ThS. Nguyễn Minh Anh
Trường Đại học FPT
(Quanlynhanuoc.vn) – Bình đẳng nam – nữ là một trong những giá trị cốt lõi của tiến bộ và công bằng xã hội, được Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm và thể hiện xuyên suốt trong tư tưởng chính trị của Người. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, bình đẳng giới không chỉ là quyền cơ bản của con người mà còn là điều kiện tất yếu để giải phóng dân tộc, giai cấp và xây dựng xã hội mới. Tư tưởng Hồ Chí Minh về bình đẳng giới bao hàm nhiều nội dung phong phú và toàn diện: từ quyền chính trị (bầu cử, ứng cử, tham gia lãnh đạo) đến quyền được học tập, lao động, phát triển cá nhân và cống hiến cho xã hội. Việc tiếp tục nghiên cứu, kế thừa và vận dụng tư tưởng của Người là nhiệm vụ quan trọng nhằm thúc đẩy bình đẳng giới và phát triển xã hội toàn diện trong giai đoạn hiện nay.
Từ khóa: Bình đẳng nam nữ; tham gia chính trị; chính sách bình đẳng giới; tư tưởng Hồ Chí Minh.
1. Đặt vấn đề
Bình đẳng giới là một trong những tiêu chí quan trọng phản ánh mức độ tiến bộ, công bằng và văn minh của một quốc gia. Trong tiến trình phát triển của dân tộc Việt Nam, đặc biệt là trong tư tưởng Hồ Chí Minh – người sáng lập và lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam, vấn đề bình đẳng nam – nữ luôn được đề cao như một nội dung trọng tâm của sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng con người. Tư tưởng chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh về bình đẳng giới không chỉ có giá trị lý luận sâu sắc mà còn mang tính thực tiễn cao, trở thành nền tảng tư tưởng cho đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong suốt quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong bối cảnh hiện nay, khi Việt Nam đang hội nhập sâu rộng vào đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa quốc tế, việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về bình đẳng nam – nữ không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn có giá trị chỉ đạo thực tiễn quan trọng nhằm tiếp tục nâng cao vị thế của phụ nữ, khắc phục các rào cản về giới, phát triển xã hội bền vững. Do đó, việc làm rõ những nội dung cốt lõi và giá trị thời đại về bình đẳng giới trong tư tưởng Hồ Chí Minh là yêu cầu cấp thiết của kỷ nguyên mới.
2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về bình đẳng nam nữ
Thứ nhất, bình đẳng giới là quyền con người cơ bản. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, bình đẳng nam -nữ trước hết là quyền con người. Người khẳng định: “Phụ nữ cũng là con người. Họ có quyền hưởng tự do, độc lập như nam giới”1. Đây không đơn thuần là triết lý là một tuyên ngôn về đạo đức xã hội mà còn là cơ sở triết lý cho mọi chính sách bình đẳng sau này. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện sự tiếp thu có chọn lọc tinh thần cách mạng tư sản phương Tây về nhân quyền, đồng thời tích hợp sâu sắc với tinh thần yêu nước, truyền thống tôn trọng phụ nữ trong văn hóa Việt Nam. Tư tưởng này xác lập nguyên lý bình đẳng giới không phải sự nhân nhượng mà là khẳng định quyền vốn có của con người.
Việc khẳng định bình đẳng là quyền con người mang ý nghĩa cách mạng trong bối cảnh lịch sử Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, khi phần lớn phụ nữ bị giam hãm trong tư tưởng phong kiến, chịu nhiều thiệt thòi trong học tập, lao động và tham chính. Người đã phản biện mạnh mẽ hệ giá trị lạc hậu; đồng thời,thúc đẩy việc phá bỏ mọi hình thức kỳ thị, phân biệt đối xử dựa trên giới tính, một điều chưa từng có trong tiền lệ trong tư tưởng chính trị Việt Nam thời kỳ đó. Quan niệm này đặt nền tảng cho việc xóa bỏ sự kỳ thị, phân biệt đối xử và bất bình đẳng trong xã hội đối với phụ nữ. Đối với Người, sự tiến bộ của xã hội không thể chỉ được đo bằng phát triển kinh tế – kỹ thuật mà còn phải được đánh giá thông qua sự phát triển và giải phóng con người, trong đó giải phóng phụ nữ là một phần không thể tách rời. Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản”2.
