Sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác đối ngoại của Đảng trong việc xác định “đối tác” và “đối tượng” trên trường quốc tế

TS. Nguyễn Thanh Quý
Học viện Tài chính

(Quanlynhanuoc.vn) – Bài viết phân tích tư tưởng đối ngoại của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đặc biệt là quan điểm về “bạn” và “thù”; đồng thời, đánh giá quá trình vận dụng sáng tạo tư tưởng này của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc xác định “đối tác” và “đối tượng” trên trường quốc tế. Bài viết trình bày các nguyên lý cơ bản, chiến lược và phương pháp đối ngoại của Việt Nam, từ việc duy trì độc lập, tự chủ, đến việc chủ động mở rộng quan hệ hợp tác bình đẳng, cùng có lợi. Phân tích cho thấy, việc xác định đúng đắn đối tác và đối tượng đã góp phần tạo môi trường quốc tế thuận lợi, thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, nâng cao vị thế Việt Nam và bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc. Đồng thời, chỉ ra những thách thức trong bối cảnh quốc tế hiện nay và đề xuất các giải pháp vận dụng linh hoạt, hiệu quả tư tưởng Hồ Chí Minh trong chính sách đối ngoại.

Từ khóa: Đối tác, đối tượng, đường lối đối ngoại, độc lập tự chủ, tư tưởng Hồ Chí Minh, chính sách đối ngoại.

1. Đặt vấn đề  

Chủ tịch Hồ Chí Minh – vị lãnh tụ thiên tài của dân tộc Việt Nam, người đã có công lao rất lớn trong việc tìm ra con đường và dẫn dắt dân tộc Việt Nam đạt được những thắng lợi vĩ đại. Di sản của người đã để lại cho dân tộc Việt Nam là những tư tưởng trên nhiều lĩnh vực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân kế tục và phát huy trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Một trong những tư tưởng quan trọng của Người đã được Đảng ta vận dụng sâu sắc là tư tưởng đối ngoại nhằm tạo môi trường quốc tế và khu vực thuận lợi cho sự nghiệp công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa. Tư tưởng đối ngoại của Người, bao gồm hệ thống những nguyên lý, quan điểm về các vấn đề thời đại, chiến lược, sách lược đối ngoại của Việt Nam trong thời kỳ hiện đại. Tư tưởng của Người về công tác đối ngoại càng nâng cao giá trị trong bối cảnh tình hình quốc tế đặt ra nhiều thách thức hiện nay.

2. Một số nội dung cơ bản trong quan điểm của Hồ Chí Minh về vấn đề đối ngoại

Đánh giá về những cống hiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc (UNESCO), nhấn mạnh: “Chủ tịch Hồ Chí Minh là một biểu tượng kiệt xuất về quyết tâm của cả một dân tộc, đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, góp phần vào cuộc chiến đấu chung của các dân tộc vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Sự đóng góp quan trọng về nhiều mặt của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong các lĩnh vực văn hóa, giáo dục và nghệ thuật là kết tinh của truyền thống văn hóa hàng ngàn năm của nhân dân Việt Nam và những tư tưởng của Người là hiện thân của những khát vọng của các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc dân tộc của mình và tiêu biểu cho việc thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau”1.

Trong quan điểm đối ngoại của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh tới 3 vấn đề:

Một là, đoàn kết, hợp tác quốc tế có mối quan hệ biện chứng với độc lập, tự chủ. trong mối quan hệ biện chứng đó, “độc lập, tự chủ” luôn giữ vai trò quyết định, là nền tảng vững chắc để thúc đẩy hợp tác quốc tế, tranh thủ sự ủng hộ rộng rãi của cộng đồng quốc tế; đồng thời, đoàn kết, hợp tác quốc tế chính là tạo môi trường quốc tế thuận lợi, sức mạnh tổng hợp để giữ vững độc lập, tự chủ.

Hai là, đoàn kết, hợp tác quốc tế phải bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia, dân tộc,đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết, lấy mục tiêu độc lập dân tộc là hàng đầu.

Ba là, đoàn kết, hợp tác quốc tế để “thêm bạn, bớt thù”, tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa các quốc gia, dân tộc trên thế giới.Người chủ trương tích cực, chủ động đoàn kết, hợp tác quốc tế trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ, tôn trọng lẫn nhau; thực hiện phương châm “làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”, “thêm bạn, bớt thù” và “giúp bạn là tự giúp mình”2.

