Đới Diệu Trang Linh
SV Học viện Báo chí và Tuyên truyền
(Quanlynhanuoc.vn)– Công tác dân vận, đặc biệt là vận động đồng bào dân tộc thiểu số, luôn giữ vai trò chiến lược trong củng cố khối đại đoàn kết và phát triển bền vững. Với đặc thù dân số chủ yếu là đồng bào dân tộc thiểu số, Tỉnh ủy Tuyên Quang đã có nhiều giải pháp thiết thực và đạt nhiều kết quả tích cực trong công tác vận động đồng bào dân tộc thiểu số đoàn kết, đồng lòng thực hiện các nhiệm vụ của địa phương; tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, vẫn còn có hạn chế về nhận thức, nội dung, phương thức lãnh đạo công tác vận động đồng bào dân tộc thiểu số. Trước yêu cầu mới, việc nghiên cứu, đề xuất giải pháp tăng cường lãnh đạo công tác này là cấp thiết nhằm phát huy sức mạnh đoàn kết, nâng cao đời sống nhân dân, bảo đảm quốc phòng – an ninh và xây dựng nền tảng phát triển đất nước.
Từ khóa: Lãnh đạo, công tác vận động, đồng bào dân tộc thiểu số, Tỉnh ủy Tuyên Quang.
1. Đặt vấn đề
Công tác dân vận nói chung và công tác vận động đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng là một trong những nội dung trọng yếu của công tác xây dựng Đảng, trực tiếp góp phần củng cố, phát triển mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với Nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Lực lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”1. Tư tưởng chỉ rõ, công tác dân vận không chỉ là nhiệm vụ chính trị mà còn là nghệ thuật tác động đến tư tưởng, tình cảm của nhân dân, biến nhận thức thành hành động, tạo nên sức mạnh tổng hợp để thực hiện thắng lợi đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước và nhiệm vụ chính trị ở mỗi địa phương.
Thực hiện Nghị quyết số 60-NQ/TW ngày 12/4/2025 của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 202/2025/QH15 ngày 12/6/2025 của Quốc hội, từ ngày 01/7/2025, tỉnh Tuyên Quang và tỉnh Hà Giang chính thức hợp nhất thành một đơn vị hành chính cấp tỉnh, lấy tên gọi chung là tỉnh Tuyên Quang.
Tuyên Quang là tỉnh miền núi phía Bắc có vị trí quan trọng về quốc phòng – an ninh, nơi hội tụ hơn 20 dân tộc anh em cùng chung sống. Đồng bào dân tộc thiểu số chiếm trên 72% dân số toàn tỉnh, là nguồn lực chính cho sự phát triển bền vững của địa phương. Những năm qua, Tỉnh ủy Tuyên Quang luôn chú trọng công tác vận động đồng bào dân tộc thiểu số, coi đây là trọng tâm để củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân, đồng thời giữ vững an ninh, quốc phòng.
Nghiên cứu sẽ giúp Tỉnh ủy nhận diện đúng những vấn đề đặt ra, từ đó, xây dựng chiến lược vận động đồng bào phù hợp, phát huy sức mạnh đoàn kết, nâng cao hiệu quả quản trị địa phương. Đồng thời, các giải pháp khoa học sẽ là cơ sở để khắc phục những hạn chế hiện hữu, đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực, bản lĩnh chính trị và kỹ năng công tác của đội ngũ cán bộ dân vận, đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới.
2. Thực trạng lãnh đạo công tác vận động đồng bào dân tộc thiểu số của Tỉnh uỷ Tuyên Quang
Một là, về nội dung lãnh đạo.
(1) Cụ thể hóa chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về công tác vận động đồng bào dân tộc thiểu số tại địa phương.
Trên cơ sở Nghị quyết số 25-NQ/TW, ngày 03/6/2013 về tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới; Chỉ thị số 49-CT/TW ngày 20/10/2015 về tăng cường và đổi mới công tác dân vận của Đảng ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số; Kết luận số 65-KL/TW ngày 30/10/2019 về tiếp tục thực hiện Nghị quyết 24-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương (khoá IX) về công tác dân tộc trong tình hình mới; Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII và các văn bản của Chính phủ, Đảng bộ Tuyên Quang đã triển khai công tác vận động đồng bào dân tộc thiểu số đồng bộ, nghiêm túc, gắn với điều kiện địa phương. Các cấp ủy đã ban hành chương trình hành động, kế hoạch cụ thể, chỉ đạo hệ thống chính trị phối hợp tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội; quốc phòng – an ninh.
