Thượng tướng, TS. Lê Huy Vịnh
Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Quân ủy Trung ương,
Thứ trưởng Bộ Quốc phòng
(Quanlynhanuoc.vn) – Với 80 năm phát huy những giá trị lịch sử của Quốc dân Đại hội Tân Trào (16/8/1945 – 16/8/2025) – một sự kiện đặc biệt quan trọng mang tầm vóc thời đại, là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam về tinh thần đoàn kết, ý chí quật cường trong công cuộc giành độc lập; đồng thời là tiền thân của Quốc hội Việt Nam về xây dựng chính quyền liêm chính, kiến tạo phục vụ Nhân dân. Đảng, Nhà nước và cấp ủy, chính quyền các cấp luôn nỗ lực học tập, phấn đấu, vận dụng và phát huy những bài học quý giá, khơi dậy sức mạnh toàn dân, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Từ khóa: Quốc dân Đại hội Tân Trào; Quốc hội Việt Nam; xây dựng chính quyền liêm chính, kiến tạo, phục vụ Nhân dân.
1. Đặt vấn đề
Tám mươi năm đã trôi qua, mặc dù đất nước lúc đó đang trong hoàn cảnh thù trong giặc ngoài, “ngàn cân treo sợi tóc” nhưng dưới sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng Lao động Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam), đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chủ tịch kính yêu, Nhân dân cả nước đã tiến hành thắng lợi Đại hội đại biểu Quốc dân Tân Trào. Đây là Đại hội mang tầm vóc, ý nghĩa và giá trị lịch sử là tiền thân của Quốc hội Việt Nam – cơ quan quyền lực cao nhất Nhà nước lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam).
2. Giá trị lịch sử của Quốc dân Đại hội Tân Trào – tiền thân của Quốc hội Việt Nam
Chiều ngày 16/8/1945, tại đình Tân Trào (huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang), Chủ tịch Hồ Chí Minh và Tổng bộ Việt Minh đã khai mạc Đại hội đại biểu Quốc dân (gọi là Quốc dân Đại hội Tân Trào) để quyết định phát động lệnh Tổng khởi nghĩa và Quốc dân Đại hội cũng đã được tiến hành trong bối cảnh đó. Tham dự Đại hội, có hơn 60 đại biểu đại diện cho cả 3 miền Bắc – Trung – Nam, đại diện cho các ngành, các giới, các dân tộc, các đảng phái chính trị, các đoàn thể cứu quốc và một số kiều bào Việt Namở nước ngoài (Thái Lan và Lào). Đại hội tiến hành trong khi lệnh Tổng khởi nghĩa vừa phát đi, do đó, phải họp khẩn trương, nhanh chóng để các đại biểu có thể về cùng các chiến sĩ ở địa phương, lãnh đạo khởi nghĩa. Tại Đại hội, Tổng Bí thư Trường Chinh đã đọc Báo cáo chính trị nhấn mạnh hai vấn đề lớn, đó là: (1) Tổng khởi nghĩa giành chính quyền; (2) Bầu Ủy ban Dân tộc giải phóng Việt Nam (tức Chính phủ cách mạng lâm thời). Đảng Cộng sản Đông Dương chủ trương lãnh đạo quần chúng nổi dậy tước vũ khí của phát xít Nhật, giành lấy chính quyền.
