NCS. ThS. Trịnh Ngọc Bình
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng
(Quanlynhanuoc.vn) – Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế là một bộ phận cốt lõi trong hệ thống tư tưởng của Người, luôn được coi là nền tảng của độc lập dân tộc, là điều kiện để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong sự nghiệp đổi mới đất nước từ năm 1986 đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong phát triển kinh tế – xã hội vùng. Bài viết đi sâu phân tích giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế, làm rõ kết quả sự vận dụng của Đảng trong lãnh đạo phát triển kinh tế – xã hội vùng trung du và miền núi Bắc Bộ.
Từ khóa: Tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam, Trung du và miền núi Bắc Bộ, phát triển kinh tế – xã hội.
1. Đặt vấn đề
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng khả năng tự vươn lên của đồng bào các dân tộc. Người xác định: việc phát triển kinh tế – văn hóa miền núi là bộ phận quan trọng của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Người thường xuyên quan tâm: “Làm sao cho miền núi và trung du thành một nơi giàu có về nông nghiệp để nâng cao hơn nữa đời sống của nhân dân, để thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa nước nhà”1. Vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ là địa bàn chiến lược, giàu tiềm năng nhưng còn nhiều khó khăn. Vận dụng tư tưởng của Người, Đảng đã lãnh đạo phát triển vùng đạt nhiều thành tựu về kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh. Trong bối cảnh mới, việc tiếp tục khẳng định và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế vào chiến lược phát triển vùng có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, góp phần xây dựng vùng phát triển bền vững.
2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế
Thứ nhất, kinh tế là nền tảng của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Ngay từ khi ra đi tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đã nhận thấy, sự nghèo đói, lạc hậu chính là nguyên nhân sâu xa khiến dân tộc ta bị nô dịch. Người chỉ rõ: “Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”2. Quan điểm ấy khẳng định, độc lập dân tộc không thể tách rời vấn đề cơm no, áo ấm của nhân dân. “Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”3. Phát triển kinh tế vì thế vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng Việt Nam. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, kinh tế không chỉ là phạm trù kinh tế học thuần túy mà còn mang ý nghĩa chính trị – xã hội sâu sắc, kinh tế quyết định sự vững bền của chế độ, là “mặt trận” quan trọng để bảo vệ thành quả cách mạng. Chính vì vậy, Người luôn nhấn mạnh: phải xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ, đồng thời mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế để tranh thủ sức mạnh thời đại.
Thứ hai, phát triển kinh tế nhiều thành phần, khơi dậy mọi nguồn lực.
Một trong những điểm sáng tạo nổi bật của Hồ Chí Minh là quan điểm phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Ngay từ những năm đầu sau Cách mạng tháng Tám – 1945, Người đã khẳng định: “Chính phủ và nhân dân ta phải ra sức làm cho dân có ăn, có mặc, có chỗ ở, có học hành”4. Để đạt được mục tiêu đó, cần phát huy mọi nguồn lực, tiềm năng trong xã hội: kinh tế nhà nước, tập thể, tư nhân, tiểu thương, tiểu chủ… tất cả cùng tồn tại, phát triển vì lợi ích dân tộc và nhân dân. Tư tưởng ấy đã trở thành nền tảng để Đảng ta sau này xác định đường lối phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa – một mô hình phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
Thứ ba, phát triển kinh tế lấy nông nghiệp là gốc, công nghiệp hóa là con đường tất yếu.
Xuất phát từ thực tế Việt Nam là nước nông nghiệp, Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng vai trò của nông nghiệp và nông dân. Người nhấn mạnh: “Nông dân ta giàu thì nước ta giàu, nông nghiệp ta thịnh thì nước ta thịnh”5. Theo Người, phát triển nông nghiệp, cải thiện đời sống nông thôn là nhiệm vụ hàng đầu, bởi “nước ta lấy nghề nông làm gốc”. Tuy nhiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng sớm chỉ ra con đường công nghiệp hóa là tất yếu để đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu. Người khẳng định: “Phải cải tạo và phát triển nông nghiệp để tạo điều kiện cho việc công nghiệp hóa nước nhà. Phải có một nền nông nghiệp phát triển thì công nghiệp mới có thể phát triển mạnh”6.