(2) Chỉ đạo thực hiện phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống đồng bào dân tộc thiểu số.
Tỉnh ủy đã tập trung triển khai Nghị quyết số 111/2024/QH15 ngày 18/01/2024 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc thù thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia, tập trung nguồn lực cho hạ tầng, sản xuất, ưu tiên hộ nghèo và nhóm dân tộc khó khăn. Nhờ đó, vùng dân tộc thiểu số có bước chuyển tích cực: nhiều xã đạt chuẩn nông thôn mới, hạ tầng giao thông – điện – nước cơ bản hoàn thiện2. So với Hà Giang (cũ), khi tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân 5,99%/năm, nhiều xã đặc biệt khó khăn thoát nghèo3. Tuyên Quang (trước hợp nhất) đã hoàn thành mục tiêu xóa nhà tạm cho hơn 15 nghìn hộ dân năm 20254.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể trong tỉnh đã động viên Nhân dân tham gia thực hiện nghị quyết, chính sách, đồng thời giữ vững khối đại đoàn kết, đấu tranh phản bác âm mưu chống phá của các thế lực thù địch. Cấp ủy đã phát huy vai trò bí thư chi bộ, trưởng thôn, người uy tín, hướng tới mục tiêu 100% bí thư chi bộ kiêm trưởng thôn vào năm 20255. Đồng thời, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể tăng cường giám sát, phản biện xã hội, phát huy phong trào “Nông thôn mới, đô thị văn minh”, gắn với học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Đảng bộ tỉnh tổ chức và thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) và Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Hằng năm, tỷ lệ tổ chức cơ sở đảng, đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ cao. Tỉnh ủy chú trọng phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”, đồng thời phát triển đảng viên mới trong đồng bào dân tộc thiểu số, tạo sinh lực mới và củng cố khối đoàn kết.
(3) Thực hiện chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc.
Tỉnh ủy chú trọng lãnh đạo công tác tôn giáo, dân tộc, phát huy vai trò Ban Trị sự Phật giáo và các tổ chức tôn giáo; đồng thời, phát triển đảng viên là người có đạo. Hàng nghìn người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số được bồi dưỡng, biểu dương, góp phần giữ gìn an ninh, phát triển kinh tế – xã hội và tăng cường đoàn kết.
Hai là, về phương thức lãnh đạo.
Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang đã lãnh đạo công tác vận động đồng bào dân tộc thiểu số bằng các phương thức chủ yếu sau:
(1) Lãnh đạo bằng chủ trương, nghị quyết, chỉ thị. Các văn bản chỉ đạo của Tỉnh ủy luôn quán triệt quan điểm của Đảng, cụ thể hóa bằng chương trình hành động và kế hoạch thực hiện. Qua đó, nhận thức, trách nhiệm của hệ thống chính trị đối với công tác dân vận được nâng cao, đồng thuận xã hội được củng cố.
(2) Lãnh đạo bằng tuyên truyền, vận động, thuyết phục
Tỉnh ủy phối hợp chặt chẽ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đoàn thể, lực lượng vũ trang, triển khai các hình thức tuyên truyền phong phú, phù hợp đặc thù từng vùng. Các tổ công tác xuống cơ sở “nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin”, khuyến khích nhân dân đổi mới sản xuất, giữ gìn an ninh trật tự, phát huy sức mạnh đoàn kết.
(3) Lãnh đạo thông qua công tác tổ chức và cán bộ
Tỉnh ủy thực hiện sắp xếp đơn vị hành chính, tinh gọn bộ máy, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, chú trọng cán bộ nữ, trẻ, dân tộc thiểu số. Đồng thời, nâng cao năng lực giám sát, phản biện của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đoàn thể, củng cố cơ sở đảng, phát triển đảng viên chất lượng.
(4) Thông qua hoạt động của chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và đoàn thể
Tỉnh ủy bố trí nhân sự dân vận, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong Ban Thường vụ Tỉnh ủy; chú trọng đào tạo cán bộ dân vận có phẩm chất, kiến thức, am hiểu văn hóa vùng dân tộc thiểu số. Các cấp ủy tăng cường tiếp xúc, đối thoại, giải quyết kịp thời nguyện vọng chính đáng của nhân dân, đồng thời phát huy vai trò giám sát của nhân dân.