Đại hội đã tán thành chủ trương của Đảng (được thông qua tại Hội nghị toàn quốc của Đảng từ ngày 14/8 – 15/8/1945) lãnh đạo quần chúng nhân dân nổi dậy giành chính quyền từ tay phát xít Nhật, lật đổ chính quyền bù nhìn tay sai thân Nhật, chủ động đón tiếp quân Đồng minh vào giải giáp quân Nhật với vị thế, tư cách là lực lượng cầm quyền, làm chủ đất nước. Đại hội Đảng đã quyết định: “10 chính sách của Việt Minh, bao gồm: 1. Giành lấy chính quyền, xây dựng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trên nền tảng hoàn toàn độc lập. 2. Võ trang nhân dân. Phát triển quân giải phóng Việt Nam. 3. Tịch thu tài sản của giặc nước và Việt gian, tùy trường hợp sung công làm của quốc gia hay chia cho dân nghèo. 4. Bỏ các thứ thuế do Pháp, Nhật đặt ra; đặt một thứ thuế công bằng và nhẹ. 5. Ban bố những quyền của dân, cho dân: Nhân quyền; Tài quyền (quyền sở hữu); Dân quyền: Quyền phổ thông đầu phiếu, quyền tự do dân chủ (tự do tín ngưỡng, tự do tư tưởng, ngôn luận, hội họp, đi lại), dân tộc bình quyền, nam nữ bình quyền. 6. Chia lại ruộng công cho công bằng, giảm địa tô, giảm lợi tức, hoãn nợ, cứu tế nạn dân. 7. Ban bố Luật lao động; ngày làm 8 giờ, định lương tối thiểu, đặt xã hội bảo hiểm. 8. Xây dựng nền kinh tế quốc dân, phát triển nông nghiệp. Mở mang quốc gia ngân hàng. 9. Xây dựng nền quốc dân giáo dục; chống nạn mù chữ, phổ thông và cưỡng bách giáo dục đến bậc sơ cấp. Kiến thiết nền văn hóa mới. 10. Thân thiện và giao hảo với các nước Đồng minh và các nước nhược tiểu dân tộc để giành lấy sự đồng tình ủng hộ của họ”1.
Quốc dân Đại hội Tân Trào xác định 10 chính sách lớn của Việt Minh được ghi trong Nghị quyết của Đại hội ngày 16/8 – 17/8/1945 có giá trị như một bản Hiến pháp tạm thời để Mặt trận dân tộc Giải phóng (Chính phủ lâm thời) sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, giành được chính quyền thì căn cứ vào đó mà thực hiện.
Đại hội đại biểu Quốc dân Tân Trào có ba quyết định lớn: (1) Nhất trí tán thành chủ trương phát động Tổng khởi nghĩa của Đảng và của Tổng bộ Việt Minh. (2) Thông qua 10 chính sách của Việt Minh và hiệu triệu đồng bào tích cực phấn đấu thực hiện, trong đó, điểm mấu chốt đầu tiên là giành lấy chính quyền, xây dựng một nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa trên nền tảng hoàn toàn độc lập. (3) Thành lập Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch, Trần Huy Liệu làm Phó chủ tịch. Thường trực Ủy ban gồm 5 người: Hồ Chí Minh, Trần Huy Liệu, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Lương Bằng và Dương Đức Hiền.
Đồng thời, Đại hội quy định Quốc kỳ là lá cờ đỏ có ngôi sao vàng 5 cánh ở giữa, Quốc ca là bài “Tiến quân ca”. Ngày 17/8/1945, Đại hội bế mạc trong không khí tổng khởi nghĩa sôi sục. Ngay sau Đại hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư kêu gọi đồng bào chiến sĩ cả nước, các đoàn thể cứu quốc nổi dậy giành chính quyền, gia nhập Việt Minh, làm cho Việt Minh lớn mạnh và chính sách của Việt Minh được thực hiện khắp cả nước. Thay mặt Ủy ban dân tộc Giải phóng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc lời tuyên thệ: “Chúng tôi là những người được Quốc dân đại biểu bầu vào Ủy ban dân tộc Giải phóng Việt Nam để lãnh đạo cuộc cách mạng của Nhân dân. Trước lá cờ thiêng liêng của Tổ quốc, chúng tôi nguyện kiên quyết lãnh đạo nhân dân tiến lên, ra sức chiến đấu chống quân thù, giành lại độc lập cho Tổ quốc. Dù phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, không lùi bước”.