Với phương châm đối ngoại sáng tạo, Người đã luôn xác định rõ quan điểm về việc tăng cường các mối quan hệ nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các nhiệm vụ của dân tộc, đồng thời, tích cực đấu tranh chống lại những thế lực làm ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia, dân tộc.

Ngày 19/01/1955, tại lễ khai giảng khóa I, Trường Đại học Nhân dân Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhắc các cán bộ nhà trường và sinh viên: “Phải vạch rõ ranh giới, chia rõ phải trái. Vạch rõ ranh giới là phải nhận rõ ai là bạn, ai là thù? Đối với người, ai làm gì lợi ích cho nhân dân, cho Tổ quốc ta đều là bạn. Bất kỳ ai làm điều gì có hại cho nhân dân và Tổ quốc ta tức là kẻ thù. Đối với mình, những tư tưởng và hành động có lợi ích cho Tổ quốc, cho đồng bào là bạn. Những tư tưởng và hành động có hại cho Tổ quốc và đồng bào là kẻ thù. Thế là chẳng những ở ngoài, mà chính ở trong mình ta cũng có bạn và thù. Vì vậy chúng ta cần phải ra sức tăng cường bạn ở trong và ở ngoài, kiên quyết chống lại kẻ thủ ở ngoài và ở trong mình ta”3.

Như vậy, qua bài phát biểu, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra  phương pháp tư duy và hành xử đối với hai thực thể phân tích, góc nhìn dựa trên hai thực thể là “mình”và “người”. “bạn” và “thù” là cách nói hình tượng cho dễ hiểu. Trong đó “bạn” là (ai có tư tưởng và hành động) có lợi đối với dân tộc; ngược lại, nếu có hại cho quốc gia dân tộc đều là “thù”.

Vận dụng vào công tác đối ngoại trong bối cảnh hiện nay, với chủ thể chính trong quan hệ quốc tế là các quốc gia, dân tộc, Đảng đã cụ thể hóa thành “tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi”. Đồng thời, những “điều có hại cho nhân dân và Tổ quốc ta” được cụ thể hóa thành “âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Nguyên tắc nhất quán khi vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng và triển khai nguyên tắc xác định “đối tác”, “đối tượng” là lấy lợi ích quốc gia – dân tộc của Việt Nam làm tiêu chí.

3. Sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc xác định “đối tác” “đối tượng” của Đảng Cộng sản Việt Nam

Đối tác trong quan hệ quốc tế chỉ mối quan hệ cộng tác, hợp tác, liên kết, phối hợp với nhau giữa hai hay nhiều bên để cùng hành động, hỗ trợ lẫn nhau thực hiện mục tiêu chung hay tương đồng của các bên. Đối tác bao gồm hai hoặc nhiều bên cùng hành động nhằm tăng cường hợp tác, hướng đến những mục tiêu chung; xây dựng những kênh cơ bản, cơ chế giải quyết bất đồng, tranh chấp; triển khai các biện pháp thúc đẩy quan hệ; thỏa thuận phương hướng đánh giá mức độ tiến bộ; chia sẻ thành tựu hợp tác. Mối quan hệ đối tác thể hiện sự gần gũi, bình đẳng, có đi, có lại. Các quan hệ đối tác khá linh hoạt về hình thức, tùy thuộc mức độ phát triển quan hệ giữa các bên.

Đảng ta luôn khẳng định, Việt Nam “là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế” và “bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia – dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; đa dạng hoá, đa phương hoá trong quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”4. “Những ai tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác”5.

Đối tượng là thuật ngữ chỉ mối quan hệ đối kháng, đối chọi, chống đối, thù địch nhau… gây bất lợi cho việc bảo đảm lợi ích của các bên tham gia vào hoạt động nào đó. Đối tượng cũng có những quy mô, phạm vi, cấp độ khác nhau. Đối tượng của toàn nhân loại, của mỗi quốc gia, trong mỗi lĩnh vực, trong mỗi thời gian, địa điểm với những quan điểm, động thái cụ thể khác nhau.

Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) của Đảng, khẳng định: “bất kỳ thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng của chúng ta”6

4. Quá trình nhận thức của Đảng về “đối tác” và “đối tượng”

Thời kỳ trước đổi mới (1976 – 1986), mối quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa là ưu tiên hàng đầu trong quan hệ đối ngoại của Việt Nam, trong đó Đảng ta đặc biệt nhấn mạnh tấm quan trọng mối quan hệ với Liên Xô. Đồng thời, Đảng ta cũng chú trọng quan hệ đối ngoại với các nước trên bán đảo Đông Dương, các nước cùng hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa, phong trào không liên kết, các lực lượng cách mạng trên thế giới. Ngược lại, các đối tượng cần phải đấu tranh trong quan hệ quốc tế là các nước đế quốc, tư bản. 

Có thể thấy, sự phân định đối tác, đối tượng của Đảng trong thời kỳ trước đổi mới chịu sự chi phối bởi bối cảnh lịch sử lúc đó, khi trật tự thế giới hai cực được phân định rõ ràng và những tư duy chủ quan của Đảng về vấn đề ý thức hệ.

Sự thay đổi tư duy của Đảng về “đối tác” và “đối tượng” trong chính sách đối ngoại gắn liền với công cuộc đổi mới toàn diện đất nước được khởi xướng từ Đại hội VI của Đảng (tháng 12/1986). Trong định hướng đối ngoại được Đại hội VI xác định, ngoài việc khẳng định tăng cường quan hệ truyền thống đặc biệt giữa 3 nước Đông Dương, quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện với các nước trong khối xã hội chủ nghĩa, Đảng ta còn bày tỏ mong muốn sẵn sàng hợp tác với các nước có chế độ chính trị – xã hội khác nhau.

Văn kiện được coi là bước chuyển thực sự mang tính chiến lược về nhận thức và quan điểm đối ngoại của Đảng là Nghị quyết số 13/NQ-TW ngày 20/5/1988 của Bộ Chính trị, “Về nhiệm vụ và chính sách đối ngoại trong tình hình mới”. Nghị quyết chỉ ra chiến lược đối ngoại của Việt Nam là “thêm bạn, bớt thù”, vừa hợp tác, vừa đấu tranh cùng tồn tại hòa bình, “mở rộng quan hệ và đa dạng hóa quan hệ hợp tác quốc tế” với mục tiêu giữ vững môi trường hòa bình, thúc đẩy hội nhập quốc tế, phá thế bao vây, cấm vận, thu hút sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế đối với công cuộc đổi mới của đất nước7.

Đại hội VII (tháng 6/1991), Đảng ta nêu rõ “chủ trương hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị – xã hội khác nhau trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình”8. Với chính sách đối ngoại rộng mở, Đảng ta khẳng định: “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”9. Quan điểm của Đảng đã thể hiện rõ rệt phương châm Việt Nam “muốn là bạn với tất cả các nước” và mong muốn trở thành “đối tác” của các nước. Quan điểm này đã giúp Việt Nam phá được thế bao vây, cấm vận, bước đầu hội nhập khu vực và quốc tế, gia nhập tổ chức ASEAN.

Đại hội IX của Đảng (tháng 4/2001) đã điều chỉnh phương châm “Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế” thành “Việt Nam sẵn sàng là bạn” và lần đầu tiên nhấn mạnh thêm “là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”10. Như vậy, “Việt Nam sẵn sàng là bạn” đã thể hiện những thành tựu đạt được, vị thế quốc tế của Việt Nam đã được nâng cao sau 15 năm đổi mới, cho phép Việt Nam không chỉ chủ động mà còn đón nhận sự chủ động từ các “đối tác” muốn thúc đẩy và phát triển quan hệ với một nước Việt Nam đổi mới. Nói cách khác, quan hệ “đối tác” trong hoạt động đối ngoại của Việt Nam đã có sự thúc đẩy hai chiều. Việc bổ sung cụm từ “là đối tác tin cậy” cho thấy, Việt Nam không chỉ mong muốn mở rộng quan hệ mà còn nâng cấp quan hệ lên tầm cao mới; đồng thời, đặt tiền đề cho việc xác định đối tác trong quan hệ đối ngoại của Việt Nam.

Hội nghị Trung ương 8 (khoá IX) (tháng 7/2003) đã thông qua Nghị quyết “Về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”. Đây được coi là văn bản chính thức của Đảng đưa ra nguyên tắc xác định “đối tác” và “đối tượng” trong quan hệ quốc tế của Việt Nam. Việc đưa ra nguyên tắc này xuất phát từ tình hình thực tiễn, từ đó đưa ra quan điểm mang tính biện chứng giữa hợp tác và đấu tranh, giữa lợi ích kinh tế và giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm an ninh quốc gia, giữa lợi ích quốc gia – dân tộc và nghĩa vụ khi hội nhập quốc tế. Có thể nói, việc xác định và chỉ rõ phạm vi “đối tượng” và “đối tác” trong Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX) là sự phát triển nhận thức, tư duy nhạy bén và biện chứng có tầm chiến lược của Đảng, phù hợp với xu thế diễn biến nhanh chóng trong quan hệ quốc tế. Điều này giúp Việt Nam tránh được sự mơ hồ và thoát khỏi tư duy cực đoan về “bạn – thù” trong thời kỳ Chiến tranh lạnh.

Hội nghị Trung ương 8 (khóa XI) đã thông qua Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 25/10/2013 “Về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”. Nghị quyết đã nhấn mạnh tới quan điểm của Đảng về “đối tác” và “đối tượng”, theo đó những ai tôn trọng độc lập chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác bình đẳng cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác; bất kể lực lượng nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu cách mạng Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng đấu tranh của Việt Nam. Có thể nói, việc xác định “đối tác” và “đối tượng” này là cơ sở để xử lý đúng đắn trong hoạt động đối ngoại, thể hiện rõ mối quan hệ hữu cơ và biện chứng của hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Phương châm đối ngoại của Đảng về việc xác định “đối tác” và “đối tượng” đã được Đảng ta tiếp tục khẳng định trong các kỳ Đại hội XII và XIII.

Với sự kế thừa sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về “bạn” và “thù” đã tạo ra môi trường quốc tế thuận lợi nhằm thực hiện những mục tiêu của công cuộc công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa. Sau gần 40 năm tiến hành công cuộc Đổi mới, từ tình thế đất nước bị bao vây cấm vận, đến nay Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với hầu hết các quốc gia thành viên Liên hiệp quốc; là thành viên tích cực của khu vực và quốc tế. Trong đó đã ký kết và thực thi 16 FTA; là quốc gia ký kết Hiệp định thương mại tự do với tất cả các đối tác kinh tế lớn trên toàn cầu: Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc, EU, Nga,… Hiện nay, Việt Nam có: 7 đối tác chiến lược toàn diện; 18 đối tác chiến lược (bao gồm cả 7 đối tác chiến lược toàn diện) và 12 đối tác toàn diện.

Việc xác định đúng đắn “đối tác” và “đối tượng” đã tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho việc phát triển đất nước, đặc biệt là thu hút được vốn đầu tư, cải thiện môi trường kinh doanh, mở rộng thị trường xuất khẩu. Ngân hàng thế giới (WB) đã đánh giá Việt Nam là một trong những điển hình của việc cải cách thành công “Những cải cách kinh tế từ năm 1986 kết hợp với những xu hướng toàn cầu thuận lợi đã nhanh chóng giúp Việt Nam phát triển từ một trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới trở thành quốc gia thu nhập trung bình thấp. Nhờ có nền tảng vững chắc, nền kinh tế Việt Nam đã thể hiện sức chống chịu đáng kể trong những giai đoạn khủng hoảng. 

5. Một số vấn đề đặt ra và giải pháp

Thế giới đang chuyển sang một cục diện mới – cục diện hậu dịch bệnh Covid-19, môi trường quốc tế tạo ra nhiều thách thức đối với đường lối đối ngoại của Đảng. Điều này thể hiện rõ trong nhận định của Đảng tại Đại hội XIII: “Cục diện thế giới tiếp tục biến đổi theo xu hướng đa cực, đa trung tâm; các nước lớn vẫn hợp tác, thỏa hiệp, nhưng đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau gay gắt hơn. Chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa cường quyền nước lớn, chủ nghĩa thực dụng trong quan hệ quốc tế gia tăng. Các nước đang phát triển, nhất là các nước nhỏ đứng trước nhiều khó khăn, thách thức mới”11.

