PGS.TS. Nguyễn Sỹ Trung
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
(Quanlynhanuoc.vn) – Mở rộng và phát huy dân chủ là xu hướng khách quan của tiến bộ xã hội. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn dựa vào Nhân dân, quan tâm phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, qua đó tạo động lực to lớn cho toàn xã hội, gópphần quan trọng đưa cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Thời kỳ đổi mới, Đảng tiếp tục khơi dậy và phát huy mạnh mẽ dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hành dân chủ, bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân, coi đó là mục tiêu và động lực để hoàn thành sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Từ khóa: Dân chủ; dân chủ xã hội chủ nghĩa; phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; Đảng Cộng sản Việt Nam.
1. Đặt vấn đề
Dân chủ không chỉ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN) mà còn là là mục tiêu và động lực của sự nghiệp cách mạng XHCN. Kết quả quan trọng nhất của cách mạng XHCN là giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân lao động thiết lập được hệ thống quyền lực chính trị của mình, tức là thiết lập được một nền dân chủ mới – nền dân chủ XHCN. Nền dân chủ đó trở thành điều kiện chính trị tiên quyết, chủ yếu của giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân lao động trong sự nghiệp cải tạo triệt để xã hội cũ và xây dựng thành công xã hội mới – xã hội cộng sản chủ nghĩa. Do đó, xây dựng và thực hiện nền dân chủ XHCN cũng chính là quá trình dân chủ hóa sâu rộng đời sống xã hội.
Thấm nhuần sâu sắc tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng xác định dân chủ là một nội dung quan trọng trong đường lối cách mạng, khẳng định và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, coi Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của sự nghiệp cách mạng. Bài viết phân tích, làm rõ vai trò quan trọng của Đảng Cộng sản Việt Nam với việc phát huy dân chủ XHCN, bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân thời kỳ đổi mới.
2. Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về dân chủ
Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người sáng lập và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam đã có nhận thức rất sớm và sâu sắc về vấn đề dân chủ và vai trò của việc phát huy quyền làm chủ của Nhân dân. Triết lý dân chủ thấm nhuần tư tưởng nhân văn của Chủ tịch Hồ Chí Minh là triết lý thân dân (gần dân, vì dân) và chính tâm (cần, kiệm, liêm, chính, chống chủ nghĩa cá nhân). Trọng dân đi liền với trọng pháp, đề cao giá trị con người và thực hiện các quyền cơ bản của con người đi liền với đề cao pháp luật và pháp quyền. Quan điểm dân chủ của Người thể hiện trên các phương diện: thứ nhất, dân là chủ: “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”1; thứ hai, dân làm chủ: “Nước ta là nước dân chủ, nghĩa là nước nhà do dân làm chủ…”2; thứ ba, toàn bộ quyền lực, lợi ích đều thuộc về dân: “Nước ta là một nước dân chủ. Mọi công việc đều vì lợi ích của Nhân dân mà làm. Khắp nơi có đoàn thể Nhân dân, như Hội đồng nhân dân, Mặt trận, Công đoàn, Hội nông dân cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc… Những đoàn thể ấy là tổ chức của dân, bênh vực quyền của dân, liên lạc mật thiết Nhân dân với Chính phủ“3.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, dân chủ tức là: dân là chủ và dân làm chủ, trong đó dân làm chủmới có giá trị thực tế và quyết định, giá trị của dân chủ không hoàn toàn chỉ xác định vị trí là chủ của dân. Chỉ khi vị trí là chủ của dân được xác định thì vai trò làm chủ của dân mới được xác lập, tức là dân chủ qua các mặt hoạt động thực tiễn. Nói dân chủ là dân làm chủ đã bao hàm ý nghĩa dân là chủtrong đó. Thực tế không phải không có trường hợp dân là chủ đất nước, là chủ nhà nước nhưng không biết làm chủ, thậm chí không được làm chủ.
Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, dân không chỉ là gốc mà Đảng và Nhà nước phải “lấy dân làm gốc”. Để dân vững mạnh, Người yêu cầu phải chăm lo, ưu tiên cho các tầng lớp nhân dân lao động, họ là số đông, có lực lượng, có khả năng và giữ vị trí chủ yếu tạo ra của cải cho xã hội, bảo vệ tổ quốc. Do vậy mọi lợi ích là vì dân, giải quyết vấn đề kinh tế và tài chính thế nào cho hợp lý, cho lợi dân, để tập hợp, đoàn kết Nhân dân. Có thể nói, quan điểm lấy dân làm gốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ ý thức đạo đức đã phát triển thành ý thức chính trị, thành nguyên tắc pháp trị, mọi thành viên trong xã hội, từ dân thường đến người cầm quyền đều phải tuân theo. Nghĩa là phải đem tài sức dân, của cải của dân để làm lợi cho dân. Xét trên phương diện lợi ích thì dân làm gốc cũng thống nhất với dân làm chủ.
Quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về dân chủ là một quan niệm hiện đại. Ngày nay người ta cũng nói dân chủ là quyền lực thuộc về Nhân dân và quyền lực được hiểu rộng rãi gồm cả kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh không nói dân chủ là dân nắm quyền lực mà nói dân làm chủ và lý giải nội dung làm chủ một cách toàn diện và sâu sắc: làm chủ nhà nước, làm chủ ruộng đồng, làm chủ nhà máy, xí nghiệp… đến làm chủ văn hóa, tinh thần, nghĩa là dân chủ trong hiện thực cho mọi người dân và trên mọi lĩnh vực trong cuộc sống.
Dân chủ luôn là nội dung quan trọng trong tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Lý luận về dân chủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một phát kiến có tầm phổ quát: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội (CNXH), do đó dân chủ mà Việt Nam xây dựng và phát triển là nền dân chủ XHCN. Đây chính là cơ sở tư tưởng, lý luận giúp Đảng Cộng Sản Việt Nam vận dụng trong xây dựng nền dân chủ XHCN ở nước ta.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của Nhân dân thời kỳ đổi mới
Quán triệt sâu sắc quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh về dân chủ, Đảng ta trong hơn 95 năm lãnh đạo Nhân dân đấu tranh giành độc lập và xây dựng CNXHluôn coi dân chủ là một nội dung quan trọng trong đường lối cách mạng. Mở rộng dân chủ XHCN, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân vừa là mục tiêu, vừa là động lực để đất nước vượt qua khó khăn, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chiến lược, lại vừa là bản chất, là đặc trưng của chế độ mới.
Ngay từ khi mới ra đời, Đảng đã lãnh đạo Nhân dân đấu tranh thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Hai mục tiêu dân tộc và dân chủ gắn bó chặt chẽ với nhau từ buổi đầu của sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo. Nội dung dân chủ trong giai đoạn cách mạng trước đây chủ yếu là đem lại ruộng đất cho dân cày, thành phần đông đảo nhất trong dân cư. Sau khi cách mạng dân tộc dân chủ thành công, Đảng ta lãnh đạo Nhân dân chuyển sang giai đoạn cách mạng mới – cách mạng XHCN. Thực hiện cách mạng XHCN chính là giải phóng xã hội, giải phóng con người, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân một cách đầy đủ hơn, nhằm mục tiêu xây dựng một xã hội mới công bằng, dân chủ và văn minh.
Việc phát huy quyền làm chủ của Nhân dân là thuộc bản chất của chế độ XHCN, chủ trương của Đảng và Nhà nước coi phát huy quyền làm chủ của Nhân dân là mục tiêu và động lực của công cuộc đổi mới. Trong bốn bản Hiến pháp của nước ta luôn khẳng định quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân, Nhân dân là chủ thể tối cao và duy nhất của quyền lực nhà nước. Điều này không chỉ làm sáng tỏ về mặt lý luận mà còn thể hiện ở cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước trên thực tiễn, nhằm hiện thực hóa mục tiêu xây dựng Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Từ Đại hội lần thứ IV của Đảng đã xác định việc xây dựng chế độ làm chủ tập thể XHCN là một trong bốn mục tiêu cơ bản của cách mạng XHCN và cũng là một trong bốn đặc trưng của cách mạng XHCN ở nước ta. Quan điểm đó được tiếp tục khẳng định và cụ thể hóa từng bước trong nghị quyết Đại hội lần thứ V của Đảng.
