Phát huy vai trò công tác tuyên truyền trong Đại thắng mùa Xuân 1975 đối với kỷ nguyên phát triển mới của dân tộc

Nguyễn Thị Liên
Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội

(Quanlynhanuoc.vn) – Nhận thức sâu sắc vai trò đặc biệt của công tác tuyên truyền trong việc xây dựng nhân tố chính trị, tinh thần – yếu tố then chốt làm nên sức mạnh chiến đấu và chiến thắng của quân và dân ta, Đảng và quân đội đã luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và phát huy cao độ hiệu quả tuyên truyền trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đặc biệt là trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử mùa Xuân năm 1975. Việc nghiên cứu, kế thừa và phát huy sáng tạo vai trò của công tác tuyên truyền trong Đại thắng mùa Xuân năm 1975 không chỉ có ý nghĩa lịch sử mà còn góp phần hun đúc niềm tin, khơi dậy khát vọng phát triển, tạo động lực mới để đất nước vững bước trên hành trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay.

Từ khóa: Công tác tuyên truyền, Đại thắng mùa Xuân 1975, kỷ nguyên phát triển mới.

1. Đặt vấn đề

Đại thắng mùa Xuân năm 1975 là chiến thắng của bản lĩnh, trí tuệ Việt Nam, của sức mạnh tổng hợp được tạo nên bởi nhiều yếu tố, nhiều lực lượng, bao gồm cả vật chất, tinh thần. Trong đó, công tác tuyên truyền đã góp phần tạo nên sức mạnh chiến đấu và chiến thắng của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Công tác tuyên truyền thời bấy giờ mang đậm tính chất “đi trước mở đường”, xây dựng niềm tin sắt son vào thắng lợi cuối cùng, huy động được mọi nguồn lực cho tiền tuyến, đồng thời làm lung lay ý chí của đối phương. Những bài báo, phát thanh, những bức thư từ chiến trường đã trở thành cầu nối vững chắc giữa hậu phương và tiền tuyến, tạo nên một sức mạnh tổng hợp vô song. Tinh thần và sự gắn kết đó vẫn còn nguyên giá trị trong kỷ nguyên mới của dân tộc.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và cách mạng công nghiệp 4.0, công tác tuyên truyền ngày nay đứng trước những cơ hội và thách thức mới. Nếu như trước đây, công cụ tuyên truyền chủ yếu là báo in, đài phát thanh thì nay, mạng xã hội, internet đã trở thành những kênh thông tin đa chiều, tốc độ lan truyền chóng mặt. Sự liên hệ giữa quá khứ và hiện tại được thể hiện rõ nét qua việc duy trì và phát huy những giá trị cốt lõi: đó là lòng yêu nước, ý chí tự lực, tự cường, tinh thần đại đoàn kết dân tộc. Tuy nhiên, nội dung tuyên truyền đã được mở rộng hơn, không chỉ tập trung vào bảo vệ chủ quyền mà còn đề cao sự phát triển kinh tế, văn hóa – xã hội, hội nhập quốc tế.

Công tác tuyên truyền trong kỷ nguyên mới đòi hỏi sự linh hoạt, sáng tạo, ứng dụng công nghệ hiện đại để đưa thông điệp đến với công chúng một cách nhanh chóng, chính xác, hiệu quả, đặc biệt là thế hệ trẻ. Từ bài học lịch sử, công tác tuyên truyền ngày nay cần phải học hỏi cách “xây” niềm tin, “truyền” lửa nhiệt huyết, biến mỗi người dân thành một “sứ giả” của đất nước. Bằng cách kết nối quá khứ hào hùng với hiện tại năng động, chúng ta sẽ tạo nên một sức mạnh nội sinh to lớn, đưa đất nước phát triển phồn vinh, vững mạnh, xứng đáng với sự hy sinh của các thế hệ cha ông.

