nguyên nhân thể chế, pháp lý vẫn là rào cản lớn đối với sự phát triển của kinh tế tư nhân. Hệ thống pháp luật liên quan đến kinh doanh, đầu tư, đất đai, xây dựng, thuế, tài chính tuy đã được sửa đổi nhiều lần, song vẫn còn nhiều bất cập, chồng chéo, mâu thuẫn và chưa đồng bộ giữa các văn bản luật, giữa luật và dưới luật, giữa các ngành và địa phương. Điều này gây khó khăn trong việc áp dụng, làm phát sinh rủi ro pháp lý cho doanh nghiệp tư nhân trong quá trình thực hiện hoạt động sản xuất, kinh doanh. Ngoài ra, việc ban hành các quy định mới còn thiếu đánh giá tác động kỹ lưỡng đến khu vực tư nhân, trong khi quá trình thực thi lại bị phụ thuộc vào nhận thức và năng lực của cán bộ, công chức hành chính ở từng địa phương. Sự thiếu nhất quán giữa Trung ương và địa phương trong triển khai chính sách cũng làm suy giảm niềm tin và hạn chế động lực đầu tư dài hạn của doanh nghiệp tư nhân.
Thứ hai, cải cách hành chính chưa đồng bộ, thiếu thực chất, là nguyên nhân then chốt ảnh hưởng đến môi trường đầu tư, kinh doanh và sự phát triển của doanh nghiệp tư nhân. Dù đã có nhiều nỗ lực cải cách hành chính từ Trung ương đến địa phương, như đơn giản hóa thủ tục, cắt giảm điều kiện kinh doanh, triển khai chính phủ điện tử…, nhưng trên thực tế, nhiều thủ tục vẫn rườm rà, bất hợp lý, thời gian xử lý kéo dài. Một số quy trình được số hóa nhưng không triệt để, doanh nghiệp vẫn phải vừa nộp hồ sơ điện tử, vừa bổ sung bản giấy, làm tăng chi phí tuân thủ.
Thứ ba, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính còn nhiều hạn chế, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu lực, hiệu quả phục vụ doanh nghiệp. Một bộ phận cán bộ, công chức vẫn còn mang tư duy “quản lý xin – cho”, thiếu tinh thần hỗ trợ, phục vụ doanh nghiệp, còn biểu hiện tiêu cực, nhũng nhiễu trong xử lý hồ sơ, giải quyết thủ tục. Việc xử lý công việc còn nặng tính hình thức, máy móc, thiếu linh hoạt và chưa dựa trên nền tảng quản trị hiện đại. Trong nhiều trường hợp, chính thái độ, năng lực và đạo đức của cán bộ công quyền đã làm giảm sút lòng tin của doanh nghiệp tư nhân vào môi trường hành chính, dẫn đến tâm lý e ngại phát triển lớn, né tránh tiếp cận chính sách hỗ trợ hoặc thậm chí rút lui khỏi thị trường.
Thứ tư, khả năng tiếp cận các nguồn lực phát triển của doanh nghiệp tư nhân còn hạn chế. Một trong những nguyên nhân sâu xa là cơ chế phân bổ nguồn lực (đất đai, tín dụng, công nghệ…) còn thiên lệch, thiếu công bằng, chưa tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tư nhân cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp nhà nước hoặc doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Trong lĩnh vực đất đai, thủ tục giao đất, cho thuê đất, chuyển đổi mục đích sử dụng đất còn nhiều tầng nấc trung gian, khó tiếp cận và tiềm ẩn tiêu cực. Trong lĩnh vực tín dụng, doanh nghiệp nhỏ và vừa thường khó tiếp cận vốn ngân hàng do thiếu tài sản đảm bảo, thiếu minh bạch tài chính và chưa có uy tín tín dụng cao.
Thứ năm, nội lực của khu vực kinh tế tư nhân còn yếu, cũng là một nguyên nhân ảnh hưởng đến hiệu quả và sức bật phát triển. Phần lớn các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam là doanh nghiệp nhỏ, vừa và siêu nhỏ, vốn mỏng, trình độ công nghệ thấp, năng lực quản trị yếu, thiếu lao động chất lượng cao và chưa có chiến lược dài hạn. Sự hạn chế về quy mô, công nghệ và nhân lực khiến họ khó mở rộng thị trường, tham gia chuỗi giá trị hoặc ứng phó với các cú sốc kinh tế – tài chính. Bên cạnh đó, tính liên kết giữa các doanh nghiệp tư nhân còn lỏng lẻo, thiếu hợp tác theo cụm ngành, thiếu liên kết với doanh nghiệp FDI hoặc doanh nghiệp nhà nước, dẫn đến khó khăn trong việc tận dụng nguồn lực và chia sẻ cơ hội phát triển.