Bước vào công cuộc đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng XHCN, dân chủ hóa đời sống xã hội, phát huy dân chủ XHCN và bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân đã được Đảng xác định là một trong những nội dung cốt lõi, trọng tâm. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) của Đảng đã đưa ra quan điểm lấy dân làm gốc, phát huy sức mạnh của các thành phần kinh tế nhằm giải phóng lực lượng sản xuất, đổi mới nội dung và phương pháp lãnh đạo của Đảng trên cơ sở nắm vững nguyên tắc kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu những thành tựu văn minh nhân loại, bảo đảm quá trình đổi mới diễn ra đúng nguyên tắc tập trung dân chủ. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã rút ra bài học kinh nghiệm đầu tiên đó là: “trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động”4. Qua đó, quyền làm chủ của Nhân dân trên thực tế đã từng bước được khơi dậy và phát huy.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (1991) của Đảng với việc thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH đã nhấn mạnh: “Xã hội mà Nhân dân ta xây dựng là một xã hội do nhân dân lao động làm chủ” và “Toàn bộ tổ chức, hoạt động của hệ thống chính trị nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ XHCN, bảo đảm quyền lực thuộc về Nhân dân”5. “Thực hiện dân chủ XHCN là thực chất của việc đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị. Đây vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới”6. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (1996) tiếp tục khẳng định: Xây dựng nền dân chủ XHCN là một nội dung cơ bản của đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta. Phải có cơ chế và cách làm cụ thể để thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đối với các chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước. Thực hiện tốt cơ chế làm chủ của Nhân dân: làm chủ thông qua đại diện, làm chủ trực tiếp và các hình thức tự quản tại cơ sở7.
Nhấn mạnh yêu cầu thực hiện “Quy chế thực hiện dân chủ ở xã”, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (2001) nêu rõ: “Thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, tạo điều kiện để Nhân dân tham gia quản lý xã hội, thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng. Khắc phục mọi biểu hiện dân chủ hình thức; xây dựng luật trưng cầu ý dân”8. Để tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở, Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX) đã đề ra một trong những nhiệm vụ là: “Thực hành dân chủ thực sự trong nội bộ các tổ chức của hệ thống chính trị ở cơ sở theo nguyên tắc tập trung dân chủ và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân trên cơ sở thực hiện quyền dân chủ trực tiếp, phát huy quyền dân chủ đại diện, quy định cụ thể việc thực hiện quyền người dân giám sát tổ chức và cán bộ cơ sở, thay thế người không đủ tín nhiệm“9.
Mở rộng và phát huy dân chủ là xu hướng khách quan của tiến bộ xã hội, nhất là trong quá trình hội nhập khu vực và quốc tế, qua đó, góp phần nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X (2006) tiếp tục chỉ rõ: “dân chủ XHCN vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ tổ quốc, thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa đảng, nhà nước và Nhân dân”10. Nhằm đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của đất nước trong thời kỳ mới, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X tiếp tục khẳng định: “Hoàn thiện cơ chế dân chủ, thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở; phát huy vai trò của cơ quan dân cử, Mặt trận tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội và Nhân dân trong việc giám sát cán bộ, công chức và cơ quan công quyền, phát hiện, đấu tranh với các hiện tượng tham nhũng”11.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (2011), trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) đã nêu rõ: “Dân chủ XHCN là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ XHCN, bảo đảm dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực thông qua hoạt động của Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và cách hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm”12.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ để tiếp tục phát huy dân chủ XHCN, bảo đảm tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về Nhân dân: “Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phải xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của Nhân dân, được Nhân dân tham gia ý kiến. Dân chủ phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bảo đảm để Nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của Nhân dân”13. Bên cạnh đó, yêu cầu “Phát huy dân chủ phải gắn liền với kỷ cương, tăng cường pháp chế, đề cao trách nhiệm công dân, đạo đức xã hội. Phê phán những biểu hiện dân chủ cực đoan, dân chủ hình thức. Xử lý nghiêm minh những hành vi lợi dụng dân chủ làm mất an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội và những hành vi vi phạm quyền dân chủ và quyền làm chủ của Nhân dân”14.