Thứ hai, giải phóng phụ nữ là bộ phận của giải phóng dân tộc và giai cấp. Tư tưởng Hồ Chí Minh gắn giải phóng phụ nữ với giải phóng dân tộc và giai cấp. Trong bối cảnh xã hội Việt Nam dưới ách thực dân phong kiến, phụ nữ không những bị áp bức bởi giới tính mà còn bởi giai cấp và dân tộc. Trong tác phẩm “Đường Kách mệnh”, Người nhấn mạnh: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không thể không giải phóng phụ nữ”3. Đây là quan điểm xuyên suốt trong quá trình lãnh đạo cách mạng, đặt phụ nữ vào vị trí trung tâm của công cuộc đổi mới xã hội và giải phóng con người. Sự áp bức mà phụ nữ phải chịu trong thời kỳ thực dân – phong kiến là sự giao thoa giữa ba tầng áp bức: giai cấp, dân tộc và giới tính. Người nhận diện rõ ràng nếu không giải phóng phụ nữ thì công cuộc cách mạng sẽ mất một nửa sức mạnh. Chính vì vậy, trong nhiều bài viết và phát biểu người luôn kêu gọi phụ nữ “tự giải phóng” bằng cách học tập, lao động, tham gia hoạt động xã hội và chính trị.
Tư tưởng này thể hiện nhãn quan chính trị sắc bén của Người, khi Người không chỉ cổ vũ phụ nữ (người được giải phóng) mà còn là chủ thể tự giải phóng, tích cực tham gia vào tiến trình cách mạng. Quan điểm này cũng mở đường cho sự hình thành lý luận về chủ thể hóa phụ nữ, vượt khỏi tư duy phụ hệ thống. Người chỉ rõ: “Đàn bà, con gái cũng nằm trong nhân dân. Nếu cả dân tộc được tự do, đương nhiên họ cũng được tự do”4 và không thể có xã hội công bằng nếu phụ nữ còn bị bóc lột, bị phân biệt đối xử. Giải phóng phụ nữ là một nội dung không thể thiếu của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ đặt phụ nữ vào vị trí “đối tượng cần đươc bảo vệ” mà còn nâng họ lên thành chủ thể cách mạng.
Thứ ba, bình đẳng về quyền chính trị (bầu cử, ứng cử, lãnh đạo). Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đầu tiên đưa quyền chính trị của phụ nữ vào các văn bản pháp lý quan trọng. Trong Hiến pháp năm 1946 – bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã nêu rõ: “Phụ nữ Việt Nam có quyền bầu cử và ứng cử ngang với nam giới” (Điều 18). Quy định này thể hiện bước tiến vượt bậc trong nhận thức và thực thi quyền con người đặc biệt là trong bối cảnh lịch sử khi nhiều quốc gia phát triển vẫn còn tranh luận hoặc hạn chế về quyền chính trị của phụ nữ.
Tư tưởng Hồ Chí Minh không dừng lại ở việc công nhận trên danh nghĩa mà còn được hiện thực hóa qua việc khuyến khích phụ nữ tham gia lãnh đạo, đảm nhiệm các vai trò trong bộ máy chính quyền, tổ chức đoàn thể, tổ chức chính trị – xã hội, Quốc hội, phụ nữ nắm giữ các vị trí lãnh đạo quan trọng trong Đảng, Nhà nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng thường xuyên chỉ đạo các tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể, phải chú ý bồi dưỡng, đề bạt cán bộ nữ, xem đây là trách nhiệm chiến lược chứ không phải chính sách ngắn hạn. Điều này thể hiện một tư duy vượt thời đại, đặt nền móng cho chính sách phát triển nguồn nhân lực nữ và lồng ghép về bình đẳng nam nữ trong kế hoạch quốc gia hiện nay. Đây là một bước tiến vượt bậc, thể hiện tầm nhìn tiến bộ của Người trong việc khẳng định vai trò chính trị của phụ nữ, tạo điều kiện để họ trở thành chủ thể tích cực trong đời sống chính trị – xã hội. Tư tưởng của Người không chỉ đặt nền móng cho quá trình dân chủ hóa đời sống, chính trị, xã hội ở Việt Nam mà còn thể hiện rõ nguyên tắc “nam nữ bình quyền” là điều kiện thiết yếu để xây dựng một xã hội công bằng và phát triển bền vững.
Thứ tư, bình đẳng trong học tập, lao động và tham gia xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, phụ nữ phải có điều kiện học tập, lao động, tham gia các hoạt động xã hội như nam giới. Người phản đối việc giam hãm phụ nữ trong gian bếp hay chỉ xem họ là lao động sinh sản. Người chủ trương tạo điều kiện để phụ nữ vươn lên, khẳng định mình trong các lĩnh vực kinh tế, giáo dục, khoa học, văn hóa. Điều này không chỉ thể hiện tư tưởng tiến bộ mà còn mang tính cách mạng trong việc phá vỡ những ràng buộc của xã hội phong kiến đối với vai trò của người phụ nữ.
Ngay trong thời điểm phát động phong trào tiêu diệt “giặc dốt”, phong trào thi đua “Bình dân học vụ”của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã có nhiều phụ nữ tham gia dạy học ở mọi lúc, mọi nơi cho những người chưa biết chữ. Bên cạnh đó, theo Người, bình đằng nam nữ không thể chỉ là sự ngang bằng về mặt chính trị hay pháp lý mà còn được cụ thể hóa trong các lĩnh vực thiết thực, như: giáo dục, lao động và đời sống xã hội. Người phản đối mạnh mẽ việc giam hãm phụ nữ trong bếp hay chỉ xem họ chỉ để lao động sinh sản.Đồng thời, Người đã chủ trương tạo điều kiện cho phụ nữ vươn lên bằng chính khả năng trong lao động sản xuất, nghiên cứu khoa học quản lý kinh tế – xã hội. Điều này góp phần xóa bỏ định kiến và nâng cao giá trị của người phụ nữ.
Quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phát triển phụ nữ không tách rời khỏi phát triển đất nước. Phụ nữ được xem là “lực lượng cách mạng” là “một nửa của xã hội”, do đó, sự phát triển của phụ nữ chính là thước đo của sự phát triển quốc gia.
Thứ năm, quan niệm về vai trò, vị thế và trách nhiệm của phụ nữ. Người không chỉ nhìn nhận phụ nữ như những đối tượng cần được bảo vệ trước sự bất công mà phải đề cao phụ nữ như một lực lượng quan trọng, có vai trò to lớn trong sự nghiệp cách mạng và phát triển đất nước. Ngay từ những năm đầu của cách mạng, Người đã thể hiện rõ tư tưởng tiến bộ khi khẳng định rằng phụ nữ không chỉ là nạn nhân của chế độ phong kiến lạc hậu và sự áp bức thuộc địa mà còn là những người lao động, những chiến sĩ dũng cảm, đầy trí tuệ và phẩm chất đạo đức.
Một trong những dấu ấn sâu đậm nhất của Người trong triển khai bình đẳng giới là việc sáng lập và trực tiếp chỉ đạo tổ chức Hội Phụ nữ cứu quốc – tiền thân của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam. Người coi đây là cánh tay nối dài của Đảng trong việc vận động phụ nữ và là kim chỉ nam xuyên suốt cho công tác phụ nữ, từ chiến tranh đến hòa bình. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam không ngừng trưởng thành; không chỉ bảo vệ quyền lợi của phụ nữ mà còn là trường học lớn rèn luyện chính trị, năng lực lãnh đạo cho đội ngũ cán bộ nữ, từ đó, góp phần cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cho Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị – xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, phụ nữ là lực lượng cách mạng quan trọng. Ngày 08/3/1952, trong thư gửi phụ nữ Việt Nam nhân dịp kỷ niệm khởi nghĩa Hai Bà Trưng và ngày Quốc tế Phụ nữ, Người nhấn mạnh: “Non sông gấm vóc Việt Nam do phụ nữ ta, trẻ cùng già, ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp, rực rỡ ”5. Tư tưởng này đề cao vai trò chủ động, tích cực của phụ nữ trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước; đồng thời, cũng nhiều lần biểu dương tinh thần bất khuất, sự hy sinh cao cả của phụ nữ Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ; đồng thời, kêu gọi Đảng, Nhà nước và toàn xã hội phải quan tâm, chăm lo, bồi dưỡng phụ nữ để họ có điều kiện cống hiến và phát triển toàn diện.
3. Thực tiễn triển khai chính sách về bình đẳng nam nữ theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Trong Cách mạng Tháng Tám và kháng chiến chống Pháp, phụ nữ đã đóng vai trò quan trọng, then chốt trong việc vận động quần chúng nổi dậy giành chính quyền ở nhiều địa phương. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ đã thúc đẩy hàng triệu người phụ nữ bước ra khỏi gian bếp, tham gia vào đời sống chính trị – xã hội. Ngay từ Cách mạng Tháng Tám (1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh vai trò của phụ nữ trong giành chính quyền và xây dựng chính thể mới. Phụ nữ không chỉ tham gia khởi nghĩa mà còn giữ vai trò trong chính quyền cách mạng. Trong kháng chiến chống Pháp, hàng triệu phụ nữ đã trở thành lực lượng hậu cần, dân công hỏa tuyến, tham gia sản xuất, nuôi quân, tiếp tế, y tá, chiến sĩ du kích trực tiếp chiến đấu, cho thấy sự vận dụng tư tưởng bình đẳng giới của Hồ Chí Minh vào thực tiễn đấu tranh cách mạng.
Sau năm 1954, khi đất nước bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, phụ nữ giữ vai trò nòng cốt các lĩnh vực chính trị, giáo dục, y tế, văn hóa – xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh biểu dương: “Phụ nữ Việt Nam anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”6 – một cụm từ khái quát, nhưng chính xác và đầy sức truyền cảm hứng.
Ngay từ Hiến pháp năm 1946, quyền bình đẳng của phụ nữ đã được pháp điển hóa, quy định rõ: “Tất cả công dân Việt Nam đều có quyền bình đẳng trước pháp luật. Phụ nữ Việt Nam có quyền bầu cử và ứng cử ngang với nam giới” (Điều 18). Đây không chỉ là một bước tiến vượt bậc trong lịch sử lập pháp Việt Nam mà còn là minh chứng sinh động cho việc thể chế hóa tư tưởng Hồ Chí Minh ngay từ những ngày đầu lập quốc. Các bản Hiến pháp tiếp theo (1959, 1980, 1992, 2013) đều tiếp tục khẳng định nguyên tắc bình đẳng giới, mở rộng quyền lợi của phụ nữ trong các lĩnh vực kính tế, chính trị, văn hóa và xã hội. Tất cả những văn bản này là kết quả của một quá trình kế thừa và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về bình đẳng giới, tạo ra nền tảng pháp lý quan trọng cho việc bảo vệ quyền và phát huy vai trò của phụ nữ trong sự nghiệp xây dựng đất nước.
Tư tưởng Hồ Chí Minh cũng được thể hiện trong các văn kiện Đại hội Đảng, trong đó xác định phụ nữ là lực lượng quan trọng trong sự nghiệp cách mạng, cần được tạo điều kiện phát triển toàn diện. Người khởi xướng và chỉ đạo việc thành lập Hội Phụ nữ cứu quốc, tiền thân của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, đồng thời coi tổ chức phụ nữ là cánh tay nối dài của Đảng trong vận động nữ giới. Tư tưởng này trở thành nền tảng chỉ đạo xuyên suốt cho công tác vận động nữ giới của Đảng và Nhà nước.
Nhờ những tư tưởng chỉ đạo sâu sắc và chính sách cụ thể, phụ nữ Việt Nam ngày càng khẳng định vai trò trong đời sống chính trị – xã hội. Trong thời kỳ chiến tranh và hậu chiến, phụ nữ tham gia vào Quốc hội, các tổ chức đoàn thể, giữ các chức vụ lãnh đạo trong các ngành. Trong sản xuất, giáo dục, y tế, phụ nữ chiếm tỷ lệ cao và ngày càng có nhiều đóng góp nổi bật.
Trong quá trình triển khai tư tưởng Hồ Chí Minh, đã xuất hiện nhiều tấm gương phụ nữ tiêu biểu,như: Nguyễn Thị Minh Khai, Võ Thị Sáu, Nguyễn Thị Định, chị Út Tịch, mẹ Suốt… Họ là minh chứng sống động cho sự khẳng định vai trò, vị thế của phụ nữ trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Những tấm gương đó không chỉ hiện thân cho lòng dũng cảm, sự hy sinh mà còn là minh chứng cho tinh thần chủ động, sáng tạo của phụ nữ Việt Nam – điều mà Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn kỳ vọng và đánh giá cao.
3. Giá trị và ý nghĩa thời đại của tư tưởng Hồ Chí Minh về bình đẳng giới
Một là, góp phần hoàn thiện hệ tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người. Trong toàn bộ hệ thống tư tưởng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặt con người vào vị trí trung tâm của cách mạng. Quyền con người, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là quyền sống mà còn là quyền được phát triển toàn diện, trong đó bình đẳng giới là một phần không thể thiếu.
Quan điểm “Phụ nữ cũng là con người” không đơn giản là một điều hiển nhiên mà còn là tuyên ngôn chính trị mang tính nền tảng. Tư tưởng bình đẳng giới là một phần quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người. Người không xem quyền phụ nữ là vấn đề phụ thuộc mà là vấn đề trung tâm trong công cuộc giải phóng dân tộc, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nhờ đó, tư tưởng của Người đã góp phần hình thành nên nền tảng chính trị cho chính sách bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay.
Hai là, khẳng định vai trò của phụ nữ trong sự nghiệp cách mạng. Tư tưởng Hồ Chí Minh giúp khẳng định vai trò không thể thay thế của phụ nữ trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Từ vai trò trong kháng chiến đến thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế, phụ nữ tiếp tục chứng minh năng lực trên mọi lĩnh vực. Điều này là minh chứng cho tính đúng đắn và bền vững của tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy toàn diện tiềm năng con người.
Ba là, cơ sở lý luận cho chính sách bình đẳng giới hiện nay. Các chính sách, pháp luật, như: Luật Bình đẳng giới, chiến lược quốc gia về bình đẳng giới… đều xuất phát từ tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là cam kết chính trị nhất quán của Đảng, Nhà nước trong việc xây dựng xã hội không phân biệt giới tính, tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện.
Bốn là, phù hợp với xu thế phát triển nhân loại. Tư tưởng Hồ Chí Minh có tính vượt thời đại. Trong khi nhiều quốc gia vẫn còn tồn tại tư tưởng gia trưởng, phân biệt giới thì Người đã sớm nhận thức và đưa ra quan điểm tiến bộ, nhân văn, bình đẳng, thể hiện sự tiên phong trong nhận thức về vai trò của giới trong phát triển xã hội. Tư tưởng đó phù hợp với Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW), các Mục tiêu phát triển bền vững của Liên hiệp quốc (SDGs).
Năm là, gợi mở cho công tác đào tạo, phát triển cán bộ nữ. Chủ tịch Hồ Chí Minh chú trọng việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ. Ngày nay, tư tưởng này đã trở thành một yêu cầu quan trọng trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực. Việc tăng tỷ lệ nữ tham gia cấp ủy, Quốc hội, Chính phủ và lãnh đạo các cơ quan, đơn vị là biểu hiện sinh động của việc hiện thực hóa tư tưởng Hồ Chí Minh.
4. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về bình đẳng nam nữ trong giai đoạn hiện nay
Việt Nam hiện nay là một quốc gia Châu Á có nhiều tiến bộ trong thực hiện bình đẳng giới. Những thành tựu nổi bật trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, giáo dục, y tế phản ánh sự kế thừa và hiện thực hóa tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò và vị thế của phụ nữ. Việt Nam đã đạt nhiều kết quả nổi bật: tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội luôn duy trì ở mức cao so với khu vực; phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào các lĩnh vực quản lý, điều hành; hệ thống pháp luật ngày càng hoàn thiện; nhận thức xã hội về vai trò phụ nữ chuyển biến tích cực. Theo thống kê của UNDP (2023), 26% lãnh đạo cấp cơ sở tại Việt Nam là nữ – cao hơn mức trung bình toàn cầu7.
Trong lĩnh vực pháp luật, Việt Nam đã ban hành và sửa đổi nhiều bộ luật có nội dung bình đẳng giới:Luật Bình đẳng giới năm 2006, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình (sửa đổi, bổ sung năm 2022), Luật Lao động năm 2019… Những điều này không chỉ bảo vệ về quyền lợi phụ nữ mà còn tạo nền tảng pháp lý thúc đẩy sự phát triển và công bằng. Những tiến bộ đó là minh chứng rõ rệt cho tính thời sự và khả năng dẫn dắt thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh, khẳng định các giá trị tư tưởng nhân văn của Người vẫn đang tiếp tục soi đường phát triển của quốc gia trong thời đại mới. Đây là kết quả của quá trình vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về bình đẳng giới.
Dù đã đạt được nhiều thành tựu, thực tiễn vẫn tồn tại, rào cản cần khắc phục, vẫn còn có bất bình đẳng giới trong một số lĩnh vực, như: thu nhập, việc làm, tiếp cận cơ hội lãnh đạo. Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, nữ giới vẫn có thu nhập thấp hơn so với nam giới ở cùng vị trí và trình độ8, tỷ lệ phụ nữ giữ vị trí lãnh đạo cao cấp trong doanh nghiệp còn khiêm tốn, các công việc mang tính phi chính thức, như:chăm sóc, nội trợ, lao động không lương chủ yếu do phụ nữ đảm nhiệm. Định kiến giới vẫn còn hiện hữu, trọng nam khinh nữ, đặc biệt ở khu vực nông thôn và miền núi vẫn còn sâu sắc. Các tập tục, văn hóa, tín ngưỡng, trọng nam khinh nữ vẫn còn đè nặng lên nhận thức xã hội và ảnh hưởng đến lựa chọn nghề nghiệp, học tập và cơ hội thăng tiến của phụ nữ. Hiện tượng tảo hôn, bạo lực giới, tảo hôn, mua bán phụ nữ, đặc biệt là vùng dân tộc thiểu số, tiếp giáp biên giới, nhận thức còn hạn chế cũng là những vấn đề nghiêm trọng, cấp bách cần được quan tâm giải quyết. Đây là những thách thức, đòi hỏi phải tạo nên một sự thay đổi văn hóa, tư duy xã hội sâu sắc về vai trò và giá trị của phụ nữ trong xã hội.
Để tiếp tục hiện thực hóa tư tưởng Hồ Chí Minh về bình đẳng giới trong giai đoạn mới, cần tiếp tục thể chế hóa các quan điểm của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh vào hệ thống pháp luật. Bảo đảm các chính sách phát triển kinh tế – xã hội phải có lồng ghép giới; thực hiện các chương trình hành động quốc gia về bình đẳng giới gắn với các mục tiêu phát triển bền vững.