(5) Lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên gương mẫu
Đảng bộ tỉnh phát huy vai trò tổ chức đảng, đặc biệt là đảng viên dân tộc thiểu số, trong công tác vận động nhân dân. Đảng viên được coi là nòng cốt để lan tỏa và củng cố niềm tin của đồng bào.
(6) Lãnh đạo thông qua kiểm tra, giám sát
Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng được triển khai nghiêm túc, bảo đảm chính xác, kịp thời. Tỉnh ủy biểu dương điển hình tốt, chấn chỉnh hạn chế, bổ sung giải pháp hiệu quả. Tỉnh ủy Tuyên Quang đã tiến hành hàng trăm cuộc kiểm tra, giám sát, kịp thời tháo gỡ khó khăn cho cơ sở.
3. Một số hạn chế về nội dung và phương thức lãnh đạo
Mặc dù đạt được nhiều kết quả tích cực, công tác lãnh đạo của Tỉnh ủy Tuyên Quang trong vận động đồng bào dân tộc thiểu số vẫn tồn tại những hạn chế, thể hiện trên cả phương diện nội dung và phương thức lãnh đạo. Cụ thể:
Thứ nhất, một số cấp ủy còn chậm cụ thể hóa chủ trương, nghị quyết của Trung ương về công tác dân vận và công tác dân tộc; việc triển khai thiếu đồng bộ, chưa phù hợp với đặc thù từng địa bàn, từng nhóm dân tộc. Kế hoạch hành động ở nhiều nơi còn chung chung, chưa có trọng tâm, thiếu phân công trách nhiệm rõ ràng, dẫn đến hiệu quả chưa cao. Công tác tuyên truyền, thuyết phục đồng bào còn nặng tính hình thức, chưa phù hợp với ngôn ngữ, văn hóa, tập quán. Một bộ phận cán bộ thiếu kỹ năng dân vận, hạn chế trong sử dụng tiếng dân tộc, chưa tạo dựng được niềm tin trong nhân dân. Việc ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông hiện đại còn chậm, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa, khiến việc truyền tải chủ trương, chính sách chưa hiệu quả.
Thứ hai, một số chính quyền cơ sở còn lúng túng trong cụ thể hóa nghị quyết, chính sách phát triển kinh tế – xã hội, dẫn đến nguồn lực đầu tư bị dàn trải, hiệu quả thấp. Kinh tế địa phương chưa phát huy hết tiềm năng; một số chỉ tiêu kinh tế – xã hội không đạt; giảm nghèo thiếu bền vững, trong khi tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo của đồng bào dân tộc thiểu số vẫn cao. Tình trạng tảo hôn, hôn nhân cận huyết vẫn tồn tại. Một số xã đạt chuẩn nông thôn mới nhưng tiêu chí về thu nhập, môi trường và giảm nghèo chưa vững chắc.
Thứ ba, một số địa phương chưa phát huy tốt vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể và lực lượng vũ trang trong phối hợp thực hiện nhiệm vụ. Sự phối hợp thiếu đồng bộ, dẫn đến chồng chéo hoặc bỏ sót. Giao ban định kỳ giữa cấp ủy và các đoàn thể đôi khi mang tính hình thức, chưa phản ánh đầy đủ nguyện vọng nhân dân. Công tác nắm bắt dư luận, xử lý kịp thời bức xúc còn chậm. Vai trò phản biện và giám sát của Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể chưa rõ nét; nhiều kiến nghị cơ sở chưa được xử lý triệt để, gây tâm lý hoài nghi trong dân.
Thứ tư, một số xã vùng sâu, vùng xa, tổ chức đảng chưa phát huy vai trò hạt nhân lãnh đạo; sinh hoạt chi bộ còn hình thức, chưa gắn với vấn đề thực tiễn của người dân. Công tác phát triển đảng viên trong đồng bào dân tộc thiểu số còn khó khăn; số đảng viên trẻ, có trình độ thấp. Mối quan hệ giữa cấp ủy, chính quyền và nhân dân chưa thật mật thiết; công tác dân vận còn thiên về tuyên truyền một chiều, chưa thực sự lắng nghe và phản hồi kịp thời .