Thứ tư, gắn phát triển kinh tế với công bằng, tiến bộ xã hội.
Điểm nổi bật trong tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Người cho rằng, phát triển kinh tế không thể chỉ phục vụ lợi ích của một nhóm nhỏ, mà phải hướng tới hạnh phúc của toàn dân. Người căn dặn: “Mục đích của chủ nghĩa xã hội là không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động”7. Tư tưởng này có giá trị đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa, khi nhiều quốc gia phải đối mặt với khoảng cách giàu nghèo gia tăng. Với Việt Nam, đây chính là cơ sở để Đảng xác định phát triển kinh tế đi đôi với bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội, coi con người vừa là trung tâm, vừa là chủ thể của phát triển.
Thứ năm, kết hợp phát triển kinh tế với quốc phòng, an ninh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh mối quan hệ khăng khít giữa phát triển kinh tế và củng cố quốc phòng, an ninh. Theo Người, sức mạnh của một quốc gia phải là sức mạnh tổng hợp của các lực lượng, các lĩnh vực, trong đó phát triển kinh tế là nền tảng. Ngay sau khi giành được chính quyền, dân tộc ta phải đối mặt với những thách thức rất lớn: “giặc đói”, “giặc dốt” và giặc ngoại xâm. Trước bối cảnh đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, phải tập trung phát triển kinh tế – xã hội, tái thiết đất nước, song không được coi nhẹ quốc phòng, an ninh.
Về vai trò của kinh tế đối với quốc phòng, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nếu việc cung cấp lương thực, quần áo, thuốc men, súng ống, đạn dược cho quân đội ngoài mặt trận không làm được đầy đủ, chu đáo, binh sĩ bị hãm vào vòng thiếu thốn, sẽ mất hết tinh thần tác chiến. Trái lại, họ sẽ phấn khởi, họ sẽ hăng hái khi được cấp dưỡng no đủ”8.
Có thể khẳng định, tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế là hệ thống quan điểm toàn diện, vừa mang tính khoa học, vừa thấm đượm giá trị nhân văn. Những tư tưởng đó không chỉ phù hợp với điều kiện lịch sử Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX mà còn có giá trị định hướng lâu dài cho sự nghiệp đổi mới hiện nay. Đó là kim chỉ nam để Đảng hoạch định đường lối phát triển đất nước, trong đó có chiến lược phát triển vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ.
3. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong lãnh đạo phát triển kinh tế – xã hội vùng trung du và miền núi Bắc Bộ
Vùng trung du và miền núi Bắc Bộ (theo Nghị quyết số 37-NQ/TW ngày 01/7/2004) bao gồm 14 tỉnh trong vùng và 21 huyện phía Tây của hai tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, có đường biên giới phía Bắc giáp Trung Quốc, phía Tây giáp Thượng Lào, phía Đông giáp đồng bằng sông Hồng, phía Nam giáp Bắc Trung Bộ; với tổng diện tích toàn vùng khoảng 116.898 km², chiếm 35% diện tích tự nhiên của cả nước, với nhiều tài nguyên, khoáng sản quý hiếm; có hơn 30 dân tộc đang sinh sống, với dân số toàn vùng 14,7 triệu người, chiếm khoảng 15,2% dân số cả nước. Đây là một địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của cả nước; cửa ngõ phía Tây và phía Bắc của quốc gia. Đây là vùng có nhiều tiềm năng, lợi thế cho phát triển bền vững.
Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình lãnh đạo đất nước tiến hành sự nghiệp đổi mới từ năm 1986 đến nay, luôn đặc biệt nhấn mạnh vai trò của các địa phương khu vực miền núi, Đảng ta xác định: “Phát triển kinh tế – xã hội miền núi là một bộ phận hữu cơ của chiến lược phát triển nền kinh tế quốc dân”9, là sự nghiệp có ý nghĩa chiến lược. Nghị quyết Đại hội VII (năm 1991), nhấn mạnh: “tiếp tục xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế vùng phù hợp với chiến lược chung của cả nước”10. Đây là “sự đổi mới” tư duy lý luận, nhận thức của Đảng về phát triển kinh tế – xã hội vùng trong giai đoạn cả nước quá độ đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chủ trương của Đảng phù hợp với đòi hỏi của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, nhằm khai thác tiềm năng, lợi thế của từng vùng.
Ngày 01/7/2004, Bộ Chính trị (khóa IX) đã ban hành Nghị quyết số 37-NQ/TW về phương hướng phát triển kinh tế – xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng trung du và miền núi Bắc Bộ đến năm 2010. Ngày 02/8/2012 Bộ Chính trị (khóa XI) ra Kết luận số 26-KL/TW “về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 37-NQ/TW ngày 01/7/2004 của Bộ Chính trị (khóa IX)” nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế – xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng trung du và miền núi Bắc Bộ đến năm 2020, xác định: “Tiếp tục duy trì nhịp độ phát triển kinh tế – xã hội vùng trung du và miền núi Bắc Bộ cao hơn nhịp độ phát triển chung của cả nước; cải thiện rõ rệt và đồng bộ hệ thống hạ tầng kinh tế – xã hội đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, dân sinh và bảo đảm quốc phòng, an ninh của vùng; đẩy mạnh khai thác hợp lý và có hiệu quả các tiềm năng, thế mạnh về phát triển nông, lâm, ngư nghiệp, thủy điện, khoáng sản, du lịch và kinh tế cửa khẩu để phát triển kinh tế, từng bước thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển và mức sống của người dân trong vùng so với mức bình quân chung của cả nước”11.
Sau gần 20 năm thực hiện Nghị quyết số 37-NQ/TW và Kết luận số 26-KL/TW, kinh tế – xã hội vùng trung du và miền núi Bắc Bộ đã đạt được những thành tựu quan trọng:
Một là, về quy mô kinh tế vùng. Theo đánh giá của Tổng cục Thống kê, năm 2020, quy mô tổng sản phẩm trên địa bàn vùng (GRDP) theo giá hiện hành đạt 688,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 8,54% GDP cả nước, xếp thứ 5 về quy mô GRDP trong 6 vùng kinh tế. Theo địa phương, GRDP của tỉnh Thái Nguyên chiếm tỷ trọng cao nhất trong quy mô GRDP của vùng, chiếm 18,2%; Bắc Giang chiếm 17,6%; Phú Thọ chiếm 10,9%. Năm 2020, mức độ tập trung kinh tế của vùng đạt 7,2 tỷ đồng/km2, gấp 3,8 lần năm 2010”13. Trong vùng, Thái Nguyên và Bắc Giang là 2 địa phương có mức độ tập trung kinh tế lớn nhất đóng góp quan trọng vào tăng trưởng của toàn vùng.
Hai là, về chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Cơ cấu kinh tế vùng đã có sự chuyển dịch tích cực theo hướng tăng dần tỷ trọng các ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ; giảm dần tỷ trọng các ngành nông, lâm, thuỷ sản. Năm 2020, tỷ trọng khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 19,95% trong GRDP toàn vùng, giảm 6,5 điểm phần trăm so với năm 2010; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 40,41%, tăng 12,47 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ chiếm 34,73%, giảm 5,25 điểm phần trăm14. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu lao động trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản; công nghiệp và xây dựng của vùng tương đối nhanh hơn so với mức trung bình cả nước.
