Những yếu tố tác động đến Quân đội nhân dân Việt Nam trong tham gia xây dựng đời sống văn hóa vùng dân tộc thiểu số ở các tỉnh phía Bắc 

ThS. Lê Viết Cường
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng

(Quanlynhanuoc.vn)  Tham gia xây dựng đời sống văn hóa vùng đồng bào dân tộc thiểu số các tỉnh phía Bắc là một nhiệm vụ chính trị quan trọng, thể hiện rõ chức năng “đội quân công tác” của Quân đội nhân dân Việt Nam, góp phần củng cố khối đại đoàn kết dân tộc và xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc. Để hoạt động này ngày càng hiệu quả, việc nhận diện, phân tích sâu sắc các yếu tố tác động cả khách quan lẫn chủ quan là yêu cầu cấp thiết, làm cơ sở đề xuất các giải pháp đồng bộ nhằm tháo gỡ các vướng mắc, tạo động lực để phát huy hơn nữa vai trò của quân đội trong hoạt động này.

Từ khóa: Quân đội nhân dân Việt Nam; yếu tố tác động; xây dựng đời sống văn hóa; đồng bào dân tộc thiểu số.

1. Đặt vấn đề

Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam toàn diện là một chủ trương, chiến lược, xuyên suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam, được khẳng định là “nền tảng tinh thần, nguồn lực nội sinh và động lực đột phá cho phát triển kinh tế – xã hội và hội nhập quốc tế”1. Trong bối cảnh đó, vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở các tỉnh phía Bắc, với vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về quốc phòng, an ninh và đối ngoại, luôn là địa bàn được Đảng, Nhà nước và toàn xã hội đặc biệt quan tâm. Việc chăm lo, xây dựng đời sống văn hóa cho đồng bào không chỉ là nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội thuần túy mà còn mang ý nghĩa sâu sắc trong việc củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo dựng “thế trận lòng dân” vững chắc nơi phên giậu của Tổ quốc. 

Thực hiện chức năng “đội quân công tác”, trong những năm qua, Quân đội nhân dân Việt Nam đã và đang là một trong những lực lượng nòng cốt, xung kích tham gia tích cực vào sự nghiệp xây dựng đời sống văn hóa vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Thông qua các chương trình, mô hình công tác dân vận khéo léo, cán bộ, chiến sĩ đã góp phần quan trọng vào việc tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, bài trừ hủ tục lạc hậu, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của các dân tộc, từng bước nâng cao mức hưởng thụ văn hóa cho nhân dân. 

Thực tiễn cũng cho thấy, hiệu quả của hoạt động này chịu sự tác động đa chiều, phức hợp của nhiều yếu tố khác nhau, cả khách quan lẫn chủ quan, khiến kết quả đạt được ở một số nơi chưa thực sự bền vững và đồng đều. Vì vậy, việc nghiên cứu làm rõ những yếu tố tác động đến Quân đội nhân dân Việt Nam  trong tham gia xây dựng đời sống văn hóa vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở các tỉnh phía Bắc là nội dung có ý nghĩa quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả của Quân đội trong tham gia hoạt động này.

2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng về xây dựng đời sống văn hóa và vai trò của Quân đội

Nền tảng lý luận cho việc Quân đội nhân dân Việt Nam tham gia xây dựng đời sống văn hóa bắt nguồn từ những nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin, được Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo và được Đảng Cộng sản Việt Nam cụ thể hóa thành đường lối, chính sách qua các thời kỳ cách mạng.

Chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định văn hóa là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng, phản ánh tồn tại xã hội và do cơ sở hạ tầng quyết định. Tuy nhiên, văn hóa không thụ động mà có tính độc lập tương đối, tác động mạnh mẽ trở lại cơ sở hạ tầng, có thể trở thành lực lượng vật chất to lớn khi thâm nhập vào quần chúng. Kế thừa và phát triển quan điểm đó, V.I. Lênin đã xây dựng lý luận về “cách mạng văn hóa”, coi đây là nhiệm vụ chiến lược, cấp bách sau khi giai cấp vô sản giành được chính quyền. 