Thứ năm, chủ trương, chính sách về đại đoàn kết chưa được cụ thể hóa sâu rộng. Hoạt động phối hợp giữa cấp ủy, chính quyền và MTTQVN thiếu đồng bộ. Phong trào thi đua, gắn kết cộng đồng chưa bền vững, chưa khai thác đầy đủ vai trò của người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số. Ở nhiều nơi, cơ chế phát huy người có uy tín còn hình thức, thiếu gắn kết thực chất. Vì vậy, sự phối hợp của các tổ chức trong hệ thống chính trị chưa đồng đều, ảnh hưởng đến sức mạnh khối đại đoàn kết.
Thứ sáu, các văn bản lãnh đạo chủ yếu mang tính định hướng chung, chưa có giải pháp đặc thù cho từng vùng. Việc bổ sung nội dung theo yêu cầu thực tiễn còn chậm. Một số xã vùng cao có tỷ lệ hộ nghèo cao hơn bình quân tỉnh, nhưng giải pháp giảm nghèo chưa phù hợp. Một bộ phận đồng bào còn tâm lý trông chờ vào hỗ trợ, chưa chủ động phát triển sản xuất, cho thấy các nghị quyết chưa tạo ra đột phá mạnh mẽ.
Thứ bảy, công tác tuyên truyền đã được chú trọng nhưng chưa sâu rộng. Địa hình khó khăn, dân trí hạn chế và thiếu cán bộ biết tiếng dân tộc khiến việc vận động còn kém hiệu quả. Một số báo cáo viên, tuyên truyền viên chưa được đào tạo bài bản, thiếu sáng tạo trong truyền tải thông tin. Hình thức tuyên truyền vẫn nặng về một chiều, chưa phát huy tính đối thoại và thuyết phục. Một số cấp ủy còn lúng túng khi triển khai chủ trương của Trung ương, dẫn đến chất lượng tuyên truyền chưa cao.
Thứ tám, quy hoạch, đào tạo và sử dụng cán bộ dân tộc thiểu số chưa đáp ứng yêu cầu. Dù số lượng cán bộ dân tộc đã tăng, nhưng phân bổ không đồng đều, chất lượng còn hạn chế. Một số nơi thiếu mạnh dạn bố trí cán bộ dân tộc vào vị trí trọng trách. Cán bộ cấp xã còn thiếu kỹ năng dân vận, kinh nghiệm thực tiễn, trong khi đây là lực lượng gần gũi, hiểu dân nhất. Tỷ lệ cán bộ dân tộc chưa tương xứng với cơ cấu dân số, ảnh hưởng đến hiệu quả công tác vận động.
Thứ chín, vai trò phối hợp giữa chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể trong công tác dân vận chưa hiệu quả. Nhiều phong trào thi đua phát động nhưng thiếu duy trì, chưa gắn với lợi ích thiết thực, nên sức lan tỏa hạn chế. Công tác dân vận chưa được lồng ghép chặt chẽ với phát triển kinh tế – xã hội. Nhiều phong trào nhanh chóng lắng xuống, chưa tạo thành sức mạnh bền vững trong cộng đồng.
Thứ mười, công tác kiểm tra, giám sát của Tỉnh ủy chưa thường xuyên, chủ yếu hình thức, chưa phát hiện và xử lý kịp thời những khó khăn, vướng mắc ở cơ sở. Phương pháp giám sát thiếu đổi mới, chưa có tiêu chí cụ thể đánh giá hiệu quả công tác dân vận. Ứng dụng công nghệ trong giám sát còn yếu, trong khi sơ kết, tổng kết chưa được chú trọng, dẫn đến hiệu quả hạn chế.
4. Giải pháp tăng cường sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ đối với công tác vận động đồng bào dân tộc thiểu số
Từ những hạn chế nêu trên có thể thấy, để công tác vận động đồng bào dân tộc thiểu số ở Tuyên Quang đạt hiệu quả, Tỉnh ủy cần tiếp tục đổi mới cả về nội dung lẫn phương thức lãnh đạo, khắc phục tình trạng hình thức, chậm đổi mới, thiếu trọng tâm; đồng thời, tăng cường đào tạo cán bộ dân tộc, phát huy vai trò của tổ chức đảng, đoàn thể và người có uy tín, nhằm củng cố khối đại đoàn kết, phát triển bền vững và giữ vững an ninh chính trị – xã hội trên địa bàn.