Điều này đã minh chứng rõ: Quốc dân Đại hội Tân Trào là một tiến bộ lớn trong lịch sử đấu tranh giải phóng của dân tộc ta, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng đánh giá: Đây là một Đại hội mang tầm vóc, ý nghĩa lịch sử là tiền thân của Quốc hội Việt Nam – cơ quan quyền lực nhà nước lâm thời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Ủy ban dân tộc Giải phóng (tức Chính phủ cách mạng lâm thời) của nước Việt Nam mới được Quốc dân Đại hội bầu ra ngày 16/8/1945 là người đại diện chân chính, hợp pháp duy nhất của nhân dân Việt Nam để thực hiện những quyết sách lớn của công cuộc cứu nước và kiến quốc. Đây là thắng lợi lớn của nghệ thuật chớp đúng thời cơ của Tổng bộ Việt Minh, của Chủ tịch Hồ Chí Minh; là sự sáng tạo độc đáo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc vận dụng và thực thi từng bước tư tưởng dân chủ, dân quyền ngay trong tiến trình đấu tranh giành quyền độc lập bằng hình thức tổ chức Quốc dân Đại hội để thông qua quyết sách chuyển xoay vận nước bằng Tổng khởi nghĩa, xóa bỏ chế độ nô dịch thực dân, thi hành chính sách 10 điểm của Việt Minh, đặt cơ sở pháp lý đầu tiên cho một chế độ mới, một nhà nước mới.
3. Bài học xây dựng chính quyền liêm chính, kiến tạo, phục vụ Nhân dân.
Xây dựng chính quyền liêm chính, kiến tạo, phục vụ Nhân dân là một trong những bài học quý báu, có giá trị lịch sử, thực tiễn sâu sắc của Cách mạng Tháng Tám. Bài học đó đã và đang được vận dụng, phát huy trong khơi dậy, quy tụ sức sáng tạo và mọi nguồn lực trong nhân dân, dựa vào sức mạnh của Nhân dân để nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền các cấp, bảo đảm yêu cầu phát triển nhanh, bền vững đất nước.
Để xây dựng Chính quyền liêm chính, kiến tạo, phục vụ Nhân dân; ngay từ những ngày đầu thành lập nước, trong hoàn cảnh vô vàn khó khăn, thử thách của cách mạng Việt Nam nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành sự quan tâm đặc biệt cho việc xây dựng một chính quyền liêm chính, kiến tạo. Trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời ngày 03/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã yêu cầu thực hiện: Cần, kiệm, liêm, chính”2. Người xác định đây là một trong sáu vấn đề khẩn cấp, là bài học mà Chính phủ lâm thời phải giải quyết ngay sau khi giành được độc lập và chính quyền về tay Nhân dân.
Tại kỳ họp thứ hai, Quốc hội (khóa I), Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Tuy trong nghị quyết không nói đến, không nêu lên hai chữ liêm khiết, tôi cũng xin tuyên bố trước Quốc hội, trước quốc dân và trước thế giới: Chính phủ sau đây phải là một Chính phủ liêm chính tức là: Chính phủ liêm khiết”3. Người yêu cầu: phải xây dựng chính quyền liêm chính, kiến tạo, phục vụ nhân dân. Người chỉ rõ, “một Chính phủ liêm khiết, kiến tạo, phải là một Chính phủ biết làm việc, có gan góc, quyết tâm đi vào mục đích trong thì kiến thiết, ngoài thì tranh thủ được độc lập và thống nhất của nước nhà”4; “một Chính phủ chú trọng thực tế và sẽ nỗ lực làm việc”5. Khi Chính phủ có năng lực làm việc thì sẽ giải quyết được nhiều nhiệm vụ của nước nhà, đem lại lợi ích cho quốc gia – dân tộc, cho Nhân dân, làm tăng thêm sức mạnh của đất nước, để đủ sức bảo vệ được chính quyền cách mạng. Ngược lại, nếu Chính phủ yếu kém về năng lực thì sẽ không làm được gì cho dân, thậm chí còn làm tổn hại đến lợi ích của Nhân dân, của quốc gia – dân tộc, khó có thể đứng vững trước khó khăn, thử thách.