Thứ sáu, tâm lý e ngại, thiếu niềm tin vào bộ máy công quyền là yếu tố tâm lý nhưng tác động lớn đến quyết định phát triển của khu vực tư nhân. Nhiều doanh nghiệp ngại lớn mạnh vì lo ngại bị thanh tra, kiểm tra liên tục; ngại tiếp cận các chương trình hỗ trợ vì thủ tục rườm rà, dễ rơi vào “bẫy pháp lý”; hoặc e dè trong việc đổi mới, đầu tư công nghệ do thiếu chính sách bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Tình trạng “kinh doanh chui”, “né thuế”, “lách luật” một phần bắt nguồn từ tâm lý bất an trước môi trường pháp lý chưa minh bạch và hành chính còn phiền hà.
Thứ bảy, sự thiếu nhất quán trong tổ chức thực hiện cải cách hành chính ở các cấp chính quyền cũng là nguyên nhân quan trọng. Trong khi Trung ương đã có nhiều chỉ đạo quyết liệt, ban hành nhiều nghị quyết, chương trình hành động nhằm cải thiện môi trường kinh doanh, nhưng quá trình thực thi ở nhiều bộ, ngành, địa phương còn chậm, thiếu đồng bộ và thiếu trách nhiệm giải trình. Nhiều nơi chưa thực sự coi cải cách hành chính là nhiệm vụ thường xuyên, còn mang tính phong trào, hình thức, chủ yếu phục vụ báo cáo hơn là tạo ra thay đổi thực chất.
4. Một số giải pháp nâng cao phát triển kinh tế tư nhân trong bối cảnh cải cách hành chính ở Việt Nam hiện nay
Một là, hoàn thiện thể chế và chính sách pháp luật về kinh tế tư nhân là giải pháp nền tảng. Nhà nước cần tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung các luật liên quan đến đầu tư, kinh doanh, thuế, đất đai, tài chính… bảo đảm tính nhất quán, đồng bộ, dễ hiểu và dễ thực hiện. Việc ban hành chính sách mới cần gắn với đánh giá tác động thực tiễn, nhất là đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa – nhóm chủ thể chiếm đa số trong khu vực tư nhân. Đồng thời, cần tăng cường sự tham gia của cộng đồng doanh nghiệp trong quá trình xây dựng chính sách để bảo đảm tiếng nói thực tế được lắng nghe, phản ánh đúng nhu cầu và nguyện vọng.
Hai là, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính gắn với chuyển đổi số trong quản lý nhà nước là giải pháp then chốt. Chính phủ và chính quyền các cấp cần tiếp tục đơn giản hóa thủ tục hành chính, cắt giảm điều kiện kinh doanh không cần thiết, chuẩn hóa quy trình xử lý hồ sơ theo hướng công khai, minh bạch, dễ tiếp cận. Việc xây dựng và vận hành hiệu quả Chính phủ điện tử, Cổng dịch vụ công quốc gia, nền tảng dữ liệu dùng chung giữa các bộ, ngành, địa phương sẽ giúp giảm tiếp xúc trực tiếp giữa cán bộ và doanh nghiệp, từ đó giảm thiểu tiêu cực, tăng tốc độ xử lý và giảm chi phí giao dịch cho khu vực tư nhân. Cần hướng tới mô hình “một cửa liên thông điện tử”, áp dụng chữ ký số, hóa đơn điện tử, thanh toán trực tuyến trong toàn bộ quy trình hành chính công liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh
Ba là, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, nhất là đội ngũ trực tiếp xử lý thủ tục cho doanh nghiệp. Đội ngũ công chức không chỉ cần có trình độ chuyên môn, mà còn phải có phẩm chất đạo đức công vụ, tinh thần trách nhiệm và tư duy phục vụ. Cần đổi mới cách tuyển dụng, đánh giá, sử dụng và đãi ngộ công chức theo hướng cạnh tranh, minh bạch và gắn với kết quả đầu ra cụ thể. Việc đánh giá cán bộ cần dựa trên mức độ hài lòng của doanh nghiệp và người dân, tránh tình trạng hình thức, cào bằng. Đồng thời, cần xây dựng cơ chế giám sát, xử lý nghiêm minh các hành vi nhũng nhiễu, gây phiền hà, tiêu cực trong quá trình giải quyết công việc liên quan đến doanh nghiệp.