Qua 35 năm kiên trì và sáng tạo tiến hành công cuộc mới toàn diện đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng, đặc biệt là sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng (2016 – 2021), việc phát huy dân chủ XHCN, bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân đã đạt được những kết quả tích cực và tương đối toàn diện. Đời sống sinh hoạt chính trị, xã hội ngày càng được mở rộng, nhận thức về quyền làm chủ của Nhân dân được nâng cao, thu hút Nhân dân tham gia quản lý Nhà nước, giám sát hoạt động của chính quyền, khắc phục tình trạng suy thoái, quan liêu, mất dân chủ, tham nhũng tại cơ sở. Nhờ phát huy dân chủ XHCN, quyền làm chủ của Nhân dân mà lề lối, phong cách làm việc của đội ngũ cán bộ cơ sở đã có nhiều thay đổi theo hướng gần dân và phục vụ Nhân dân tốt hơn, góp phần mang lại hiệu quả thiết thực trong phát triển kinh tế – xã hội, xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, xây dựng đời sống văn hóa và bảo đảm trật tự an toàn xã hội ở cơ sở, tạo được sự đồng thuận cao trong Nhân dân.
Tuy nhiên, đứng trước yêu cầu to lớn của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế nhằm mục tiêu “Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa XHCN Việt Nam: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao”15. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng (2021) yêu cầu: “Tiếp tục cụ thể hóa, hoàn thiện thể chế thực hành dân chủ theo tinh thần Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và Hiến pháp năm 2013, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân. Thực hiện đúng đắn, hiệu quả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, đặc biệt là dân chủ ở cơ sở. Thực hiện tốt phương châm “Dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”16… Song để xây dựng, hoàn thiện nền dân chủ XHCN, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, Nghị quyết Đại hội XIII đã chỉ rõ vai trò của các chủ thể trong hệ thống chính trị: “Đảnglãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội làm nòng cốt để Nhân dân làm chủ”17. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng cũng đưa ra định hướng phát huy dân chủ, thực hiện quyền làm chủ của Nhân dân giai đoạn 2021 – 2030: “Thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ XHCN, quyền làm chủ và vai trò chủ thể của Nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; củng cố nâng cao niềm tin của Nhân dân, tăng cường động thuận xã hội; tiếp tục đổi mới tổ chức, nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội”18.
Việc coi Nhân dân là chủ thể của dân chủ XHCN và tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát huy quyền làm chủ của Nhân dân trong thời kỳ đổi mới thể hiện tư duy lý luận hết sức đúng đắn và nhạy bén của Đảng, đó chính là sự vận dụng sáng tạo tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh về dân chủ, kế thừa truyền thống dân chủ của dân tộc; đồng thời, tiếp thu, chọn lọc tinh hoa dân chủ trong lịch sử tư tưởng nhân loại.
4. Kết luận
Có thể khẳng định nội dung dân chủ và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân luôn là nội dung quan trọng và nhất quán trong toàn bộ đường lối cách mạng của Đảng ta từ trước tới nay và được phát triển nâng cao thêm qua các giai đoạn cách mạng, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới. Trong bối cảnh mới của Việt Nam hiện nay, đòi hỏi phải tiếp tục tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về dân chủ và thực hành dân chủ, qua đó để dân chủ không chỉ là mục tiêu mà còn là động lực to lớn thật sự của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hội nhập quốc tế trong kỷ nguyên phát triển mới.
Chú thích:
1, 2, 3. Hồ Chí Minh toàn tập (2000). Tập 5. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 515, 452, 66.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI. H. NXB Sự thật, tr. 29.
5, 6. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII. H. NXB Sự thật, tr. 19, 90.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 22.
8, 9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 134, 84.
10, 11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 125, 129.
12. GS.TS. Nguyễn Phú Trọng (2011). Cương lĩnh chính trị ngọn cờ tư tưởng lý luận chỉ đạo sự nghiệp cách mạng của chúng ta. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 87 – 88.
13, 14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. Văn phòng Trung ương Đảng, tr.169, 170.
15, 16, 17, 18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr.112, 172 – 173, 173, 118.