Mục tiêu của “Cách mạng văn hóa” là tạo ra một nền văn hóa thực sự thuộc về nhân dân lao động, phục vụ lợi ích của đông đảo quần chúng. Nền văn hóa này phải góp phần giải phóng con người khỏi mọi hình thức áp bức, bóc lột, xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, bình đẳng và văn minh. Theo V.I.Lênin, xây dựng nền văn hóa mới phải kết hợp giữa xây và chống, bên cạnh việc xây dựng những giá trị, chuẩn mực mới cần phải đấu tranh chống lại những tư tưởng, tập quán cũ đã lạc hậu, lỗi thời của các nền văn hóa trước, đồng thời chống lại hệ tư tưởng tư sản đối lập với hệ tư tưởng vô sản – yếu tố chi phối, chủ đạo trong nền văn hóa mới. 

V.I.Lênin cho rằng: “Những tập quán cũ, những lề thói cổ hủ do chế độ cũ để lại, những lề thói và tập quán của kẻ tư hữu, chúng đã thấm sâu vào quần chúng đông đảo”2, vì vậy không dễ để xóa bỏ được chúng.  Đặc biệt, lý luận của V.I.Lênin về quân đội kiểu mới đã chỉ rõ, quân đội của giai cấp vô sản không chỉ có chức năng chiến đấu mà còn có chức năng công tác và lao động sản xuất, thể hiện ở việc gắn bó máu thịt với người dân, giúp người dân phát triển kinh tế, văn hóa – xã hội.

Vận dụng sáng tạo quan diểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại một hệ thống tư tưởng toàn diện về vai trò của văn hóa và quân đội. Đối với quân đội, Người xác định rõ ba chức năng, trong đó chức năng “đội quân công tác” là phương thức để xây dựng và củng cố mối quan hệ quân – dân như cá với nước. Người nhấn mạnh: “Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”3. Đây chính là kim chỉ nam, là cơ sở lý luận trực tiếp cho việc Quân đội nhân dân Việt Nam  tham gia sâu rộng vào các nhiệm vụ xã hội, trong đó có xây dựng đời sống văn hóa.

Thể chế hóa các quan điểm trên, Đảng và Nhà nước đã ban hành hệ thống các chủ trương, chính sách ngày càng hoàn thiện. Đại hội XIII của Đảng khẳng định quan điểm chỉ đạo “Tiếp tục phát triển nhanh và bền vững đất nước; gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó phát triển kinh tế – xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần xã hội; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên”4.

Kết luận của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc năm 2021 đã một lần nữa nhấn mạnh “Văn hóa còn thì dân tộc còn”. Đặc biệt, đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số, các chính sách được cụ thể hóa bằng các chương trình hành động thiết thực, như: Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 – 2030 (theo Quyết định số 1719/QĐ-TTg ngày 14/10/2021), trong đó có các dự án thành phần về bảo tồn văn hóa và giao nhiệm vụ trực tiếp cho Bộ Quốc phòng chủ trì thực hiện Tiểu dự án 3 thuộc Dự án 3 với tên gọi: “Phát triển kinh tế xã hội – mô hình bộ đội gắn với dân bản vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi”. 

Mục tiêu của tiểu dự án là xây dựng các mô hình gắn kết quân dân, giảm nghèo bền vững gắn với xây dựng thế trận phòng thủ. Nội dung cụ thể bao gồm hỗ trợ các dự án, mô hình chăn nuôi, trồng trọt gắn với nhiệm vụ quốc phòng – an ninh và đặc biệt là hoạt động “Cán bộ, chiến sĩ quân đội nâng bước em tới trường” nhằm hỗ trợ học sinh dân tộc thiểu số có hoàn cảnh khó khăn ở khu vực biên giới. Những căn cứ chính trị và pháp lý này tạo thành hành lang vững chắc, khẳng định việc quân đội tham gia xây dựng đời sống văn hóa không chỉ là trách nhiệm chính trị mà còn là một nhiệm vụ được luật pháp quy định.

3. Các yếu tố tác động đến quân đội tham gia xây dựng đời sống văn hóa vùng dân tộc thiểu số phía Bắc

3.1 Nhóm yếu tố khách quan

a. Tác động tích cực

Một là, đường lối, chủ trương đúng đắn của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước là yếu tố định hướng, tạo hành lang pháp lý thuận lợi. Hệ thống các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, đặc biệt là các chính sách trong Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đã tạo ra nguồn lực và cơ chế để quân đội triển khai hoạt động. Việc Nhà nước chính thức giao Bộ Quốc phòng chủ trì các tiểu dự án như “Phát triển kinh tế xã hội – mô hình bộ đội gắn với dân bản” theo Quyết định số 1719/QĐ-TTg là minh chứng rõ nét, tạo điều kiện thuận lợi để các đơn vị quân đội chủ động, tích cực tham gia vào đời sống của đồng bào.