Một là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội về công tác dân tộc.
Cần tăng cường quán triệt các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Đảng và Nhà nước về công tác dân tộc. Việc học tập, nghiên cứu phải đi vào chiều sâu, gắn với đặc thù từng địa phương, từng vùng đồng bào, tránh hình thức, chung chung. Thông qua đó, nâng cao ý thức trách nhiệm của đội ngũ cán bộ trong thực thi chính sách dân tộc, đồng thời củng cố niềm tin của Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng.
Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội trong việc vận động, tuyên truyền, giáo dục đồng bào. Những tổ chức này có thế mạnh gần gũi, gắn bó với Nhân dân, dễ dàng nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của đồng bào dân tộc thiểu số. Khi được trang bị đầy đủ kiến thức, thông tin, kỹ năng, họ sẽ trở thành cầu nối hiệu quả giữa Đảng, chính quyền và Nhân dân, góp phần làm cho chính sách đi vào cuộc sống một cách thiết thực hơn.
Gắn việc nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên với xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Cán bộ, đảng viên ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số phải thật sự gương mẫu, nói đi đôi với làm, gần gũi Nhân dân. Đây là cơ sở để củng cố niềm tin, đồng thời cũng là biện pháp hiệu quả trong đấu tranh với những biểu hiện suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên hiện nay.
Cần chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ người dân tộc thiểu số. Đây vừa là chủ trương lớn, vừa là yêu cầu bức thiết của thực tiễn. Khi có đội ngũ cán bộ tại chỗ am hiểu phong tục, ngôn ngữ, đời sống của đồng bào, công tác tuyên truyền, vận động và triển khai chính sách sẽ thuận lợi, hiệu quả hơn nhiều so với khi phụ thuộc chủ yếu vào cán bộ từ nơi khác đến. Đồng thời, đây cũng là cách để phát huy vai trò tự chủ, tự lực của đồng bào, hạn chế tư tưởng ỷ lại vào Nhà nước.
Hai là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh ủy đối với công tác dân tộc.
Cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản lãnh đạo, chỉ đạo công tác dân tộc. Các nghị quyết, chỉ thị, kết luận phải thể hiện rõ quan điểm, chủ trương, mục tiêu, giải pháp; đồng thời, có tính khả thi cao, phù hợp với điều kiện thực tiễn của tỉnh.
Nâng cao chất lượng công tác dự báo, nắm tình hình cơ sở. Thực tiễn cho thấy, nhiều vấn đề nảy sinh ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số nếu được phát hiện kịp thời sẽ dễ dàng giải quyết từ cơ sở, không để phát triển thành điểm nóng. Vì vậy, Tỉnh ủy cần chỉ đạo tăng cường hệ thống báo cáo, thống kê, điều tra xã hội học; đồng thời, phát huy vai trò của đội ngũ cán bộ cơ sở, già làng, trưởng bản, người có uy tín trong cộng đồng. Đây là nguồn thông tin quan trọng, giúp cấp ủy có cơ sở khoa học và thực tiễn trong hoạch định chính sách.
Chú trọng phân công, phân cấp, gắn trách nhiệm với quyền hạn trong lãnh đạo, chỉ đạo công tác dân tộc. Mỗi cấp ủy, chính quyền phải xác định rõ công việc thuộc phạm vi mình phụ trách, tránh tình trạng chồng chéo hoặc bỏ sót nhiệm vụ. Đồng thời, cần có cơ chế kiểm tra, giám sát trách nhiệm người đứng đầu. Khi trách nhiệm được quy định rõ ràng, công tác lãnh đạo, chỉ đạo mới bảo đảm tính hiệu lực, hiệu quả.