Ba là, về kết cấu hạ tầng. Kết cấu hạ tầng giao thông vận tải được cải thiện rõ rệt, vốn đầu tư trong giai đoạn từ năm 2004 – 2020 “khoảng 106.117 tỷ đồng, tương đương khoảng 9,6% tổng mức vốn đầu tư cho ngành Giao thông của cả nước (bao gồm cả vốn ngân sách trung ương và vốn ngoài ngân sách nhà nước); tổng chiều dài đường bộ so với năm 2004 (khoảng 52.987 km, mật độ 0,52km/1km2), tăng khoảng 107.813km; mật độ tăng 1,07km/km2, tăng 305% song vẫn thấp hơn so với bình quân cả nước là 1,9 km/1km2”15. Các mục tiêu về đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông vận tải đặt ra trong Nghị quyết đến nay đã hoàn thành.
Bốn là, về công tác giảm nghèo và nâng cao đời sống nhân dân. Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững và phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số đã đạt kết quả tích cực. Tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh, đạt mức 12,76% vào cuối năm 2020 (theo chuẩn nghèo đa chiều), đạt mục tiêu Nghị quyết 37-NQ/TW và Kết luận 26-KL/TW (giảm bình quân từ 3 – 4%/ năm) đề ra. Công tác y tế, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân có nhiều chuyển biến tích cực; chất lượng khám chữa bệnh từng bước được nâng lên, nhiều kỹ thuật cao được áp dụng trong khám và điều trị bệnh, giảm tỷ lệ bệnh nhân phải chuyển tuyến; người bệnh đã được tiếp cận các dịch vụ y tế có chất lượng ngày càng cao; các chỉ số về y tế và chăm sóc sức khỏe nhân dân được cải thiện qua các năm.
Năm là, về phát triển văn hóa. Phát triển văn hoá, thể dục – thể thao của vùng đạt nhiều thành tựu quan trọng. Nhận thức của mọi tầng lớp nhân dân về vị trí, vai trò của văn hóa và gia đình ngày càng được nâng cao. Vùng đóng vai trò trung tâm trong bảo vệ và phát huy các loại hình nghệ thuật truyền thống tiêu biểu cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số miền Bắc. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” đi vào chiều sâu, có sức lan tỏa mạnh mẽ, thu hút mọi thành phần xã hội tham gia, nhiều mô hình lễ hội văn hóa, thể thao và du lịch mới, festival đương đại… được tổ chức; nếp sống mới trong đời sống đồng bào ngày càng văn minh.
Sáu là, về bảo đảm quốc phòng, an ninh.Phát triển kinh tế – xã hội được kết hợp chặt chẽ với tăng cường quốc phòng, an ninh, nhất là an ninh biên giới và các địa bàn trọng yếu. Quốc phòng và an ninh được bảo đảm vững chắc. Biên giới quốc gia được giữ vững và củng cố, bảo đảm hòa bình, hữu nghị và ổn định với các nước bạn láng giềng.
Những kết quả nổi bật trên là minh chứng cho sự vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh của Đảng, khẳng định tính đúng đắn và sức sống bền vững của đường lối phát triển: kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội và củng cố quốc phòng, an ninh. Đây chính là nền tảng để vùng trung du và miền núi Bắc Bộ tiếp tục phát triển mạnh mẽ trong giai đoạn mới.