Hai là, sự phối hợp, ủng hộ của cấp ủy, chính quyền và Nhân dân địa phương. Sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị địa phương đã tạo nên sức mạnh tổng hợp. Cơ chế phối hợp giữa các đơn vị quân đội (đặc biệt là Bộ đội Biên phòng, các đoàn kinh tế quốc phòng) với chính quyền xã, thôn, bản ngày càng chặt chẽ, giúp các hoạt động được triển khai đồng bộ, hiệu quả, giải quyết kịp thời các vấn đề nảy sinh. Quan trọng hơn, sự tin tưởng, yêu mến và ủng hộ của đồng bào các dân tộc chính là yếu tố nền tảng, tạo điều kiện để bộ đội thực hiện tốt phương châm “cùng ăn, cùng ở, cùng làm, cùng nói tiếng dân tộc”.

Ba là, các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc là nguồn tài nguyên tinh thần quý giá. Nền văn hóa đa dạng, phong phú của các dân tộc thiểu số ở các tỉnh phía Bắc với những lễ hội, phong tục, tri thức dân gian đặc sắc là chất liệu vô cùng thuận lợi để quân đội phối hợp với địa phương triển khai các hoạt động bảo tồn và phát huy. Việc tham gia phục dựng các lễ hội, hỗ trợ các đội văn nghệ quần chúng, sưu tầm các làn điệu dân ca… không chỉ góp phần giữ gìn bản sắc dân tộc mà còn là cách thức hiệu quả để tăng cường sự gắn kết quân – dân.

b. Tác động tiêu cực 

Thứ nhất, điều kiện kinh tế – xã hội và hạ tầng văn hóa còn nhiều yếu kém, địa hình hiểm trở, kinh tế chậm phát triển, tỷ lệ hộ nghèo cao, hạ tầng giao thông, y tế, giáo dục còn thiếu thốn là rào cản lớn nhất. Đời sống vật chất khó khăn khiến người dân ít có điều kiện tham gia các hoạt động văn hóa, tinh thần. Hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở như nhà văn hóa, thư viện, sân chơi thể thao… vừa thiếu, vừa yếu, chưa đáp ứng được nhu cầu của nhân dân, gây khó khăn cho việc tổ chức các hoạt động văn hóa tập trung.

Thứ hai, sự tồn tại dai dẳng của các hủ tục, tập quán lạc hậu. Các vấn đề như tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống, ma chay, cưới hỏi rườm rà, tốn kém, tư tưởng trông chờ ỷ lại vào Nhà nước… vẫn còn tồn tại ở một số nơi. Đây là những “rào cản văn hóa” khó thay đổi trong một sớm một chiều, đòi hỏi công tác tuyên truyền, vận động phải hết sức kiên trì, khéo léo và lâu dài.

Thứ ba, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch. Các thế lực thù địch, phản động không ngừng lợi dụng vấn đề “dân tộc”, “tôn giáo”, “dân chủ” để tuyên truyền, kích động, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc. Hoạt động của các tà đạo, đạo lạ diễn biến phức tạp, gây mất ổn định an ninh chính trị. Thực tế trong những năm qua, các lực lượng quân đội đã phối hợp ngăn chặn 1.278 vụ/12.248 lượt người tham gia sinh hoạt đạo trái pháp luật5, cho thấy tính chất phức tạp của mặt trận đấu tranh này. Hoạt động của chúng không chỉ làm xáo trộn đời sống tín ngưỡng lành mạnh mà còn trực tiếp chống phá các nỗ lực xây dựng đời sống văn hóa của Đảng, Nhà nước và quân đội.

3.2 Nhóm yếu tố chủ quan

a. Tác động tích cực

Một là, nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, chỉ huy và cán bộ, chiến sĩ không ngừng được nâng cao. Quán triệt sâu sắc các chỉ thị, nghị quyết của Đảng và Quân ủy Trung ương, đặc biệt là Chỉ thị số 572-CT/QUTW, cấp ủy, chỉ huy các cấp đã xác định đây là nhiệm vụ chính trị trọng tâm, thường xuyên. Nhận thức “giúp dân là tự giúp mình”, xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc chính là xây dựng tiềm lực quốc phòng đã trở thành tư tưởng chủ đạo trong hành động của đa số cán bộ, chiến sĩ.

Hai là, năng lực, trình độ và kỹ năng công tác dân vận của bộ đội ngày càng được chú trọng bồi dưỡng. Toàn quân đã tổ chức bồi dưỡng kiến thức dân tộc cho 236.924 lượt cán bộ; bồi dưỡng tiếng dân tộc cho 5.325 cán bộ. Riêng Bộ đội Biên phòng đã tổ chức gần 500 lớp bồi dưỡng kiến thức dân tộc cho trên 10.000 lượt cán bộ, chiến sĩ6. Việc am hiểu phong tục, tập quán và nói được tiếng đồng bào là “chìa khóa” quan trọng giúp bộ đội gần dân, hiểu dân và thực hiện công tác vận động quần chúng hiệu quả hơn.

Ba là, nhiều mô hình, cách làm sáng tạo, hiệu quả đã được xây dựng và nhân rộng. Thực tiễn công tác đã làm nảy sinh nhiều mô hình tiêu biểu, có sức lan tỏa lớn, thể hiện sự sáng tạo và tấm lòng của Bộ đội Cụ Hồ. Có thể kể đến các mô hình, như: “Hũ gạo vì người nghèo”, “Bò giống giúp người nghèo biên giới”, “Nâng bước em đến trường – Con nuôi Đồn Biên phòng”, “Tiếng loa biên giới”, “Thầy giáo quân hàm xanh”, “Thầy thuốc quân hàm xanh”7. Các mô hình này không chỉ hỗ trợ vật chất mà còn có ý nghĩa tinh thần to lớn, trực tiếp góp phần xây dựng đời sống văn hóa lành mạnh, tiến bộ.

b. Tác động tiêu cực 

Thứ nhất, nhận thức và năng lực của một bộ phận cán bộ, chiến sĩ còn hạn chế. Một số ít cán bộ, chỉ huy chưa nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của công tác dân tộc, việc cụ thể hóa chính sách còn hạn chế. Kiến thức về dân tộc, văn hóa, phong tục tập quán và kỹ năng vận động quần chúng của một bộ phận cán bộ, chiến sĩ chưa đáp ứng được yêu cầu, dẫn đến việc triển khai hoạt động có lúc còn lúng túng, hiệu quả chưa cao.

Thứ hai, nội dung, hình thức hoạt động có lúc, có nơi còn chưa phong phú, hấp dẫn. Công tác tuyên truyền, vận động ở một số đơn vị đôi khi còn mang tính hình thức, chưa thực sự sát với đối tượng và đặc điểm tâm lý của đồng bào. Việc nhân rộng các mô hình hay, cách làm tốt có nơi còn chậm, chưa kịp thời.

Thứ ba, công tác phối hợp đôi khi còn vướng mắc, bất cập. Mặc dù đã có cơ chế chung nhưng sự phối hợp giữa một số đơn vị với cấp ủy, chính quyền địa phương trong triển khai các chương trình, dự án đôi khi còn chưa thực sự đồng bộ, hiệu quả một số dự án phát triển kinh tế, văn hóa chưa cao.

Qua phân tích thực trạng các yếu tố tác động, có thể thấy, những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước và Quân ủy Trung ương, hoạt động tham gia xây dựng đời sống văn hóa của Quân đội nhân dân Việt Nam ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số nói chung và vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở các tỉnh phía Bắc nói riêng đã đạt được những thành tựu rất quan trọng. Các yếu tố tích cực, đặc biệt là yếu tố chủ quan từ phía quân đội, đã đóng vai trò chủ đạo. Quân đội đã thực sự là lực lượng nòng cốt, xung kích trên mặt trận này, góp phần làm thay đổi diện mạo văn hóa, xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Cụ thể, toàn quân đã giúp dân làm mới, sửa chữa 6.427 km đường giao thông nông thôn, 3.216 cầu dân sinh; hỗ trợ hơn 5,7 triệu ngày công lao động; tặng 24.000 con bò giống; tham gia khám bệnh cho gần 1.7 triệu lượt người; vận động 87.041 học sinh trở lại trường…8. Đặc biệt, quân đội đã tham gia tích cực vào việc bảo tồn các di sản văn hóa, như: múa Xòe Thái, hát Then của dân tộc Tày…

Tuy nhiên, hoạt động này vẫn còn đối mặt với những “điểm nghẽn” và hạn chế nhất định. Điểm nghẽn lớn nhất đến từ các yếu tố khách quan là điều kiện kinh tế – xã hội còn quá khó khăn và hạ tầng văn hóa yếu kém. Bên cạnh đó, các hạn chế từ yếu tố chủ quan như nhận thức, năng lực của một bộ phận cán bộ và sự phối hợp chưa đồng bộ cũng là những rào cản cần khắc phục. Nguyên nhân của những hạn chế chủ yếu xuất phát từ việc một số cấp ủy, chỉ huy chưa thực sự quyết liệt trong lãnh đạo, chỉ đạo; công tác bồi dưỡng, tập huấn kiến thức dân tộc, kỹ năng dân vận cho bộ đội có lúc chưa được quan tâm đúng mức và cơ chế phối hợp liên ngành cần được hoàn thiện hơn nữa để tháo gỡ các vướng mắc, bất cập trong thực tiễn.

4. Một số giải pháp trọng tâm

Một là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các chủ thể trong tham gia xây dựng đời sống văn hóa vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở các tỉnh phía Bắc.

Giải pháp này có tính chất then chốt, quyết định trực tiếp đến chất lượng hoạt động tham gia của Quân đội nhân dân Việt Nam, vì vậy, cần tăng cường công tác giáo dục chính trị, quán triệt sâu sắc các nghị quyết, chỉ thị về công tác dân tộc, văn hóa, không chỉ dừng lại ở việc phổ biến văn bản mà phải gắn với các tình huống, ví dụ thực tiễn sinh động tại địa bàn để mỗi cán bộ, chiến sĩ thực sự thấm nhuần. Song song đó, tiếp tục đổi mới căn bản chương trình đào tạo, bồi dưỡng trong các nhà trường quân đội, đưa nội dung về văn hóa các dân tộc thiểu số, kỹ năng giao tiếp liên văn hóa, kỹ năng xử lý các tình huống nhạy cảm về tín ngưỡng, tôn giáo thành nội dung bắt buộc. Đồng thời, phải tiếp tục đẩy mạnh và thực chất hóa phong trào học tiếng dân tộc, coi đây là một tiêu chí quan trọng trong đánh giá, sử dụng cán bộ, nhằm khắc phục triệt để rào cản ngôn ngữ, thực hiện hiệu quả phương châm “nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin”.

Hai là, đổi mới nội dung, vận dụng linh hoạt, sáng tạo các hình thức, biện pháp của quân đội tham gia xây dựng văn hóa vùng dân tộc thiểu số phía Bắc.

Trong đó, cần có sự chuyển đổi mạnh mẽ từ phương thức tuyên truyền một chiều sang đối thoại, tương tác hai chiều, tôn trọng và phát huy vai trò của các già làng, trưởng bản, người có uy tín trong việc làm cầu nối, truyền tải thông điệp. Các hình thức hoạt động cần được đa dạng hóa, kết hợp nhuần nhuyễn giữa phương pháp truyền thống (tổ chức lễ hội, biểu diễn văn nghệ, nói chuyện chuyên đề) với việc ứng dụng công nghệ hiện đại. Cụ thể là xây dựng các sản phẩm truyền thông số (video ngắn, infographic) để phổ biến qua mạng xã hội, Zalo và phối hợp với địa phương triển khai hiệu quả Chương trình số hóa Di sản văn hóa Việt Nam. Thay vì dàn trải, cần lựa chọn đầu tư có trọng điểm vào các mô hình có chiều sâu, tạo ra hiệu quả kép cả về vật chất và tinh thần như mô hình “Con nuôi Đồn Biên phòng”.

Ba là, phối hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền địa phương trong tham gia xây dựng đời sống văn hóa vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Thực tiễn cho thấy, mọi hoạt động của Quân đội nhân dân Việt Nam, dù với mục đích tốt đẹp đến đâu, nếu triển khai một cách đơn lẻ, thiếu sự gắn kết và đồng thuận với cấp ủy, chính quyền địa phương thì hiệu quả sẽ bị hạn chế, thậm chí có thể gây ra những chồng chéo hoặc không phù hợp với quy hoạch, kế hoạch phát triển chung của địa phương. Sự phối hợp không thể chỉ dừng lại ở các văn bản mang tính nguyên tắc chung mà cần được thể chế hóa bằng các quy chế, chương trình hành động cụ thể, chi tiết cho từng năm, từng giai đoạn. Các văn bản này phải phân định rõ trách nhiệm, quyền hạn, nội dung và cơ chế phối hợp của từng lực lượng (Bộ đội Biên phòng, các đơn vị chủ lực, các đoàn kinh tế – quốc phòng) trong từng nhiệm vụ cụ thể, từ việc khảo sát, lập kế hoạch đến triển khai và đánh giá hiệu quả. 