Bốn là, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tư nhân tiếp cận các nguồn lực phát triển, nhất là đất đai, vốn, công nghệ và nhân lực chất lượng cao. Cần cải cách mạnh mẽ thủ tục tiếp cận đất đai, giao đất, cho thuê đất, bảo đảm công khai, minh bạch và bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp. Trong lĩnh vực tín dụng, cần mở rộng các kênh tài chính đa dạng như quỹ bảo lãnh tín dụng, tín dụng vi mô, phát triển thị trường vốn, thị trường trái phiếu doanh nghiệp để doanh nghiệp tư nhân có thêm lựa chọn thay vì phụ thuộc quá nhiều vào ngân hàng. Đồng thời, cần tăng cường hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới công nghệ, chuyển giao kỹ thuật, ứng dụng số, tự động hóa và xây dựng thương hiệu.
Năm là, khuyến khích và thúc đẩy liên kết trong khu vực tư nhân và giữa các thành phần kinh tế. Một trong những điểm yếu của khu vực kinh tế tư nhân hiện nay là thiếu sự liên kết giữa các doanh nghiệp, dẫn đến khó khăn trong việc hình thành chuỗi giá trị, phát triển thị trường và nâng cao sức cạnh tranh. Nhà nước cần có chính sách khuyến khích doanh nghiệp tư nhân tham gia các hiệp hội, cụm liên kết ngành, vùng sản xuất – kinh doanh tập trung để tăng cường chia sẻ thông tin, hợp tác, đổi mới sáng tạo. Đồng thời, cần thúc đẩy mối liên kết giữa doanh nghiệp tư nhân với doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp FDI, cơ sở nghiên cứu và các tổ chức hỗ trợ phát triển nhằm tận dụng thế mạnh của từng thành phần, hình thành hệ sinh thái kinh doanh năng động, đổi mới và bền vững.
Sáu là, tăng cường đối thoại, phản hồi và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của doanh nghiệp tư nhân. Các cơ quan hành chính cần tổ chức định kỳ các buổi đối thoại với doanh nghiệp để lắng nghe, giải đáp kịp thời những vướng mắc, bất cập trong quá trình thực hiện chính sách. Đồng thời, cần xây dựng cơ chế tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị của doanh nghiệp một cách minh bạch, hiệu quả, có chế tài cụ thể với những cán bộ, cơ quan gây khó khăn, cản trở doanh nghiệp. Việc bảo vệ quyền tài sản, quyền tự do kinh doanh, quyền sở hữu trí tuệ của doanh nghiệp tư nhân cần được đặt lên hàng đầu, như một bảo đảm về môi trường pháp lý an toàn và hấp dẫn.
Bảy là, nâng cao vai trò giám sát của xã hội và truyền thông trong cải cách hành chính gắn với phát triển kinh tế tư nhân. Báo chí, các tổ chức xã hội, hiệp hội doanh nghiệp cần tích cực tham gia vào quá trình giám sát việc thực hiện cải cách hành chính, phát hiện những điểm nghẽn, tiêu cực và đề xuất giải pháp cải thiện. Việc công khai thông tin về thủ tục, thời gian giải quyết hồ sơ, chi phí hành chính, mức độ hài lòng của doanh nghiệp sẽ góp phần tạo áp lực tích cực buộc bộ máy hành chính phải đổi mới, minh bạch và chuyên nghiệp hơn.
5. Kết luận
Trong bối cảnh cải cách hành chính đang là xu hướng không thể đảo ngược, phát triển kinh tế tư nhân cần được xem là một mục tiêu đồng hành, tương hỗ. Việc đưa ra và thực hiện đồng bộ các giải pháp về thể chế, hành chính, nguồn lực, công nghệ và con người sẽ tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi, khơi dậy động lực nội tại và tạo điều kiện cho khu vực tư nhân phát triển mạnh mẽ, hiệu quả và bền vững trong những năm tới.
Chú thích:
1, 2. C.Mác và Ph.Ăng-ghen toàn tập (1995). Tập 4. H. NXB. Chính trị quốc gia, tr. 615, 618.
3. C.Mác và Ph.Ăng-ghen toàn tập (1995). Tập 13. H. NXB. Chính trị quốc gia, tr. 15 – 16.
4. V.I.Lênin Toàn tập (2005). Tập 38. H. NXB. Chính trị quốc gia – Sự thật, tr. 2464.
5. V.I.Lênin Toàn tập (2005). Tập 43. H. NXB. Chính trị quốc gia – Sự thật, tr. 274.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI. H. NXB. Sự thật, tr. 56.
7. Nguyễn Phú Trọng (2022). Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 26.
8. Ban Chấp hành Trung ương (2025). Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân.