PGS.TS. Trần Thị Hương
Học viện Báo chí và Tuyên truyền
(Quanlynhanuoc.vn) – Cách đây 76 năm, với bút danh X.Y.Z, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết bài báo Dân vận. Bài báo có nội dung ngắn gọn, súc tích nhưng đã kết tinh, thể hiện toàn diện và hoàn chỉnh những tư tưởng cốt lõi của Người về công tác xây dựng Đảng và chính quyền nhà nước, nhất là quan điểm về nhà nước dân chủ và mối quan hệ giữa dân vận và xây dựng nhà nước dân chủ; dân vận và các bước thực hiện dân vận. Hiện nay, trong bối cảnh đất nước đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện và hội nhập quốc tế sâu rộng, khi công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đặt ra nhiều yêu cầu mới, tác phẩm Dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh càng thể hiện rõ những chỉ dẫn mang tính thời sự.
Từ khóa: Dân vận; công tác dân vận; xây dựng Đảng; xây dựng chính quyền nhà nước; Chủ tịch Hồ Chí Minh.
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng và chính quyền nhà nước trong tác phẩm Dân vận
Tác phẩm Dân vận đã kết tinh toàn diện, cô đọng và khúc chiết nhất tư tưởng Hồ Chí Minh về những vấn đề căn cốt trong xây dựng Đảng và chính quyền nhà nước. Bằng lối diễn đạt giản dị, dễ hiểu, dễ nhớ, tác phẩm đã khẳng định giá trị lý luận và ý nghĩa thực tiễn to lớn, trở thành kim chỉ nam cho công tác xây dựng Đảng và chính quyền nhà nước trong suốt tiến trình cách mạng và tiếp tục giữ nguyên giá trị thời sự trong công cuộc đổi mới và phát triển đất nước hiện nay. Tác phẩm đã thể hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng và chính quyền nhà nước ở các khía cạnh sau:
Một là, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nhà nước dân chủ và mối quan hệ giữa dân vận và xây dựng nhà nước dân chủ.
Quan điểm về nhà nước dân chủ: Trên hành trình tìm đường cứu nước cũng như trong quá trình trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khát khao giải phóng dân tộc; đồng thời, giải phóng con người một cách triệt để. Trong tác phẩm Dân vận, Người đã chỉ rõ bản chất dân chủ của chế độ xã hội mới:
“Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân.
Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân.
Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân.
Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra.
Ðoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên.
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”1.
Với những trải nghiệm phong phú rút ra từ thực tiễn các nước trên thế giới mà Người đã đi qua, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thấy điểm mấu chốt tạo nên sự khác biệt của các nền dân chủ chính là cách thức giải quyết vấn đề lợi ích. Người khẳng định, bản chất của nền dân chủ ở nước ta là mọi lợi ích đều vì dân, đồng thời, nhấn mạnh những lợi ích đó không chỉ dừng ở khẩu hiệu như các cuộc cách mạng tư sản, mà phải được hiện thực hóa bằng hành động cụ thể. Hồ Chí Minh hiểu rõ rằng, dân chủ là thành quả trực tiếp của cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân, do đó, phải được thể hiện trước hết ở việc nhân dân được hưởng thụ những quyền lợi thiết thực và cơ bản nhất với tư cách là người chủ thực sự của đất nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định địa vị làm chủ của Nhân dân, đồng thời nhấn mạnh trách nhiệm của nhân dân đối với sự phát triển của xã hội. Trong tiến trình cách mạng Việt Nam, từ kháng chiến, kiến quốc cho đến xây dựng chế độ mới, Nhân dân vừa là chủ thể, vừa là lực lượng quyết định đưa cách mạng đến thắng lợi. Tuy nhiên, để phát huy đầy đủ vai trò và trách nhiệm đó, theo Người, cần thiết phải xây dựng một nền dân chủ thực sự, trong đó có những người đại diện chân chính cho quyền và lợi ích của Nhân dân, từ Trung ương tới cơ sở. Nói cách khác, mặc dù Nhân dân là người trực tiếp giành lấy quyền lực, nhưng quyền lực đó phải được trao cho những người đại diện do chính Nhân dân lựa chọn. Nhân dân có trách nhiệm bầu ra, đồng thời kiểm tra, giám sát những người đại diện ấy, theo dõi hoạt động của bộ máy nhà nước để xem việc thực thi quyền lực có đúng đắn, có thực sự vì lợi ích của Nhân dân hay không. Do đó, theo Người, quyền hạn của Nhà nước thực chất là quyền lực được Nhân dân ủy thác, thông qua việc cử ra các cán bộ, công chức làm người đại diện.
Mối quan hệ giữa dân vận và xây dựng nhà nước dân chủ: Xuyên suốt tiến trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng và thực hiện công tác dân vận bằng nhiều hình thức phong phú, sáng tạo. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, Người nhận thấy, công tác dân vận còn những hạn chế, khuyết điểm nhất định. Vì vậy, để phát huy tối đa sức mạnh của nhân dân, ngay phần mở đầu tác phẩm Dân vận, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Vấn đề Dân vận nói đã nhiều, bàn đã kỹ nhưng vì nhiều địa phương, nhiều cán bộ chưa hiểu thấu, làm chưa đúng, cho nên cần phải nhắc lại”2. Trong đó, nội dung đầu tiên mà Người nhắc lại cho cán bộ chính là nội dung chế độ dân chủ ở nước ta, bởi Người đã thấy rõ mối quan hệ biện chứng giữa công tác dân vận và nội dung xây dựng nhà nước dân chủ ở Việt Nam.
Trước hết, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định dân vận là một yêu cầu khách quan, tất yếu của cách mạng Việt Nam. Người nhấn mạnh: “Lực lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”3. Theo Người, thực hiện tốt công tác dân vận sẽ phát huy được cao nhất tinh thần và lực lượng của nhân dân, từ đó tạo nên sức mạnh to lớn đưa cách mạng đến thắng lợi. Tuy nhiên, muốn làm được điều đó thì công tác dân vận phải “khéo”. Nói cách khác, công tác dân vận không chỉ dừng lại ở tuyên truyền, giải thích mà còn phải thể hiện được “nghệ thuật” trong việc vận động, tập hợp và tổ chức quần chúng nhân dân tham gia vào phong trào cách mạng. Do đó, để công tác dân vận đạt hiệu quả, cần xây dựng một Nhà nước dân chủ, bảo đảm việc thực hành dân chủ rộng rãi trong xã hội. Dân vận mà không gắn với thực hành dân chủ thì có cố gắng hô hào hay tuyên truyền cũng đều dẫn tới kết quả Nhân dân không theo, không phục và không tin. Mặt khác, Hồ Chí Minh chỉ rõ, thông qua thực hành dân chủ, mọi khó khăn của cách mạng đều có thể được giải quyết một cách triệt để, bởi dân chủ chính là “chìa khóa vạn năng” trong công tác dân vận. Dân chủ không chỉ khẳng định địa vị làm chủ của Nhân dân, mà còn là phương thức để tập hợp, khơi dậy và phát huy sức mạnh toàn dân trong sự nghiệp cách mạng. Do đó, muốn xây dựng một nhà nước dân chủ thực sự thì tất yếu phải gắn liền với công tác dân vận, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm để mọi người dân nhận thức sâu sắc về giá trị của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; đồng thời, ý thức rõ vai trò và sức mạnh của mình với tư cách là chủ thể quyền lực. Ngược lại, thông qua nhà nước dân chủ, dân vận ngày càng phát huy vai trò của Nhân dân với tư cách là người chủ và làm chủ của đất nước.
Hai là, quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về dân vận và các bước thực hiện dân vận.
Quan niệm về dân vận: Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và Ðoàn thể đã giao cho”4. Như vậy, theo Người, dân vận phải là vận động tất cả lực lượng của từng người dân cụ thể; không để sót bất cứ một ai, góp thành lực lượng toàn dân, đoàn kết được toàn dân.