Cần duy trì nghiêm túc và nâng cao chất lượng chế độ giao ban định kỳ (hằng quý, 6 tháng) giữa lãnh đạo đơn vị quân đội và địa phương. Các cuộc giao ban cần phải thực chất trong việc trao đổi thông tin, thẳng thắn chỉ ra những vướng mắc và cùng nhau thống nhất giải pháp tháo gỡ ngay. Đặc biệt, sự phối hợp phải hướng đến việc lồng ghép sâu rộng các hoạt động của quân đội vào chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội, xây dựng nông thôn mới của địa phương, tạo sự đồng bộ, thống nhất, tránh chồng chéo, phát huy tối đa nguồn lực để cùng thực hiện mục tiêu chung.

Bốn là, bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách và các điều kiện bảo đảm cho các lực lượng trong quân đội.

Đây là giải pháp có vị trí nền tảng, tạo hành lang pháp lý và nguồn lực vật chất, quyết định tính ổn định, bền vững và hiệu quả thực chất của toàn bộ hoạt động tham gia xây dựng đời sống văn hóa vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở các tỉnh phía Bắc của Quân đội nhân dân Việt Nam. Do đó, cần có những chính sách đãi ngộ cụ thể, vượt trội và xứng đáng hơn đối với cán bộ, chiến sĩ công tác lâu dài tại các địa bàn khó khăn, vùng sâu, vùng xa. Các chính sách này không chỉ là ưu tiên trong quy hoạch, bổ nhiệm, phong, thăng quân hàm mà còn cần các chế độ phụ cấp đặc thù, hỗ trợ về nhà ở, đất ở, tạo điều kiện cho con em được học tập ở những môi trường tốt hơn. 

Về nguồn lực, cần nghiên cứu để có một mục chi ngân sách riêng, ổn định cho hoạt động này trong các chương trình mục tiêu quốc gia, thay vì phụ thuộc vào các nguồn kinh phí lồng ghép, không ổn định. Đồng thời, cần tăng cường đầu tư có trọng điểm từ ngân sách quốc phòng cho việc xây dựng, nâng cấp các thiết chế văn hóa tại các đồn, trạm, các khu kinh tế – quốc phòng để vừa phục vụ bộ đội, vừa làm nơi sinh hoạt văn hóa chung cho Nhân dân, mua sắm các trang thiết bị hiện đại (máy chiếu, âm thanh, máy tính…) phục vụ hoạt động. Chính sách mạnh và nguồn lực đủ là điều kiện vật chất tiên quyết để biến quyết tâm chính trị thành kết quả thực tiễn bền vững.

5. Kết luận

Hoạt động tham gia xây dựng đời sống văn hóa vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở các tỉnh phía Bắc của Quân đội là một quá trình phức hợp, chịu sự tác động biện chứng của nhiều yếu tố bao gồm cả yếu tố chủ quan và khách quan. Việc luận giải, làm rõ những tác động tích cực và tiêu của của các yếu tố đó chính là tiền đề khách quan để hoạch định các giải pháp chiến lược nhằm nâng cao hiệu quả các hoạt động của Quân đội trong quá trình thực hiện nhiệm vụ này. Do đó, việc triển khai đồng bộ, toàn diện hệ thống các giải pháp được đề xuất sẽ tạo đòn bẩy then chốt, tạo nên những chuyển biến thực chất về văn hóa – xã hội, góp phần củng cố vững chắc “thế trận lòng dân”, đáp ứng yêu cầu chiến lược của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Chú thích:

1, 4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 47, 110.

2. V.I.Lênin (1970). Về văn hóa và cách mạng văn hóa. NXB Tiến bộ, Matxcơva, tr. 107.

3. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 6. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 232 – 234.

5, 6, 7, 8. Quân ủy Trung ương (2022). Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị số 572-CT/QUTW ngày 05/10/2012 về “Quân đội thực hiện công tác dân tộc trong tình hình mới”. Hà Nội, tr. 3, 7, 5, 5.

Tài liệu tham khảo:

1. Quân ủy Trung ương (2025). Báo cáo Chính trị của Quân ủy Trung ương nhiệm kỳ 2015 – 2020 tại Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ XI, nhiệm kỳ 2020 – 2025

2. Quốc hội (2025). Nghị quyết số 202/2025/QH15 ngày 12/6/2025 về việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh.

3. Thủ tướng Chính phủ (2021). Quyết định số 1719/QD-TTg ngày14/10/2021 phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 – 2030, giai đoạn I: từ năm 2021  2025.