2. Vai trò của công tác tuyên truyền trong Đại thắng mùa Xuân 1975

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đặc biệt là trong Đại thắng mùa Xuân 1975, công tác tuyên truyền đã đóng góp một vai trò cực kỳ quan trọng, góp phần động viên, cổ vũ ý chí chiến đấu, năng lực sáng tạo và nỗ lực phi thường của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân cho chiến dịch lịch sử toàn thắng.

Thứ nhất, công tác tuyên truyền trong Đại thắng mùa Xuân 1975 đã tập trung giáo dục nâng cao giác ngộ chính trị, làm cho toàn quân, toàn dân thấu triệt sâu sắc quyết tâm của Quân ủy Trung ương, động viên cao nhất tinh thần, khả năng và ý chí của toàn dân tộc, chớp thời cơ giành thắng lợi cuối cùng.

Hơn 20 năm kiên trì giáo dục, xây dựng quyết tâm “đánh Mỹ và thắng Mỹ”, công tác tuyên truyền đã góp phần nuôi dưỡng khát vọng, ý chí giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. Nhờ đó, mỗi người dân Việt Nam đều hun đúc được động lực tinh thần mạnh mẽ, vượt lên mọi gian khổ, hy sinh, quyết tâm chiến đấu vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Động lực đó đã trở thành nền tảng vững chắc để khi thời cơ đến, chúng ta có thể nhanh chóng biến thành sức mạnh tổng lực giành thắng lợi cuối cùng.

Tại Hội nghị của Bộ Chính trị từ ngày 30/9 – 08/10/1974 đã xác định rõ: “nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975”1 và đến ngày 31/3/1975, Bộ Chính trị điều chỉnh kế hoạch thời gian mở trận quyết chiến chiến lược cuối cùng giải phóng Sài Gòn: “Tốt hơn cả là bắt đầu và kết thúc trong tháng 4 năm nay, không để chậm”2. Quán triệt tinh thần đó, công tác tuyên truyền được triển khai đồng bộ, mạnh mẽ với nhiều hình thức, phương pháp sáng tạo, nhằm truyền đạt quyết tâm chiến lược của Đảng đến toàn Đảng, toàn dân, toàn quân; đồng thời huy động, cổ vũ mọi lực lượng, phát huy sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân, sẵn sàng cho trận quyết chiến lịch sử.

Tại miền Nam, sau Hội nghị chính ủy các đơn vị do Trung ương Cục và Quân ủy miền Nam tổ chức để bàn về công tác đảng, công tác chính trị vào mùa khô 1974 – 1975, công tác tuyên truyền đã góp phần làm sáng tỏ những nhận định, đánh giá cụ thể và chính xác về tình hình; đồng thời, khẳng định tính đúng đắn, khả thi của các chủ trương, biện pháp mà Quân ủy miền Nam đề ra. Nhờ đó, giáo dục cho mỗi cán bộ, chiến sĩ cũng như từng người dân quán triệt sâu sắc chủ trương: “mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy cuối cùng, đưa chiến tranh cách mạng phát triển đến mức cao nhất, tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ quân ngụy, đánh chiếm Sài Gòn, sào huyệt trung tâm của địch cũng như tất cả các thành thị khác, đánh đổ nguỵ quyền ở trung ương và các cấp, giành toàn bộ chính quyền về tay Nhân dân, giải phóng hoàn toàn miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới thống nhất nước nhà”3.

Công tác tuyên truyền giúp bộ đội nhận thức rõ nhiệm vụ, hiểu rõ đặc điểm, thuận lợi và khó khăn; từ đó, nâng cao tinh thần quyết tâm chiến đấu, tranh thủ thời gian, phát huy sự mưu trí, sáng tạo, linh hoạt, táo bạo để giành thêm thắng lợi. Bằng các văn bản, ấn phẩm, như: điện lệnh, chỉ chị, thông tri của Ban Bí thư, trong đó nổi bật là các bức điện lịch sử của Bộ Chính trị: “Thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng”đã có ý nghĩa tuyên truyền rất lớn4.