Bên cạnh những thành tựu quan trọng, thực tiễn phát triển vùng trung du và miền núi Bắc Bộ vẫn bộc lộ nhiều khó khăn, thách thức. Khoảng cách phát triển so với mặt bằng chung của cả nước còn lớn, thu nhập bình quân đầu người chỉ bằng một nửa so với vùng đồng bằng; hạ tầng giao thông, nhất là giao thông nông thôn và miền núi, vẫn thiếu đồng bộ, nhiều xã vùng sâu, vùng xa chưa có đường ô tô đến trung tâm. Chất lượng nguồn nhân lực còn thấp, lao động kỹ thuật khan hiếm, trong khi tình trạng di cư lao động tự do ngày càng gia tăng, ảnh hưởng đến ổn định xã hội. Nguy cơ tái nghèo vẫn hiện hữu, đặc biệt khi chịu tác động của thiên tai, dịch bệnh; môi trường sinh thái bị đe dọa bởi nạn khai thác khoáng sản, chặt phá rừng. Các vấn đề an ninh phi truyền thống, như di cư trái phép, buôn lậu, tội phạm xuyên biên giới vẫn diễn biến phức tạp, tác động trực tiếp đến sự ổn định của vùng.
Những hạn chế và thách thức đặt ra yêu cầu cấp bách phải tiếp tục đổi mới tư duy phát triển, vận dụng sáng tạo và linh hoạt tư tưởng Hồ Chí Minh, để biến tiềm năng thành động lực, biến khó khăn thành cơ hội, đưa vùng trung du và miền núi Bắc Bộ phát triển nhanh, bền vững, vững vàng giữ vị trí “phên dậu” của Tổ quốc trong tình hình mới.
4. Kết luận
Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế là một bộ phận quan trọng trong hệ thống tư tưởng của Người, phản ánh tầm nhìn chiến lược, nhân văn và khoa học đối với sự nghiệp xây dựng đất nước. Thực tiễn phát triển vùng trung du và miền núi Bắc Bộ trong những thập niên qua đã chứng minh sự vận dụng sáng tạo, đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ một vùng nghèo nàn, lạc hậu, nơi đây đã vươn lên đạt nhiều thành tựu quan trọng về kinh tế, hạ tầng, giảm nghèo, văn hóa – xã hội, quốc phòng, an ninh. Tuy nhiên, khoảng cách phát triển, chất lượng nguồn nhân lực, hạ tầng và các vấn đề môi trường, an ninh phi truyền thống vẫn đặt ra nhiều thách thức. Trong bối cảnh mới, việc tiếp tục kiên định và sáng tạo trong vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế để đưa vùng trung du và miền núi Bắc Bộ phát triển nhanh và bền vững.
Chú thích:
1. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 14. H. NXB Chính trị quốc gia sự thật, tr. 293 – 294.
2, 3, 4, 5, 8. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 4. H. NXB Chính trị quốc gia sự thật, tr. 64, 175, 175, 246, 296.
6. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 12. H. NXB Chính trị quốc gia sự thật, tr. 413.
7. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 13. H. NXB Chính trị quốc gia sự thật, tr. 30.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (1989). Văn kiện Đảng toàn tập. Tập 49. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 844.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991). Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII. H. NXB Chính trị Sự thật, tr. 65 – 66.
11. Ban Chấp hành Trung ương (2012). Kết luận số 26-KL/TW ngày 02/8/2012 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 37-NQ/TW ngày 01/7/2004 của Bộ Chính trị (khóa IX) nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế – xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng trung du và miền núi Bắc bộ đến năm 2020.
12, 13, 14, 15. Tổng cục Thống kê (2020). Niên giám thống kê năm 2020.
Tài liệu tham khảo:
1. Trần Xuân Kiên (2010). Triển vọng và các chiến lược phát triển kinh tế – xã hội Việt Nam. H. NXB Chính trị quốc gia.
2. Lương Xuân Quỳ (chủ biên, 2015). Tư duy mới về phát triển kinh tế – xã hội Việt Nam trong bối cảnh mới. H. NXB Chính trị quốc gia.
3. Ngô Văn Lương (2010). Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế. H. NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Vũ Hồng Tiến (2005). Một số vấn đề kinh tế – xã hội trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. H. NXB Đại học Sư phạm Hà Nội.
5. Nguyễn Xuân Thu, Nguyễn Văn Phú (2006). Phát triển kinh tế vùng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. H. NXB Chính trị quốc gia.