Phát huy vai trò của các tổ chức Đảng, chính quyền và đoàn thể, trong đó cần nâng cao năng lực của các tổ chức chính trị – xã hội, đặc biệt là Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ. Đồng thời, mỗi cấp ủy đảng cần có chiến lược phát triển cán bộ nữ, bảo đảm tỷ lệ hợp lý trong các cơ quan lãnh đạo.
(1) Tăng cường giáo dục bình đẳng giới trong trường học và truyền thông đại chúng, đẩy mạnh công tác giáo dục và nâng nhận thức của xã hội. tăng cường giáo dục giới tính, xây dựng các hình mẫu truyền thông tích cực về phụ nữ lãnh đạo, phụ nữ khởi nghiệp, phụ nữ trong nghiên cứu khoa học để tạo động lực thay đổi;
(2) Xây dựng chiến lược phát triển cán bộ nữ các cấp. Cần có chỉ tiêu cụ thể về tỷ lệ nữ trong quy hoạch cán bộ, tạo cơ chế bảo đảm sự bình đẳng của phụ nữ vào các vị trí lãnh đạo, khuyến khích doanh nghiệp phát triển nhân lực nữ và hỗ trợ khởi nghiệp;
(3) Đẩy mạnh triển khai mạnh mẽ chương trình xóa mù chữ, đào tạo nghề cho phụ nữ nông thôn, hỗ trợ phụ nữ thế yếu, phụ nữ dân tộc thiểu số, triển khai các lớp tập huấn đào tạo nghề, cho vay vốn ưu đãi, hỗ trợ phụ nữ học nghề tạo điều kiện tiếp cận kinh tế – xã hội bình đẳng cho phụ nữ;
(4) Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam luôn xác định là cánh tay nối dài của Đảng trong công tác chống định kiến giới qua luật pháp, truyền thông, văn hóa; nâng cao vai trò nam giới trong chia sẻ trách nhiệm với phụ nữ, bảo vệ quyền hợp pháp của phụ nữ, mở rộng mạng lưới chi hội, nâng cao năng lực cán bộ nữ ở cơ sở, đặc biệt là vùng khó khăn, dân tộc thiểu số. Những giải pháp này cần được triển khai đồng bộ và toàn diện để hiện thực hóa tư tưởng Hồ Chí Minh về bình đẳng giới trong bối cảnh mới.
5. Kết luận
Tư tưởng Hồ Chí Minh về bình đẳng nam – nữ là một trong những bộ phận quan trọng trong hệ thống tư tưởng chính trị của Người, thể hiện sâu sắc giá trị nhân văn, tiến bộ và cách mạng. Trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, phụ nữ không chỉ là đối tượng được giải phóng mà còn là lực lượng cách mạng, là chủ thể tích cực trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong thời đại mới, tư tưởng Hồ Chí Minh về bình đẳng nam – nữ vẫn giữ nguyên giá trị chỉ đạo đối với công cuộc phát triển đất nước bền vững, công bằng, nhân văn. Đó cũng là kim chỉ nam cho quá trình hoàn thiện pháp luật, phát triển nguồn nhân lực nữ, nâng cao năng lực lãnh đạo của phụ nữ, và bảo đảm một xã hội nơi mọi công dân đều có quyền và điều kiện để phát triển toàn diện.
Chú thích:
1. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 5. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, tr. 568.
2. 6. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 12. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, tr. 30, 562.
3. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 6. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, tr. 232.
4. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 2. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, tr. 506.
5. Bức thư gửi phụ nữ Việt Nam nhân dịp kỷ niệm khởi nghĩa Hai Bà Trưng và ngày Quốc tế Phụ nữđược đăng toàn văn trên báo Nhân Dân, số 49, ngày 13/3/1952.
7. Theo báo cáo mới nhất của UNDP: Việt Nam nằm trong nhóm phát triển con người cao.https://www.undp.org/vi/vietnam/press-releases/theo-bao-cao-moi-nhat-cua-undp-viet-nam-nam-trong-nhom-phat-trien-con-nguoi-cao
8. Tổng cục Thống kê (2023). Niên giám Thống kê năm 2022. H. NXB Thống kê.