Đặc biệt, giữa lúc các đơn vị đang gấp rút triển khai kế hoạch hành quân thì ngày 07/4/1975, Đại tướng Võ Nguyên Giáp thay mặt Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh ra Mệnh lệnh (Điện số 157/TK) cho các cánh quân: “Thần tốc, thần tốc hơn nữa. Táo bạo, táo bạo hơn nữa. Tranh thủ từng giờ, từng phút, xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam. Quyết chiến và toàn thắng…”5 đã được truyền đi khắp các mặt trận, trở thành “lời hịch” của non sông đất nước cổ vũ tinh thần chiến đấu cho toàn quân. Đây không chỉ là mệnh lệnh quân sự mà còn là lời hiệu triệu, động viên tinh thần và chỉ dẫn hành động kịp thời cho cán bộ, chiến sĩ và Nhân dân trong trận quyết chiến cuối cùng khi thời cơ lịch sử đã đến.

Những bài báo, những buổi phát thanh từ Đài Tiếng nói Việt Nam, những bức thư tay từ chiến trường, những bức tranh cổ động đã vẽ nên một bức tranh toàn cảnh về cuộc kháng chiến chính nghĩa, về sự hy sinh cao cả của các chiến sĩ và đồng bào, về tương lai tươi sáng của một đất nước độc lập, tự do. Các cơ quan báo chí, đài phát thanh của ta cũng liên tục cập nhật tin chiến thắng, phân tích tình hình, vạch trần âm mưu của địch, củng cố niềm tin vào thắng lợi. Nhờ đó, dù đối mặt với muôn vàn khó khăn, gian khổ, Nhân dân ta vẫn giữ vững niềm tin vững chắc vào sự lãnh đạo của Đảng và vào thắng lợi cuối cùng. Trong suốt chiều dài cuộc chiến, tuyên truyền đã trở thành “mũi nhọn” sắc bén, hun đúc lòng yêu nước, ý chí quyết chiến, quyết thắng cho toàn dân tộc.

Có thể nói, chính nhờ tập trung giáo dục nâng cao giác ngộ chính trị, làm cho toàn quân, toàn dân thấu triệt sâu sắc quyết tâm của Quân ủy Trung ương, động viên cao nhất tinh thần, khả năng và ý chí của toàn dân tộc nên khi thời cơ xuất hiện, chúng ta đã không những bảo đảm đáp ứng đủ tổ chức, lực lượng, trang bị, vũ khí, hậu cần, kỹ thuật cho trận quyết chiến cuối cùng mà còn kịp thời xử lý, giải quyết tốt các tình huống, nhiệm vụ mới nảy sinh, giữ vững và nâng cao ý chí quyết tâm chiến đấu của bộ đội, cổ vũ tinh thần cách mạng tiến công, quyết tâm giành thắng lợi cuối cùng.

Thứ hai, công tác tuyên truyền đã bám sát các đơn vị, các mũi, các hướng, các lực lượng, tiến hành nhiều hình thức hoạt động phong phú, linh hoạt và sáng tạo, đáp ứng quy mô, tốc độ của cuộc Tổng tiến công mùa Xuân.

Trong bối cảnh chiến dịch diễn biến nhanh, bất ngờ và quyết liệt, với tinh thần “thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng”6, công tác tuyên truyền ở các đơn vị đã bám sát bộ đội đã động viên liên tục, “làm thấu triệt sâu sắc quyết tâm chiến lược của Đảng, hiểu và nắm thật chắc thời cơ, làm cho tất cả bộ đội nhận rõ thời gian là vốn quý, phải tận dụng từng phút, từng giờ vượt nhanh hơn địch để chiến thắng gọn nhất, triệt để nhất”7. Điểm nổi bật của công tác tuyên truyền là sự chủ động, linh hoạt trong việc lựa chọn nội dung trọng tâm, sử dụng đa dạng hình thức truyền đạt – từ tuyên truyền miệng, truyền đơn, loa phóng thanh… nhằm vừa phổ biến kịp thời nhiệm vụ, vừa giải quyết những vấn đề tư tưởng phát sinh, đồng thời, trực tiếp cổ vũ, hướng dẫn hành động cho bộ đội.