Mặt khác, trong quá trình phát triển đất nước, mặt trái của cơ chế thị trường len lỏi, tác động tiêu cực làm sai lệch nhận thức cũng như cơ chế vận hành của một số khâu, bộ phận trong hệ thống chính quyền các cấp. Đảng ta nhận thức rõ và luôn quan tâm chỉ đạo khắc phục hạn chế, đẩy mạnh việc xây dựng chính quyền nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân phục vụ. Một chính quyền yếu kém năng lực, lại không liêm chính thì tất yếu sẽ bị Nhân dân bãi miễn trước khi bị kẻ thù phá hoại. Cho nên, muốn bảo vệ được Chính quyền thì trước hết phải chăm lo xây dựng chính quyền đó trong sạch, vững mạnh và có năng lực thực thi công việc. Đó là Chính quyền liêm chính, kiến tạo, phục vụ nhân dân. Muốn có một chính quyền như vậy, thì phải xây dựng được một đội ngũ cán bộ, công chức có đủ đức và tài; phải có chính sách để thu hút nhân tài tham gia vào bộ máy nhà nước.
Bài học xây dựng chính quyền liêm chính, kiến tạo phục vụ Nhân dân có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng. Bởi vậy, việc hướng dẫn cách tổ chức làm việc của các ủy ban nhân dân, các cơ quan công quyền, đặt cơ sở cho việc xây dựng tác phong làm việc của đội ngũ công chức mới, giáo dục phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống cho cán bộ nhà nước, lấy các phẩm chất “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” làm chuẩn mực trong rèn luyện cán bộ, công chức, viên chức là rất cần thiết.
Ngay sau khi thành lập Chính phủ (chính quyền mới), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi hiền tài tham gia Chính phủ, giúp nước, giúp dân. Người đã viết: “Kiến thiết cần có nhân tài. Nhân tài nước ta dù chưa có nhiều lắm nhưng nếu chúng ta khéo lựa chọn, khéo phân phối, khéo dùng thì nhân tài càng ngày càng phát triển càng thêm nhiều”6. Người khẳng định: “Trong số 20 triệu đồng bào chắc không thiếu người có tài có đức. E vì Chính phủ nghe không đến, thấy không khắp, đến nỗi những bực tài đức không thể xuất thân. Khuyết điểm đó tôi xin thừa nhận”7.
Để xây dựng được một chính quyền mạnh, có đủ năng lực quản lý, điều hành đất nước và đủ sức mạnh để tự bảo vệ cần phải huy động được sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Cách mạng tháng Tám thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thấy sức mạnh của chính quyền không những ở tổ chức, bộ máy luôn được kiện toàn, mà còn được huy động từ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Một chính quyền biết quy tụ được sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc sẽ bảo đảm cho chính quyền đó luôn được xây dựng vững mạnh và bảo vệ vững chắc, không có thế lực nào có thể đánh đổ được.
Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ chính quyền, sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân tộc sẽ tạo ra điều kiện thuận lợi để bên trong hết lòng, hết sức ủng hộ Nhà nước, ủng hộ chính quyền, bên ngoài thì quốc tế tôn trọng và giúp đỡ, bảo đảm cho chính quyền luôn được xây dựng vững mạnh và bảo vệ vững chắc. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết trong “Lời tuyên bố với Quốc hội về việc thành lập Chính phủ mới”, rằng: “Chính phủ mới phải tỏ rõ cái tinh thần đại đoàn kết, không phân đảng phái”8,… “Chính phủ này tỏ rõ tinh thần quốc dân liên hiệp”,… “Chính phủ này là Chính phủ toàn quốc, có đủ nhân tài Trung, Nam, Bắc tham gia”9.
