Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền công vụ phục vụ nhân dân và ý nghĩa lịch sử đối với TP. Hồ Chí Minh

NCS.ThS. Nguyễn Xuân Thể
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh

(Quanlynhanuoc.vn) – Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xây dựng, rèn luyện, tổ chức nhà nước và các hoạt động của Chính phủ từ trung ương đến địa phương dựa trên nền hành chính hiện đại, liêm chính, chuyên nghiệp và phục vụ nhân dân. Tư tưởng của Người đã trở thành “kim chỉ nam” trong xây dựng và hoàn thiện nền hành chính nước nhà, trong đó Người chú trọng xây dựng nền công vụ thống nhất với lợi ích của quần chúng nhân dân. Hiện nay, nền hành chính nước nhà đã dần được hoàn thiện và đáp ứng về cơ bản nhu cầu của thực tiễn. Tại TP. Hồ Chí Minh đang có những thay đổi mang tính cách mạng cho nền hành chính và hoạt động công vụ.

Từ khóa: Tư tưởng Hồ Chí Minh; nền công vụ; phục vụ Nhân dân; TP. Hồ Chí Minh.

1. Đặt vấn đề

Tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng về xây dựng nền công vụ nói riêng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong xây dựng nền hành chính và hoàn thiện hệ thống chính trị. Trong công cuộc ấy,hoạt động công vụ trở thành hoạt động mang tính liên tục khi tiếp xúc trực tiếp với quần chúng nhân dân, là sự hiện diện của Nhà nước trước Nhân dân, hình thành một nét văn hóa không chỉ đối với người thực thi công vụ mà với quần chúng nhân dân. Hiện nay nền hành chính nước nhà đã dần được hoàn thiện và đáp ứng về cơ bản nhu cầu của thực tiễn. Tuy nhiên, dưới tác động trực tiếp của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, hoạt động công vụ đã có một số biểu hiện chưa phù hợp hoặc cần được xem xét ở một số đơn vị và những hoạt động nhất định để có những nhìn nhận, đánh giá và chuẩn hóa các quy trình, đặc điểm trong thực thi công vụ, hoàn thiện chế độ công vụ và nền hành chính hiện nay.

2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền công v

Qua quá trình hoạt động cách mạng, Chủ tích Hồ Chí Minh đã tiếp xúc với nhiều nền văn minh khác nhau từ Đông sang Tây, nghiên cứu các nền văn hóa từ cổ đến kim. Từ đó, Người đã định hình cho một nhà nước cần phải được xây dựng một cách tổng thể, trong đó có những quy định cụ thể về hoạt động công vụ của cán bộ, công chức, hệ thống cơ quan quyền lực thống nhất từ trung ương đến địa phương. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ những nội dung cơ bản của một nền công vụ cần có: liêm chính, chuyên nghiệp, phục vụ Nhân dân và được thực hiện một cách thường xuyên.

Thứ nhấtnền công vụ cần tuyệt đối liêm chính trong mọi hoạt động công vụ.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Liêm là không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không tham sung sướng. Không ham người tâng bốc mình”1. Một khi người cán bộ, công chức thực hành “liêm” theo như Người định nghĩa sẽ làm cho những hoạt động công vụ trở về đúng bản chất cần có là vì lợi ích của quần chúng, của Nhân dân. Đối với mỗi người, đức “liêm” đem lại những giá trị nhất định của một con người trong mọi thời đại, trước hết là đối với quá trình xây dựng và hoàn thiện nhân cách, xây dựng cho mình một nếp sinh hoạt văn minh và đạo đức.

Đối với người cán bộ cách mạng, thực hành “liêm” càng trở nên cần thiết không chỉ đối với công việc, cuộc sống mà thông qua đó người cán bộ, công chức trở nên “quang minh chính đại, tâm lành, trí sáng, uy tín và sự tôn trọng từ những người xung quanh. Đức liêm của người cán bộ, đảng viên sẽ là tấm gương sáng cho Nhân dân và góp phần củng cố niềm tin của Nhân dân đối với chế độ. Đối với dân tộc, liêm cùng với cần và kiệm sẽ giúp cho dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, trở thành một dân tộc văn minh và tiến bộ”2

Bên cạnh đó, Người còn chỉ rõ việc không thực hành “liêm” chính là “bất liêm” và coi đây là một tội rất nặng. Với vai trò của người đứng đầu Nhà nước, Người đã ký Quốc lệnh vào ngày 26/01/1946, trong đó có nội dung: “quy định tội trộm cắp của công phải bị xử tử, giống như tội phản quốc”3. Việc này cho thấy, sự nghiêm khắc tuyệt đối với những người vì sự tham lam nhất thời mà lãng quên hoặc chà đạp lên lợi ích của quần chúng, thành quả của cách mạng. Người chỉ ra việc cán bộ, công chức dễ sa ngã vào những ham muốn tầm thường;  khi có cho mình được những chức vụ, quyền hạn nhiều thì sai nhiều, ít thì sai ít, khi lòng tham đã lấn át lý trí thì họ “đều dễ tìm dịp phát tài, hoặc xoay tiền của Chính phủ, hoặc khoét đục Nhân dân”4. Đó là căn bệnh cố hữu của những người khi đã có chức quyền, những người được Nhân dân tin tưởng ủng hộ và bầu vào các cơ quan đại diện cho chính quyền nhà nước.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ “liêm” không đứng một mình mà gắn liền với “chính”, hơn nữa để thực hiện “liêm” đã khó, “chính” còn khó hơn, bởi đó là biểu hiện hoàn thiện về nhân cách của người cán bộ cách mạng. Theo Người “Chính nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn. Điều gì không đứng đắn, thẳng thắn, tức là tà”5. Với người cán bộ công chức, “chính” là hết sức cần thiết, đặc biệt trong thực thi công vụ người cán bộ công chức tiếp xúc trực tiếp với Nhân dân, là bộ mặt của chính quyền trước quần chúng, được quần chúng nhìn nhận, đánh giá và tin tưởng thông qua những phẩm chất đạo đức đó của người cán bộ, người dân sẽ nhận thấy được giá trị của hoạt động công vụ đang diễn ra cũng như một nét văn hóa công vụ được thể hiện một cách cụ thể nhất.

Đối với mỗi người, cần xây dựng và hoàn thiện nhân cách trong mọi hoàn cảnh. Chủ tịch Hồ Chí Minh còn đặt ra những tiêu chuẩn cốt yếu của người cán bộ cách mạng với tư cách là lực lượng tiến bộ, ưu tú và là hình mẫu để quần chúng học tập và noi theo. Trên  báo Cứu quốc đăng ngày 30/5/1949, Người viết: “Trời có bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông; đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc; người có bốn đức: cần, kiệm, liêm, chính; thiếu một mùa thì không thành trời; thiếu một phương thì không thành đất; thiếu một đức thì không thành người”6.

Như vậy, “cần”, “kiệm”, “liêm”, “chính” không chỉ là điều kiện cần có trong những đức tính cần thiết của người cách mạng mà còn có sự hòa quyện và gắn bó chặt chẽ với nhau, trong đó “chính” được xem là biểu hiện cao nhất cho hoàn thiện về nhân cách. Đối với người cán bộ, công chức, việc xây dựng đức “chính” là việc làm quan trọng và có ý nghĩa thiết thực đối với công vụ, qua đó, giúp hoàn thiện hệ thống chính trị, cải cách nền hành chính và xây dựng niềm tin của Nhân dân đối với chính quyền và các hoạt động nhà nước.

Khác với chế độ cũ và cách quản lý của nhà nước “đức trị” trong thời kỳ phong kiến khi chưa có những chế tài nghiêm minh đối với các phạm trù đạo đức, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cùng với Chính phủ non trẻ ban hành những văn bản có tính pháp lý đối với các phạm trù đạo đức và thực thi trong từng hoàn cảnh cụ thể. Trên cương vị người đứng đầu Nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 76-SL ngày 20/5/1950, quy chế công chức nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – một văn bản có tính pháp lý đầu tiên về xây dựng nền công vụ và nhấn mạnh: “Công chức Việt Nam phải phục vụ Nhân dân, trung thành với Chính phủ, tôn trọng kỷ luật, có tinh thần trách nhiệm và tránh làm những việc có hại đến thanh danh công chức hay đến sự hoạt động của bộ máy Nhà nước. Công chức Việt Nam phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư”7. Lần đầu tiên trong lịch sử, việc xây dựng hệ thống các chuẩn mực của cán bộ, công chức được pháp lý hóa và đưa vào thực tiễn đã thể hiện được vai trò và tầm quan trọng các phẩm chất đạo đức trong thực thi công vụ. 