Từ Tổng cục Chính trị đến các đơn vị đều ra chủ trương, chỉ thị nhanh gọn, hiệu lực cao, phù hợp với diễn biến chiến trường. “Những tấm gương tiêu biểu, phương án đánh nhanh, đánh giỏi, bất ngờ, táo bạo của Sư đoàn 9 (Quân đoàn 4), Sư đoàn 10 (Quân đoàn 3), Lữ đoàn Tăng 203… được kịp thời tuyên truyền rộng rãi trong toàn quân, tạo nên không khí thi đua sôi nổi, lan tỏa mạnh mẽ”8.

Việc lấy kết quả thực tế trên chiến trường làm minh chứng để giáo dục, thuyết phục đã làm cho công tác chính trị trở nên sinh động, hiệu quả và giàu sức thuyết phục. Việc “đem kết quả thực tế đạt được trên chiến trường để giáo dục, thuyết phục đã làm cho hoạt động công tác chính trị có hiệu quả lớn, phong phú, linh hoạt và thật sự có sức sống”9.

Công tác tuyên truyền ở từng lực lượng, từng hướng mũi, từng giai đoạn, từng nhiệm vụ đã đi sâu vào đặc điểm, đối tượng, bảo đảm bám sát, tác động trúng, kịp thời, có hiệu quả. Trước tình hình đó, cơ quan chức năng và cán bộ các cấp đã tập trung tuyên truyền, luận giải những cơ sở, điều kiện, thế và lực trong cuộc tổng tiến công lần này, khẳng định điều kiện bảo đảm cho cán bộ, chiến sĩ hoàn thành nhiệm vụ. Từ đó giải tỏa tâm lý lo lắng, củng cố niềm tin, xây dựng quyết tâm cho đơn vị hoàn thành nhiệm vụ. Với các đơn vị tham gia đánh Buôn Ma Thuột, công tác tuyên truyền đi sâu quán triệt yêu cầu về bí mật, cơ động nhanh, tiếp cận gần, đánh chắc thắng…

Nghệ thuật tuyên truyền trong Đại thắng mùa Xuân năm 1975 đã khéo léo kết hợp giữa việc truyền đạt nhiệm vụ với việc cổ vũ, định hướng hành động cho bộ đội. Hoạt động này không chỉ thể hiện quyết tâm và tình cảm của cán bộ, chiến sĩ mà còn phản ánh rõ phương châm chỉ đạo qua từng giai đoạn và từng trận đánh cụ thể. Khẩu hiệu “Quyết chiến, quyết thắng” được nhiều đơn vị sáng tạo thay bằng “Quyết chiến toàn thắng”, tạo nên tinh thần mới, khí thế mới.

Các đơn vị, như: Quân đoàn 3, Quân đoàn 1, Bộ Tư lệnh 232, Sư đoàn 325, Bộ Tư lệnh 559… đều sử dụng những khẩu hiệu ngắn gọn, dễ nhớ, dễ đọc, giàu ý nghĩa, góp phần cổ vũ mạnh mẽ tinh thần chiến đấu. Ngoài ra, các hình thức thông báo thắng lợi, biểu dương, khen thưởng, phát động thi đua… được triển khai linh hoạt, đặc biệt là việc trao cờ thi đua để cắm trên những vị trí then chốt, quyết định, đã khơi dậy niềm tự hào, tinh thần quyết tâm và khí thế sôi nổi trong toàn quân.

Bên cạnh đó, hình thức đặc biệt của công tác tuyên truyền đó là bằng “Binh vận, địch vận”. Đây là một hình thức tuyên truyền đặc biệt, trực tiếp tác động vào hàng ngũ địch. Ta đã khéo léo sử dụng các chính sách nhân đạo, kêu gọi binh lính và sĩ quan địch buông súng, quay về với Nhân dân, góp phần làm tan rã nguỵ quân Sài Gòn từ bên trong. Bằng những hình thức và biện pháp thích hợp, “chủ yếu là truyên truyền miệng, tổ chức các buổi nói chuyện và thâm nhập tìm hiểu tâm tư, tình cảm, vướng mắc của các tầng lớp nhân dân gồm đủ các lứa tuổi, ngành nghề, dân tộc, tôn giáo, lao động chân tay và lao động trí óc, kể cả gia đình có thân nhân và bản thân người trực tiếp tham gia vào hàng ngũ địch”10; đồng thời, tổ chức mít-tinh, biểu tình, khi quân ta tiến vào các thành phố, người dân đã xuống đường chào đón, tổ chức mít-tinh, biểu tình, tạo nên không khí hào hùng, quyết tâm giải phóng.