Ngày nay, để nêu cao tinh thần Quốc dân Đại hội Tân Trào – tiền thân của Quốc hội Việt Nam và bài học xây dựng chính quyền liêm chính, kiến tạo phục vụ Nhân dân, đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi tổ chức trong hệ thống chính trị phải quán triệt sâu sắc và thực hiện có hiệu quả các nghị quyết, chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị (khóa XII, XIII), nhất là Nghị quyết số 18/NQ-TVV ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đồng thời, xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền giữa Trung ương với địa phương và giữa các cấp chính quyền địa phương. Đặc biệt, Nghị quyết số 60-NQ/TW ngày 12/4/2025 với nhiều nội dung quan trọng, tập trung là 2 nhóm vấn đề tiếp tục sắp xếp tinh gọn tổ chức bộ máy, sắp xếp đơn vị hành chính, tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp. Trên cơ sở mô hình chính quyền địa phương hai cấp, các cơ quan trung ương và địa phương cần sớm rà soát, ban hành cơ chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, các vấn đề có tính chất liên vùng, liên cơ sở, bảo đảm thống nhất trên toàn quốc và từng địa phương. Nhất quán nguyên tắc “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm”, đẩy mạnh phân quyền từ Trung ương về cấp tỉnh, nhất là trong việc ban hành cơ chế, chính sách xây dựng chính quyền liêm chính, kiến tạo phục vụ Nhân dân.
Để tiếp tục xây dựng chính quyền nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, trong giai đoạn đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, hội nhập quốc tế sâu rộng, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng xác định kiên quyết đổi mới phương thức lãnh đạo, quản lý, điều hành, loại bỏ dần biện pháp mệnh lệnh hành chính, xây dựng Chính phủ trong sạch, liêm chính, Chính phủ kiến tạo phát triển.
Quyết tâm biến nghị quyết của Đảng thành hiện thực, chính quyền các cấp đã tập trung đổi mới cơ chế quản lý, điều hành, tăng cường áp dụng công nghệ, cải cách hành chính hướng tới đơn giản hóa, minh bạch hóa các thủ tục hành chính giảm phiền hà cho Nhân dân. Chính quyền gương mẫu đi đầu tập trung chỉ đạo mạnh mẽ việc xây dựng Chính phủ điện tử và chính quyền điện tử; triển khai hệ thống tiếp nhận kiến nghị và phản ánh từ cộng đồng qua Cổng Thông tin điện tử Chính phủ. Chính quyền hoạt động công khai, minh bạch; chính quyền thân thiện, trách nhiệm; đội ngũ cán bộ, công chức, người hoạt động không chuyên trách các cấp thân thiện, trách nhiệm, tận tụy; người đứng đầu chính quyền gương mẫu, thân thiện và có trách nhiệm với Nhân dân; trụ sở làm việc khang trang, văn minh, sáng, xanh, sạch, đẹp. Đây là một bài học kinh nghiệm quý, chính quyền các cấp cần thiết phải được tiếp tục nghiên cứu, triển khai một cách khoa học, đồng bộ trong thực tiễn với sự lãnh đạo, chỉ đạo nhất quán, thường xuyên của Đảng và sự quản lý điều hành chặt chẽ của chính quyền. Phải đấu tranh khắc phục các nguyên nhân gây ra các tệ nạn tiêu cực và các nguyên nhân phát sinh các tệ nạn tiêu cực đó.