Tỉnh ủy cần quan tâm nhiều hơn đến công tác cán bộ. Cán bộ phụ trách dân tộc phải có phẩm chất chính trị vững vàng, có năng lực chuyên môn, có uy tín và tâm huyết. Do đó, Tỉnh ủy phải xây dựng kế hoạch dài hạn đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí cán bộ làm công tác dân tộc, coi đây là khâu then chốt trong công tác lãnh đạo. Đồng thời, cần có chính sách thu hút, đãi ngộ phù hợp để cán bộ yên tâm công tác, gắn bó lâu dài với vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Nâng cao chất lượng phối hợp giữa các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể. Công tác dân tộc là nhiệm vụ tổng hợp, liên quan đến nhiều lĩnh vực: kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế, quốc phòng, an ninh. Vì vậy, sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan trong hệ thống chính trị có ý nghĩa quyết định. Tỉnh ủy phải giữ vai trò trung tâm, điều hòa, phối hợp, tránh tình trạng “mạnh ai nấy làm”, gây lãng phí nguồn lực và làm giảm hiệu quả chính sách.
Tăng cường lãnh đạo công tác kiểm tra, giám sát và sơ kết, tổng kết. Đây là khâu quan trọng trong chu trình lãnh đạo, bảo đảm các chủ trương, nghị quyết được thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả. Thông qua kiểm tra, giám sát, Tỉnh ủy sẽ phát hiện, uốn nắn kịp thời những sai sót, đồng thời phát hiện, nhân rộng những nhân tố tích cực. Bên cạnh đó, việc sơ kết, tổng kết cần được tiến hành khoa học, nghiêm túc, nhằm đúc rút kinh nghiệm và điều chỉnh chính sách kịp thời.
Sự lãnh đạo của Tỉnh ủy cần hướng mạnh về cơ sở, tập trung giải quyết những vấn đề bức thiết nhất của đồng bào dân tộc thiểu số, đặc biệt là xóa đói, giảm nghèo, nâng cao dân trí, chăm sóc sức khỏe nhân dân. Đây là những nội dung cốt lõi, nếu làm tốt sẽ góp phần củng cố niềm tin và khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Việc lãnh đạo phải lấy hiệu quả thực tế làm thước đo, tránh nặng về hình thức, phong trào.
Ba là, coi trọng và lãnh đạo phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Tập trung chỉ đạo thực hiện đồng bộ các chương trình, dự án phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, đặc biệt là Chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2021 – 2030. Các chương trình này phải được triển khai gắn với điều kiện thực tiễn của từng địa phương, tránh dàn trải, manh mún, kém hiệu quả. Tỉnh ủy cần xác định rõ những lĩnh vực ưu tiên, như: xây dựng kết cấu hạ tầng thiết yếu (giao thông, thủy lợi, điện, nước sạch), phát triển sản xuất nông – lâm nghiệp theo hướng hàng hóa, gắn với bảo vệ môi trường sinh thái và ứng phó với biến đổi khí hậu.
Chú trọng công tác xóa đói, giảm nghèo bền vững. Đây là vấn đề trọng tâm, cấp bách ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Tỉnh ủy cần lãnh đạo triển khai các chính sách hỗ trợ sản xuất, tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho đồng bào; đồng thời chú trọng các chính sách an sinh xã hội, chăm lo đối tượng yếu thế, hộ nghèo, hộ cận nghèo. Việc giảm nghèo phải đi đôi với nâng cao chất lượng cuộc sống, tránh tái nghèo, bảo đảm công bằng, bình đẳng giữa các dân tộc.
Phát triển giáo dục – đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Tỉnh ủy cần lãnh đạo mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông, chú trọng giáo dục nội trú dân tộc; quan tâm đào tạo nghề, dạy nghề gắn với nhu cầu thực tiễn; khuyến khích học sinh, sinh viên người dân tộc thiểu số học tập, rèn luyện để trở thành lực lượng kế cận có trình độ, có khả năng đóng góp cho sự phát triển của quê hương.
Nâng cao chất lượng công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân. Tỉnh ủy cần chỉ đạo tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế cho các cơ sở khám, chữa bệnh tuyến xã; đồng thời, quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, thu hút đội ngũ y bác sĩ về công tác lâu dài ở vùng khó khăn. Cần chú trọng công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của đồng bào về phòng bệnh, chăm sóc sức khỏe, vệ sinh môi trường, an toàn thực phẩm; kết hợp y học hiện đại với y học cổ truyền trong chăm sóc sức khỏe cộng đồng.
Phát triển văn hóa, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Tỉnh ủy cần lãnh đạo đẩy mạnh phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”; quan tâm bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc thiểu số; đồng thời, kiên quyết đấu tranh chống lại các hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan, những yếu tố tiêu cực cản trở sự phát triển.
Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế – xã hội với bảo đảm quốc phòng – an ninh. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc, bởi vùng đồng bào dân tộc thiểu số thường gắn với địa bàn chiến lược về quốc phòng, an ninh. Tỉnh ủy cần lãnh đạo triển khai tốt các chính sách xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân; quan tâm đào tạo, bồi dưỡng lực lượng dân quân tự vệ, công an xã, già làng, trưởng bản; đồng thời, phát huy vai trò của nhân dân trong giữ gìn an ninh trật tự, xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác phát triển.
5. Kết luận
Tuyên Quang có vị trí chiến lược ở khu vực miền núi phía Bắc, nơi đồng bào dân tộc thiểu số chiếm tỷ lệ lớn, vì vậy, công tác vận động đồng bào dân tộc thiểu số tại đây không chỉ là một phần quan trọng của công tác dân vận mà còn phản ánh hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo của đảng bộ tỉnh. Thời gian qua, nhờ sự quan tâm sát sao của Tỉnh ủy, công tác này đã đạt nhiều kết quả tích cực: các chính sách dân tộc được triển khai kịp thời, phù hợp thực tiễn; nhiều nghị quyết, chương trình, kế hoạch cụ thể được ban hành, góp phần nâng cao đời sống đồng bào và khuyến khích họ tham gia tích cực vào các hoạt động chính trị – xã hội.
Trong bối cảnh triển khai Nghị quyết Đại hội XIII xủa Đảng và hướng tới mục tiêu phát triển đến năm 2045, công tác vận động đồng bào dân tộc thiểu số cần tiếp tục đổi mới cả nội dung và phương thức. Điều đó đòi hỏi phát huy vai trò chủ thể của nhân dân, thực hiện phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”; đồng thời, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, vai trò nòng cốt của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội. Mỗi cán bộ, đảng viên cần thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận: gần dân, hiểu dân, học dân, trách nhiệm với dân, gắn lời nói với hành động. Chỉ như vậy, công tác dân vận mới thực sự trở thành cầu nối bền chặt giữa Đảng với Nhân dân, tạo nền tảng vững chắc cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế trong kỷ nguyên mới.
Chú thích:
1. Hồ Chí Minh Toàn tập (2015). Tập 6. H. NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, tr. 234.
2. Đại hội đại biểu các dân tộc thiểu số tỉnh Tuyên Quang. https://nhandan.vn, ngày 18/9/2024.
3. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hà Giang (2022). Nghị quyết số 26-NQ/TU ngày 27/4/2022 về tăng cường lãnh đạo thực hiện Chương trình giảm nghèo bền vững trên địa bàn tỉnh Hà Giang giai đoạn 2021- 2025.
4. Kỳ tích xoá nhà tạm, nhà dột tại Tuyên Quang góp phần giúp giảm nghèo. https://vneconomy.vn, ngày 09/9/2025.
5. Tuyên Quang: Thực hiện hiệu quả chính sách đối với người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số. https://www.tuyenquang.gov.vn/vi/post/tuyen-quang-thuc-hien-hieu-qua-chinh-sach-doi-voi-nguoi-co-uy-tin-trong-dong-bao-dan-toc-thieu-so?type=NEWS&id=142783, ngày 27/3/2025.
Tài liệu tham khảo:
1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2013). Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 03/6/2013 về tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới.
2. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2015). Chỉ thị số 49-CT/TW ngày 20/10/2015 của Ban Bí thư về tăng cường và đổi mới công tác dân vận của Đảng ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
3. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2019). Kết luận số 65-KL/TW ngày 30/10/2019 về tiếp tục thực hiện Nghị quyết 24-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương (khoá IX) về công tác dân tộc trong tình hình mới.
4. Ban Dân vận Tỉnh ủy Tuyên Quang (2023). Báo cáo tổng kết công tác dân vận năm 2022 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2023.
5. Chính phủ (2021). Quyết định số 1719/QĐ-TTg ngày 14/10/2021 phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021- 2030.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I, II. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.
7. Quốc hội (2020). Nghị quyết số 120/2020/QH14 phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021- 2030.
8. Quốc hội (2025). Nghị quyết số 202/2025/QH15 ngày 12/6/2025 Nghị quyết về việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh.
9. Tỉnh ủy Tuyên Quang. Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2020 – 2025.