Thứ hai, trung thành với Tổ quốc, tận tụy phục vụ Nhân dân.

Dựa trên những quan niệm đạo đức Nho giáo phong kiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có quan điểm cách mạng về “trung, hiếu”. Người cho rằng, “trung” không chỉ là “trung vua” mà còn “ái quốc”, trung thành với đất nước, với chủ nghĩa xã hội, với lý tưởng cách mạng và với Nhân dân; “chữ hiếu không còn bó hẹp trong phạm vi trọn đạo làm con đối với ông bà, cha mẹ mình mà hiếu còn là hiếu thảo với Nhân dân, vì Nhân dân mà phục vụ; không chỉ thương yêu ông bà, cha mẹ mình mà còn phải thương yêu ông, bà cha mẹ người”8

Từ “trung với vua”, “hiếu với cha mẹ”, Người suy rộng ra ở nghĩa “trung với nước, hiếu với dân” coi dân là chủ thể tuyệt đối trong mọi hoạt động. Đối với xây dựng nền công vụ, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Từ Chủ tịch Chính phủ cho đến người chạy giấy, người quét dọn trong một cơ quan nhỏ, đều là những người ăn lương của dân, làm việc cho dân”9. Giá trị mà người cán bộ, công chức nhận được không những là “ăn lương của dân” mà còn thể hiện nét văn hóa công vụ nên cần thấy trách nhiệm của mình trong thực thi công vụ phục vụ nhân dân.

Thứ ba, có tinh thần trách nhiệm cao với công việc.

Trách nhiệm ở đây là đối với Đảng, với Nhân dân và với chính mình, Người chủ trương “khi Đảng, Chính phủ hoặc cấp trên giao cho ta việc gì, bất kỳ to hay nhỏ, khó hay dễ, ta cũng đưa cả tinh thần, lực lượng ra làm cho đến nơi đến chốn, vượt mọi khó khăn, làm cho thành công”10. Nhận nhiệm vụ cũng chính là được Đảng và Nhà nước trao sự tin tưởng đối với cán bộ, công chức nên việc tích cực, chủ động, sáng tạo trong công việc để đạt được kết quả tốt nhất là hết sức cần thiết, khi chậm trễ hoặc không đạt được kết quả của công việc chính là có lỗi với chính mình, với Chính phủ và Nhân dân. 

Trong hoạt động công vụ, mỗi cán bộ, công chức cần thực hiện phong trào thi đua nhằm đạt được kết quả tốt nhất, lập thành tích cho cá nhân và tổ chức hoàn toàn trái ngược với việc tị nạnh, hơn thua và dễ sa vào “bệnh suy bì” tức là đạt được kết quả bằng mọi cách nhằm tư lợi. Qua đó, Người cho rằng: “Đầu óc tư tưởng người đảng viên là đưa hết tinh thần, lực lượng phục vụ Nhân dân, phục vụ cách mạng. Thế nhưng, một nửa phục vụ Nhân dân, một nửa lại suy tỵ, như thế là chưa toàn tâm, toàn lực, là chưa xứng đáng tư cách của người đảng viên”11. Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ chủ trương phục vụ Nhân dân, nêu cao tinh thần trách nhiệm và hiệu quả công việc mà còn quán triệt tư tưởng và tinh thần của người cán bộ là phục vụ Nhân dân chứ không phải biến tướng theo hướng tư lợi nhằm đạt hiệu quả công việc song song với đạt được mục đích.

Thứ tư, gương mẫu, tự giác nêu gương trong công việc.

Với tinh thần: “một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”12, Người yêu cầu mỗi cán bộ cách mạng luôn trở thành tấm gương về sự gương mẫu, tự giác trong công việc, làm chuẩn mực và thước đo cho quần chúng. Chính Người đã trở thành minh chứng cho sự gương mẫu và tự giác, nêu gương khi tâm niệm: “trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn Nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”13. Trong xây dựng nền công vụ, người cán bộ, công chức chính là hình ảnh cụ thể của chính phủ và nền hành chính lại càng phải gương mẫu, tự giác và nêu gương trong công việc biến những hành vi trở thành một nét văn hóa cụ thể trong thực thi công vụ, tạo hình ảnh đẹp trong mắt quần chúng và sự tin tưởng đối với Nhân dân. 

Thứ năm, thân ái, đoàn kết chặt chẽ với đồng sự, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.

Trong quá trình tìm đường cứu nước cũng như khi lãnh đạo phong trào cách mạng, Người đã xây dựng tình đoàn kết, thân ái chặt chẽ trong các tổ chức chính trị và cá nhân, từ những người thủy thủ đến công nhân, nhân viên tòa soạn báo, những người đồng chí, anh em… đều là những mắt xích quan trọng trong quá trình hoạt động cách mạng của Người. Đối với hoạt động công vụ, Người căn dặn những cán bộ, công chức: “đối với đồng sự, phải đoàn kết chặt chẽ, khuyên nhau, giúp nhau”14, không chỉ tạo điều kiện giúp nhau cùng tiến bộ mà còn là cơ sở để đạt được hiệu quả cuối cùng của các hoạt động công vụ, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của quần chúng được thực thi. 

Tuy nhiên, không vì thế mà bỏ qua những thiếu sót, khuyết điểm của nhau làm ảnh hưởng đến lợi ích quần chúng và hình ảnh của nền công vụ và văn hóa công vụ phục vụ Nhân dân. Người căn dặn: “Đối với đồng chí mình phải thế nào? Thân ái với nhau nhưng không che đậy những điều dở. Học cái hay, sửa chữa cái dở. Không nên tranh giành ảnh hưởng của nhau. Không nên ghen ghét đố kỵ và khinh kẻ không bằng mình. Bỏ lối hiếu danh, hiếu vị”15. Đồng nghiệp mà thiếu đi sự thân ái, đoàn kết thì sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng hoạt động công vụ nhưng không nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình mà bỏ qua khuyết điểm của mỗi người và nghiêm túc sửa đổi thì ảnh hưởng đến cả nền công vụ cũng như trong cải cách hành chính, xây dựng hệ thống chính trị và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

3. Bài học lịch sử đối với TP. Hồ Chí Minh hiện nay

Theo Nghị quyết số 1685/NQ-UBTVQH15 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: “sau khi sắp xếp, TP. Hồ Chí Minh có 168 đơn vị hành chính cấp xã, gồm 113 phường, 54 xã và 1 đặc khu; trong đó có 112 phường, 50 xã, 1 đặc khu hình thành sau sắp xếp”16. Trên cơ sở chủ trương sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh, tỉnh Bình Dương và tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu được hợp nhất với TP. Hồ Chí Minh (với tên gọi là TP. Hồ Chí Minh) trở thành một không gian phát triển liên vùng, tạo ra sự thay đổi rất lớn trong hoạt động công vụ và xây dựng nền công vụ phục vụ Nhân dân một cách toàn diện. 

Tư tưởng của Người về xây dựng nền công vụ đã khẳng định giá trị mang tính lịch sử và thực tiễn đối với TP. Hồ Chí Minh.

Một làthực hành dân chủ trong chính quyền Thành phố và giáo dục ý thức dân chủ trong quần chúng.

Thực hành dân chủ trước hết thể hiện qua những hành động cụ thể trong hoạt động công vụ của cán bộ, công chức khi biết việc mình làm, làm tốt việc mình biết và thực hiện mục đích cuối cùng và cũng là mục đích tuyệt đối là phục vụ nhân dân. Tuy nhiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh việc thực hành dân chủ còn được xây dựng dựa trên sự hiểu biết và trách nhiệm của quần chúng trong thực hành dân chủ một cách triệt để mang tính biện chứng giữa cán bộ, công chức với Nhân dân và ngược lại. Người chỉ rõ “tất cả Nhân dân ta phải hiểu sâu sắc rằng: Nước nhà là nước nhà của Nhân dân ta, Nhân dân ta là người chủ nước nhà”17 . Trong mọi hoàn cảnh, Nhân dân “phải nhận rõ địa vị làm người chủ và nhiệm vụ người làm chủ nước nhà”18. Vì thế, thực hành dân chủ không chỉ là việc làm thường xuyên trong Đảng cầm quyền mà còn được xác định là “sợi chỉ đỏ” trong hoạt động của cách mạng thông qua thực hành dân chủ trong quần chúng.