Cùng với quyết sách đúng, quyết tâm hành động, Chính quyền liêm chính, kiến tạo, phục vụ Nhân dân còn phải đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, tập trung đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cường kỷ luật, kỷ cương, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; xây dựng bộ máy tinh gọn, hiệu lực hiệu quả; tăng cường minh bạch, trách nhiệm thực thi, chủ động xây dựng, hoàn thiện các cơ chế, chính sách để định hướng phát triển; tạo môi trường bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế, phục vụ người dân, doanh nghiệp. Những gì chính quyền mới làm được cho sự phát triển của đất nước bước vào kỷ nguyên mới: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng văn minh có thể khẳng định: đó là một chính quyền liêm chính, kiến tạo, trong sạch, vì dân, đấu tranh mạnh mẽ với tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; một chính quyền phục vụ, nỗ lực gần dân hơn, sát dân hơn, quan tâm giải quyết kịp thời những vấn đề quan trọng, bức xúc, phát sinh liên quan cuộc sống của Nhân dân. Ðặc biệt là chính quyền xử lý công việc theo đúng tinh thần các chỉ thị, nghị quyết của Đảng; đặc biệt là Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, Nghị quyết số 59-NQ/TW năm 2025 ngày 24/01/2025 về hội nhập quốc tế trong tình hình mới, Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới và Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 về phát triển kinh tế tư nhân của Bộ Chính trị là “Bốn trụ cột để đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới – Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”; để chính quyền thực sự là chính quyền phụng sự Nhân dân, đáp ứng nguyện vọng chính đáng và bảo đảm tối đa quyền và lợi ích hợp pháp của người dân.
4. Kết luận
Với tinh thần Quốc dân Đại hội Tân Trào và bài học xây dựng chính quyền liêm chính, kiến tạo, phục vụ Nhân dân trong Cách mạng tháng Tám 1945 vẫn còn nguyên giá trị, cần được tiếp tục nghiên cứu và lưu giữ truyền lại cho các thế hệ hôm nay và mai sau. Trong không khí hào hùng của cả nước chào mừng kỷ niệm 80 năm ngày Cách mạng tháng tám thắng lợi, chúng ta càng thấy khâm phục, tự hào về những thế hệ cách mạng cha anh, khơi dậy ý chí kiên cường, về chính quyền liêm chính, kiến tạo, phục vụ Nhân dân, “vì Tổ quốc, vì Nhân dân”.
Phát huy tinh thần Cách mạng tháng Tám của các thế hệ đi trước, đặc biệt trong hệ thống hành chính nhà nước, mỗi cán bộ, đảng viên và toàn quân, toàn dân cần phải tập trung giáo dục, bồi dưỡng, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất đạo đức, trách nhiệm, chuyên nghiệp, có tinh thần cách mạng, có ý chí tiến công, không lùi bước trước khó khăn, thử thách, thực sự là công bộc của dân theo đúng lời dạy của Bác Hồ kính yêu.
Nhìn lại chặng đường 80 năm qua có thể khẳng định, quyết tâm xây dựng “Chính quyền liêm chính, kiến tạo, phục vụ Nhân dân” là bài học quý giá hợp lòng dân; góp phần hiện thực hóa Cương lĩnh chính trị và các chỉ thị, nghị quyết của Ðảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Việc xây dựng chính quyền liêm chính, kiến tạo, phục vụ Nhân dân không chỉ đóng góp vào phát triển kinh tế – xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế mà quan trọng hơn là sự phát triển đất nước “tăng trưởng” niềm tin của người dân, doanh nghiệp đối với Ðảng, Nhà nước, bộ máy chính quyền. Đây là yếu tố quyết định mọi thành công xây dựng chính quyền liêm chính, kiến tạo tinh, gọn mạnh, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, phục vụ Nhân dân, phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong kỷ nguyên mới – Kỷ nguyên phát triển đất nước phồn vinh, thịnh vượng.
Chú thích:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001). Văn kiện Đảng toàn tập. Tập 7. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 559 – 560.
2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 4. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr.332.
Tài liệu tham khảo:
1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2022). Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới
2. Bộ Chính trị (2024). Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
3. Bộ Chính trị (2025). Nghị quyết số 59-NQ/TW năm 2025 ngày 24/01/2025 về hội nhập quốc tế trong tình hình mới.
4. Bộ Chính trị (2025). Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
5. Bộ Chính trị (2025). Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 về phát triển kinh tế tư nhân.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I, II. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.
8. V.I. Lê-nin toàn tập (2006). Tập 33. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.