Thứ ba, công tác tuyên truyền trong Đại thắng mùa Xuân năm 1975 đã tập trung phát động có hiệu quả vai trò, tinh thần tiên phong, gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên tại các đơn vị.

Khi phong trào cách mạng phát triển mạnh mẽ với nhịp độ “một ngày bằng hai mươi năm”, công tác tuyên truyền đã thể hiện rõ sự nhạy bén, linh hoạt, quán triệt sâu sắc quyết tâm của Quân ủy Trung ương. Nhờ đó, các chủ trương, nhiệm vụ mới và định hướng mục tiêu chiến đấu được kịp thời truyền đạt, góp phần không ngừng nâng cao khí thế tiến công của cán bộ, chiến sĩ; vừa bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ trước mắt, vừa định hướng tư tưởng cho chặng đường tiếp theo.

Sự năng động, sáng tạo trong công tác tuyên truyền trên toàn chiến dịch đã đáp ứng yêu cầu “thần tốc, táo bạo”, kịp thời nắm bắt và phản ánh tình hình, giúp củng cố tinh thần chủ động tiến công trong toàn quân. Nhờ vậy, các chiến sĩ luôn duy trì được trạng thái sẵn sàng cao nhất, chủ động ứng phó với mọi tình huống khó khăn, phức tạp.

Những khẩu hiệu như “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, “Tất cả cho giải phóng miền Nam” được viết nổi bật trên vách núi, hàng cây, con đường… không chỉ giàu giá trị sinh động mà còn có sức cổ vũ mạnh mẽ tinh thần chiến đấu”11. Đồng thời, công tác tuyên truyền cũng kịp thời vạch trần, làm thất bại mọi thủ đoạn chiến tranh tâm lý của địch, đấu tranh khắc phục tư tưởng dao động, ảo tưởng, mất cảnh giác trong cán bộ, chiến sĩ.

Một trong những thành công nổi bật của công tác tuyên truyền trong Đại thắng mùa Xuân năm 1975 là tập trung phát động có hiệu quả vai trò, tinh thần tiên phong, gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên tại các đơn vị, trong đó đội ngũ cán bộ chính trị đóng vai trò nòng cốt. So với lúc kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp – “tổng số cán bộ chính trị trong Đại thắng mùa Xuân năm 1975 đã tăng 4,1 lần”12, nhưng điều quan trọng là đội ngũ này có sự tiến bộ lớn về năng lực, trình độ, vì thế, các cán bộ chính trị giải quyết tình huống mau lẹ hơn, có trách nhiệm, có kế hoạch hoạt động chặt chẽ hơn, có kỷ luật, có tác phong lãnh đạo, chỉ huy tốt hơn. Nhờ vậy, các chỉ thị, mệnh lệnh được triển khai nhanh và chính xác hơn. Cán bộ các cấp không những luôn đi đầu đơn vị trong mọi hoàn cảnh mà còn “miệng nói, tay làm”, bảo đảm sát người, sát việc, trực tiếp tại chỗ giải quyết khó khăn cho cấp dưới.

Thứ tư, công tác tuyên truyền đã góp phần dấy lên phong trào thi đua với khí thế quyết chiến, quyết thắng, đưa cuộc Tổng tiến công thành “ngày hội cách mạng của quần chúng” huy động toàn dân tộc vào trận quyết chiến, chiến lược cuối cùng.

Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước là quyết tâm to lớn của Đảng, Nhân dân ta, là mong muốn lớn lao của Chủ tịch Hồ Chí Minh và đã trở thành ước nguyện nung nấu ngày đêm của cán bộ, chiến sĩ quân đội ta. Chính vì thế, khi thời cơ giải phóng miền Nam xuất hiện, công tác tuyên truyền đã kịp thời phát huy sức mạnh tổng lực của các hình thức, phương pháp linh hoạt, sáng tạo, góp phần biến tư tưởng, tình cảm, ước vọng của quân và dân ta thành động lực tinh thần to lớn, nhất quán, động viên, cổ vũ toàn dân tộc tham gia vào trận tổng tiến công lịch sử, đưa chủ nghĩa yêu nước Việt Nam phát triển thành chủ nghĩa anh hùng cách mạng.

Trước khi bước và trận quyết chiến lược cuối cùng năm 1975, Nghị quyết Hội nghị Trung ương Cục miền Nam lần thứ chín (tháng 7/1969) đã xác định: “Tiến hành cuộc phát động chính trị sâu rộng trong quần chúng với nội dung “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”13. Trong đó, hoạt động tuyên truyền đã góp phần đưa ý Đảng hòa quyện, nhất quán với lòng dân, tạo nên sức mạnh đồng thuận về chính trị, hình thành nên yếu tố “nhân hòa” vô cùng quan trọng trong trận quyết chiến cho mục tiêu cuối cùng là giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Với tinh thần “một ngày bằng hai mươi năm” đã tạo thành phong trào hành động cách mạng sôi nổi, rộng khắp cả ở hậu phương và tiền tuyến. Với lý tưởng, lẽ sống “Cuộc đời đẹp nhất là trên trận tuyến đánh quân thù” và tinh thần “Cả nước ra quân, toàn dân đánh giặc” đã được dấy lên thành cao trào cách mạng trong Đại thắng mùa Xuân năm năm 1975. Trong không khí sục sôi “ngày hội cách mạng của quần chúng”, mỗi cán bộ, chiến sĩ cũng như từng người dân đều mong muốn đóng góp vào bước đi lịch sử, từ đó hình thành thế trận toàn dân, sản sinh ra trí tuệ tập thể, đóng góp và phát huy sáng tạo về mọi mặt để quân và dân ta làm nên những chiến công kỳ diệu, hiếm có trong lịch sử.

Một trong những thành công nổi bật của công tác tuyên truyền trong Đại thắng mùa Xuân năm 1975 chính là đã huy động được sức mạnh của toàn dân tộc tham gia vào trận quyết chiến cuối cùng. Trên cơ sở kết hợp ước nguyện thống nhất đất nước với tình cảm Bắc – Nam ruột thịt, giương cao hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, công tác tuyên truyền đã khơi dậy, phát huy cao độ và đầy đủ khả năng đoàn kết của dân tộc Việt Nam, góp phần tạo nên sức mạnh tổng hợp có khả năng áp đảo quân thù. Đại thắng mùa Xuân năm 1975 lịch sử là một trong những mốc son chói lọi, hào hùng nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam.

3. Phát huy vai trò công tác tuyên truyền trong kỷ nguyên phát triển mới của dân tộc

Hơn 50 năm đã trôi qua, nhưng những bài học về công tác tuyên truyền vẫn còn nguyên giá trị và ý nghĩa thực tiễn trong công cuộc đổi mới và xây dựng, phát triển đất nước. Đặc biệt, hiện nay đất nước đang tiến vào kỷ nguyên phát triển mới, kỷ nguyên mới mở ra thời kỳ đất nước cần vươn lên mạnh mẽ, nỗ lực đạt được các mục tiêu chiến lược, tạo bước phát triển đột phá về trình độ, chất lượng và vị thế quốc gia trên trường quốc tế, đồng thời làm nền tảng cho những giai đoạn tiếp theo. Xuất phát từ thực tiễn thành công của công tác tuyên truyền trong Đại thắng mùa Xuân năm 1975, việc tiếp tục phát huy vai trò to lớn của tuyên truyền trong bối cảnh mới là nhiệm vụ quan trọng và cấp thiết nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của đất nước trong kỷ nguyên hiện nay.