Hai là, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền, quản lý và điều hành xã hội bằng pháp luật trên địa bàn Thành phố.

Với tinh thần “Bảy xin Hiến pháp ban hành – Trăm đều phải có thần linh pháp quyền”19, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định vai trò của pháp luật trong mọi hoạt động của Nhà nước, không thực hiện Nhà nước “đức trị” như xã hội phong kiến, Người chủ trương xây dựng nhà nước theo nguyên tắc “pháp trị” bởi tính ưu việt trong quá trình điều hành và quản lý đất nước. Đối với nền hành chính thống nhất từ trung ương đến địa phương, Người chủ trương ban hành Hiến pháp ngay sau Cách mạng tháng Tám thành công còn nhiều khó khăn. Trong tình hình đó Người chỉ đạo: “Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu”20.

 Lần đầu tiên trong lịch sử người dân được thể hiện quyền làm chủ đất nước bằng quyền dân chủ thông qua chế độ bầu cử một cách hợp pháp và hợp hiến. Có thể thấy, khi các hoạt động công vụ tại TP. Hồ Chí Minh được pháp lý hóa sẽ trở thành những nguyên tắc thống nhất cũng như nhất quán trong các ban ngành, đoàn thể về mọi hoạt động, không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động công vụ được tiến hành một cách dễ dàng mà còn thể hiện tính chuyên nghiệp và đồng nhất trong quản lý xã hội bằng pháp luật.

Ba làgóp phần tạo ra mối quan hệ tốt đẹp trong nội bộ tổ chức và một môi trường làm việc thoải mái, lành mạnh, tạo dựng niềm tin, sự đoàn kết nhất trí của cả tập thể.

Chủ tịch Hồ Chí Minh hiểu rõ thực trạng “đầy túi quần thông cáo, đầy túi áo chỉ thị mà công việc vẫn không chạy”21 chính là việc thiếu sự gắn kết giữa các cá nhân trong một tập thể và một môi trường đủ sức “níu chân người cán bộ” và tạo sự hăng hái trong công việc. Bằng cách đó, công vụ được thực thi một cách hoàn chỉnh, nội bộ tổ chức của Thành phố được gắn kết và tạo sự thống nhất trong cơ quan, tổ chức, nền hành chính được hoàn thiện và xây dựng, kiện toàn hệ thống chính trị và nhà nước cũng là để tiếp tục củng cố lòng tin cho quần chúng, hoàn thiện hệ thống lý luận.

Bốn làlà cơ sở quan trọng cho việc hình thành triết lý phát triển văn hóa công vụ xuyên suốt.

Tư tưởng của Người về xây dựng nền công vụ không phải tự nhiên mà trở thành một cơ sở quan trọng cho việc hình thành và phát triển văn hóa công vụ, bởi lẽ thông qua thực tiễn đã minh chứng cho tầm quan trọng, vai trò của những tư tưởng ấy thông qua hoạt động công vụ xuyên suốt từ trung ương đến địa phương. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền công vụ đã thể hiện tính cách mạng cho nền hành chính mới so với chế độ cũ, tư tưởng ấy trở thành triết lý căn bản và nâng tầm những hoạt động công vụ, những hành vi của cán bộ, công chức thành văn hóa, điều đó có ý nghĩa to lớn cho những nỗ lực của Nhà nước trong cải cách hành chính và hoàn thiện hệ thống chính trị cũng là phục vụ quần chúng, Nhân dân. 