Trong bối cảnh các nước lớn cạnh tranh với nhau ngày càng gay gắt, xu thế tập hợp lực lượng để tranh giành ảnh hưởng, trở thành các cực trong một cục diện thế giới mới, cùng với đó là các quốc gia – dân tộc đều đặt lợi ích của mình lên trên hết, khiến việc xác định đối tác, đối tượng, các mặt đối tác trong đối tượng và các mặt đối tượng trong đối tác trên thực tế rất khó khăn, phức tạp. Thêm vào đó, việc xác định đối tượng, đối tác còn là vấn đề tương đối “nhạy cảm” trong quan hệ quốc tế.

Ở trong nước, gần 40 năm tiến hành đổi mới, bên cạnh những thành tựu to lớn, tiềm lực, cơ đồ, vị thế của Việt Nam ngày càng được khẳng định, tuy nhiên, trong quan hệ với một số đối tác, chúng ta vẫn còn phải đối phó với những tình huống phức tạp, khó lường, tiếp tục là trọng điểm trong chiến lược chống phá của các thế lực thù địch, thông qua chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ… 

Trước tình hình đó, cách tiếp cận và hướng giải quyết mối quan hệ “đối tác” và “đối tượng” trong chính sách đối ngoại của Việt Nam cần:

Một là, nguyên tắc “Dĩ bất biến ứng vạn biến” luôn là phương châm đối ngoại của Việt Nam, lấy độc lập chủ quyền, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, sự lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối của Đảng là nguyên tắc cốt lõi, nhưng linh hoạt với từng đối tác, đối tượng và tuỳ từng điều kiện hoàn cảnh cụ thể.

Hai là, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc, linh hoạt trong cách nhìn nhận và giải pháp với các “đối tác” và “đối tượng”, tránh quan điểm “nếu không ủng hộ ta thì là kẻ thù của ta”. Việt Nam phải luôn tỉnh táo nhận thức rằng “không có đồng minh vĩnh viễn”; mặt khác, cần biết tranh thủ những mặt xung đột của các “đối tượng” để có lợi cho ta.

Ba là, kiên quyết đấu tranh phê phán quan điểm, nhận thức sai trái về đối tác, đối tượng. Chủ động phát hiện, kiên quyết đấu tranh làm thất bại chiến lược “Diễn biến hòa bình; “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; chủ động phát hiện những biểu hiện sai trái, mơ hồ, mất cảnh giác; đấu tranh ngăn chặn biểu hiện suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức; những việc làm trái quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

6. Kết luận

Tại Hội nghị Đối ngoại toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, ngày 14/12/2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, nhấn mạnh: “Hơn 90 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, trên cơ sở vận dụng sáng tạo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, kế thừa và phát huy truyền thống, bản sắc đối ngoại, ngoại giao và văn hóa dân tộc, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới và tư tưởng tiến bộ của thời đại, chúng ta đã xây dựng nên một trường phái đối ngoại và ngoại giao rất đặc sắc và độc đáo của thời đại Hồ Chí Minh, mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”, “gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển”,… thấm đượm tâm hồn, cốt cách và khí phách của dân tộc Việt Nam”12. Di sản đường lối đối ngoại, trong đó, có tư tưởng về đoàn kết, hợp tác quốc tế mà Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho chúng ta là một kho tàng vô cùng quý giá.

Chú thích:
1. Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam (1990). Hồ Chí Minh  - Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. H. NXB. Khoa học xã hội, tr. 5.
2. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 5. H. NXB. Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 256.
3. Hồ Chí Minh Biên niên tiểu sử (2016). Tập 6 (1955 – 1957). H. NXB. Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 15 – 16.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016). Văn kiện Đại hội XII. Văn phòng Trung ương Đảng, tr. 7 – 8.
5, 6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2013). Hội nghị Trung ương 8 (khóa XI) ban hành Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 25/10/2013 về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
7. Nguyễn Cơ Thạch (1990). Những chuyển biến trên thế giới và tư duy mới của chúng ta”. Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, số 1/1990.
8, 9. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII. H. NXB. Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 89, 147.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. H. NXB. Chính trị quốc gia, tr. 119.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB. Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 105 – 106.
12. Nguyễn Phú Trọng (2022). Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. H. NXB. Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 183 – 184.