Một là, công tác tuyên truyền phải xác định rõ trách nhiệm chính trị của mình trước thời cuộc của dân tộc.

Trước hết, công tác tuyên truyền cần đi đầu trong đổi mới tư duy, nâng cao tầm nhìn chiến lược và gắn chặt với hành động thực tiễn, nhằm phát huy vai trò và sứ mệnh trong kỷ nguyên mới của đất nước. Thông qua tuyên truyền, cần định hướng và khơi dậy niềm tin của Nhân dân vào chế độ, sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý điều hành của Nhà nước và đường lối đổi mới toàn diện. Đồng thời, công tác tuyên truyền phải đáp ứng yêu cầu vận động, cổ vũ tinh thần đoàn kết, tạo sự đồng thuận và thống nhất ý chí, hành động trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đối với các chủ trương, quyết sách mang tính lịch sử.

Tuyên truyền cho mọi tầng lớp nhân dân thấu rõ vị trí, tầm quan trọng và tính cấp thiết của các quan điểm, chủ trương đúng đắn trong thực hiện công cuộc chuyển đổi số, thực hiện bộ tứ nghị quyết trụ cột (Nghị quyết số 57-NQ/TW, Nghị quyết số 59-NQ/TW, Nghị quyết số 66-NQ/TW, Nghị quyết số 68-NQ/TW); đặc biệt kỷ niệm 50 Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước – kết quả của cuộc cách mạng thần tốc, táo bạo, bất ngờ, quyết thắng.

Sau 50 năm, tinh thần đó cần tiếp tục khơi dậy mạnh mẽ để đất nước quyết tâm thực hiện một cuộc cách mạng về tinh gọn tổ chức bộ máy, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả thực hiện công cuộc sắp xếp lại các đơn vị hành chính trên địa bàn cả nước. Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền cần tập trung làm nổi bật tinh thần nỗ lực, vươn lên của đất nước, khơi dậy niềm tự hào và tự tôn dân tộc; đồng thời giải thích rõ các vấn đề lý luận và thực tiễn, giúp người dân – nhất là những người ít có điều kiện nghiên cứu chuyên sâu – có thể tiếp cận thông qua báo chí và truyền thông. Để hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước, cần chú trọng các yếu tố then chốt như tư tưởng, tổ chức, đội ngũ cán bộ và các chương trình hành động cụ thể.

Hai là, công tác tuyên truyền cần tập trung làm thất bại mọi âm mưu “diễn biến hòa bình” và hoạt động phá hoại tư tưởng của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị.

Đội ngũ cán bộ tuyên truyền phải chủ động nghiên cứu, nắm vững thủ đoạn, khuynh hướng và phương thức chống phá của các đối tượng này; đồng thời, tăng cường bồi dưỡng, đào tạo, chia sẻ kinh nghiệm để nâng cao năng lực bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Cần đẩy mạnh phổ biến lý luận, củng cố kiến thức chính trị, kết hợp hoạch định chính sách phù hợp, từ đó tạo sức lan tỏa, huy động sự tham gia đồng bộ của cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành và toàn dân.

Song song, công tác tuyên truyền cần phản bác kịp thời các quan điểm sai trái, thù địch; “phủ xanh” không gian mạng bằng thông tin tích cực; phát hiện và xử lý hiệu quả những nguồn tin độc hại, xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt, cần xây dựng đội ngũ “bút chiến”, chuyên gia lý luận sắc bén, am hiểu thực tiễn, có khả năng viết ra các bài phản biện giàu tính chiến đấu, giáo dục và thuyết phục, nhằm tạo đồng thuận xã hội và kịp thời giải đáp, tháo gỡ những vấn đề bức xúc. Đồng thời, tích cực ứng dụng công nghệ hiện đại để lan tỏa thông tin chính thống, đấu tranh hiệu quả trên không gian mạng, góp phần bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng.

Ba là, công tác tuyên truyền phải được định hướng phát triển bám sát thực tiễn bảo đảm hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả.