Trong bối cảnh hiện nay, khi Chính phủ đang hội nhập với xu thế toàn cầu hóa và thích ứng với tác động liên tục của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 cũng như yêu cầu bức thiết của việc hoàn thiện nền hành chính từ trung ương đến địa phương. Thành phố tiếp tục phát triển và lan tỏa xây dựng không gian văn hóa Hồ Chí Minh trong các cơ quan, ban ngành và đoàn thể như một nét văn hóa xuyên suốt các hoạt động công vụ. Việc xây dựng và xác lập triết lý văn hóa công vụ trở thành một yếu tố then chốt đóng vai trò quan trọng với không chỉ nền công vụ mà mục đích cuối cùng là phục vụ quần chúng, tạo niềm tin với Nhân dân và uy tín với chính quyền Thành phố và Nhân dân trong tiến trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Trên tinh thần vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, Đại hội lần thứ XIII của Đảng xác định: “Gắn kết giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; phát huy nhân tố con người, lấy Nhân dân làm trung tâm; phát huy vai trò của văn hóa – nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực của sự phát triển”22. Tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền công vụ nói riêng trở thành cơ sở quan trọng đối với xây dựng văn hóa công vụ, đặc biệt có ý nghĩa quan trọng đối với TP. Hồ Chí Minh hiện nay khi đang cùng với cả nước vận hành chính quyền hai cấp và thực hiện các hoạt động công vụ sau sáp nhập với các đơn vị hành chính khác cũng như khắc phục những “căn bệnh” của cán bộ, công chức thi thực hiện hoạt động công vụ.

4. Kết luận

Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền công vụ phục vụ Nhân dân là một trong những di sản lý luận, thực tiễn quan trọng, thể hiện tầm nhìn sâu rộng và nhân văn của Người đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Trên cương vị của người đứng đầu Nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh ý thức cao về việc “xây lầu thắng lợi trên nền Nhân dân”23, sự hài lòng của Nhân dân trở thành thước đo cho tính ưu việt của nền cộng hòa mới hình thành. Qua đó, Người chủ trương xây dựng nền công vụ nhất quán từ trung ương đến địa phương dựa trên yêu cầu phục vụ Nhân dân. Đây chính là kim chỉ nam cho việc xây dựng bộ máy hành chính thật sự trong sạch, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và gắn bó mật thiết với Nhân dân.

Đối với TP. Hồ Chí Minh, trung tâm kinh tế, văn hóa, khoa học, công nghệ lớn nhất cả nước, ý nghĩa lịch sử của tư tưởng Hồ Chí Minh về công vụ càng trở nên sâu sắc. Việc kiên định thực hiện các giá trị cốt lõi từ tư tưởng Hồ Chí Minh, đề cao đạo đức công vụ, xây dựng tinh thần trách nhiệm, chống quan liêu, tham nhũng, thực hành tiết kiệm, gần dân và trọng dân sẽ giúp Thành phố tiếp tục khẳng định vai trò tiên phong trong cải cách hành chính và xây dựng nền công vụ hiện đại, nhân văn. 

Chú thích:

1, 4, 8, 9, 10, 14, 15, 21, 23. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 5. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 292, 123, 640, 249, 248, 176, 68, 637, 502.

2, 5, 6, 13. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 6. H. NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, tr. 128, 29, 117, 16.

3, 20. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 4. H. NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, tr. 189 – 190, 7.

7. Sắc lệnh số 76/SL ngày 20/5/1950 của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Lao-dong-Tien-luong/Sac-lenh-76-SL-ban-hanh-Quy-che-Cong-chuc-36567.aspx

11. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 10. H. NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, tr. 617.

12, 19. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 1. H. NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, tr. 284, 473.

16. Ủy ban Thường vụ quốc hội (2025). Nghị quyết số 1685/NQ-UBTVQH15 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã của TP. Hồ Chí Minh năm 2025.

17, 18. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 13. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 104.

22. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 99.

Tài liệu tham khảo:

1. Bộ Chính trị (2024). Quy định số 144-QĐ/TW ngày 09/5/2024 về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới.

2. Bộ Chính trị (2025). Chỉ thị số 42-CT/TW ngày 16/01/2025 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư.

3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về kiểm soát quyền lực trong công vụ và bài học kinh nghiệm cho phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay. https://www.quanlynhanuoc.vn/2025/07/31/tu-tuong-ho-chi-minh-ve-kiem-soat-quyen-luc-trong-cong-vu-va-bai-hoc-kinh-nghiem-cho-phong-chong-tham-nhung-o-viet-nam-hien-nay/