Cần mạnh dạn đổi mới công tác tuyên truyền để đưa chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống một cách thiết thực, giảm bớt hình thức hội nghị, hội họp. Hoạt động tuyên truyền cần bám sát thực tiễn đời sống nhân dân, linh hoạt theo đặc điểm từng ngành, lĩnh vực, vùng miền, nhằm phản ánh đúng nhịp thở của xã hội. Công tác này phải được triển khai với lộ trình rõ ràng, phân vai cụ thể, kịp thời và đúng đối tượng, bảo đảm truyền tải thông tin chính xác, hiệu quả. Qua đó, tạo nên một “trận địa truyền thông” vững chắc, đạt được sự đồng thuận cao trong nhân dân, để mọi người dân đều hiểu rõ, tin tưởng, nắm vững, đồng lòng và quyết tâm thực hiện các mục tiêu, quan điểm, định hướng và nhiệm vụ lớn trong xây dựng, phát triển đất nước; tuyệt đối không để xảy ra tình trạng hiểu sai cái đúng, nhìn nhận lệch lạc cái tốt, cái đẹp.

Trong thời gian tới, cần tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền phong trào thi đua yêu nước, khơi dậy tinh thần tự lực, tự tin, tự hào dân tộc; từ đó huy động các nguồn lực xã hội, tạo sức mạnh và sự đồng thuận để thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước.

Bốn là, đổi mới phương thức công tác tuyên truyền trong kỷ nguyên số.

Sự bùng nổ của công nghệ số đặt ra yêu cầu cấp thiết phải đổi mới mạnh mẽ công tác tuyên truyền để bắt kịp xu thế thời đại. Đặc biệt, cần tiên phong ứng dụng công nghệ hiện đại, tận dụng các nền tảng số, như: TikTok, Zalo, Facebook… để truyền tải thông tin sinh động, gần gũi và dễ tiếp cận.

Trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư và sự bùng nổ của truyền thông số, công tác tuyên truyền cần làm chủ không gian mạng trở thành một chủ thể truyền thông số thực thụ. Ngày nay, môi trường số không chỉ là phương tiện mà còn là cầu nối giữa con người với cộng đồng có cùng sở thích, quan điểm; nơi mọi người chia sẻ thông tin, cảm xúc và hiểu biết cá nhân. Truyền thông số đang từng bước định hình lại đời sống xã hội, thu hút hàng triệu người dùng và tiếp tục mở rộng không ngừng. Do đó, cần đẩy mạnh tuyên truyền trên các nền tảng số, coi mạng xã hội là kênh tiếp cận hiệu quả, nhất là đối với giới trẻ. Đồng thời, tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ tuyên truyền có khả năng ứng dụng công nghệ, sản xuất các sản phẩm đa phương tiện, như: video, infographic, podcast… để nâng cao sức hấp dẫn và khả năng lan tỏa. Cần mở rộng hợp tác quốc tế, học hỏi kinh nghiệm quản lý thông tin số của các nước và đẩy mạnh quảng bá hình ảnh Việt Nam ra thế giới thông qua các kênh truyền thông quốc tế.

Chú thích:
1. Lê Duẩn (1995). Thư vào Nam. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, tr. 333.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004). Văn kiện Đảng toàn tập. Tập 36. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, tr. 96.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004). Văn kiện Đảng toàn tập. Tập 35. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, tr. 185.
4, 6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2018). Văn kiện Đảng toàn tập. Tập 69. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, tr. 905, 905.
5. Đại tướng Võ Nguyên Giáp (2023). Tổng hành dinh trong mùa Xuân toàn thắng. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 280.
7, 9, 10, 11. Viện Lịch sử quân sự Việt Nam (1998). Lịch sử công tác đảng, công tác chính trị chiến dịch trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ 1945 – 1975. H. NXB Quân đội nhân dân, tr. 647, 643, 658, 204 – 205.
8, 12. Tổng cục Chính trị (2002). Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam thời kỳ đổi mới. H. NXB Quân đội nhân dân, tr. 132, 92.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2024). Văn kiện Đảng toàn tập. Tập 30. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 412.