Từ quan niệm về dân vận, Người khẳng định, thực chất của công tác dân vận chính là xây dựng và củng cố mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng, Nhà nước và Nhân dân. Theo Người, dân vận luôn gắn với những mục tiêu chính trị cụ thể, phù hợp với yêu cầu và nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam. Thông qua dân vận, các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước được truyền đạt, giải thích, thấm sâu vào quần chúng, biến thành ý chí và hành động cách mạng của nhân dân. Chính vì vậy, dân vận có vai trò khơi dậy và tổ chức các phong trào đấu tranh cách mạng sôi nổi, rộng khắp, nhằm thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ chính trị mà Đảng và Chính phủ giao cho.
Các bước thực hiện dân vận: Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, dân vận không chỉ dừng ở mục tiêu lý luận mà phải biến thành hành động cụ thể. Vì vậy, nếu chỉ dựa vào những bài nói, bài viết và khẩu hiệu thì sẽ không giác ngộ, tổ chức được quần chúng nhân dân. Từ đó, Người đưa ra bốn bước cụ thể trong thực hiện công tác dân vận.
Bước một, thông tin cho dân biết và giải thích cho dân hiểu rõ quyền lợi và nhiệm vụ của họ (dân biết). Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cần phải giải thích cho nhân dân mọi vấn đề; đồng thời nhấn mạnh: “Trước nhất là phải tìm mọi cách giải thích cho mỗi một người dân hiểu rõ ràng: Việc đó là lợi ích cho họ và nhiệm vụ của họ, họ phải hăng hái làm cho kỳ được”5. Người dân cần được giải thích để hiểu về lợi ích, nhiệm vụ và tinh thần trách nhiệm của mình, bởi khi dân chúng đã hiểu, đồng lòng thì việc gì cũng làm được và sẽ tích cực, chủ động phát huy vai trò của bản thân trong thực hiện nhiệm vụ. Vì vậy, cán bộ dân vận phải có trách nhiệm giác ngộ, hướng dẫn và thuyết phục được người dân về sự thống nhất và mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân với tinh thần yêu nước và nghĩa vụ công dân.
Bước hai, bàn bạc với dân, hỏi ý kiến, kinh nghiệm của dân (dân bàn). Người yêu cầu “bất cứ việc gì đều phải bàn bạc với dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm của dân, cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa phương, rồi động viên và tổ chức toàn dân ra thi hành”6. Do đó, cán bộ dân vận phải đi sâu vào quần chúng nhân dân, trao đổi bàn bạc và lắng nghe ý kiến và học tập nhân dân.
Bước ba, động viên và tổ chức toàn dân thi hành (dân làm). Để thi hành công việc một cách hiệu quả, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ phải “động viên và tổ chức toàn dân ra thi hành. Trong lúc thi hành phải theo dõi, giúp đỡ, đôn đốc, khuyến khích dân”7. Nhân dân chính là lực lượng hiện thực hóa mọi chủ trương, đường lối trong thực tiễn, do đó, Đảng và Chính phủ cần phải động viên Nhân dân, tổ chức, lãnh đạo toàn dân thi hành.
Bước bốn, kịp thời tổng kết, rút kinh nghiệm, phê bình, khen thưởng (dân kiểm tra). Chủ tịch Hồ Chí Minh hiểu rất rõ rằng, trong thực thi các công việc sẽ không tránh được những khuyết điểm, hạn chế, do vậy, cần tiến hành kiểm tra. Người nhấn mạnh: “Khi thi hành xong phải cùng với dân kiểm thảo lại công việc, rút kinh nghiệm, phê bình, khen thưởng”8. Trên cơ sở đó sẽ rút ra những kinh nghiệm quý báu để tránh sai lầm tương tự; đồng thời có được căn cứ xác đáng để phê bình, khen thưởng, tạo động lực làm việc cho tất cả mọi người.
Quan điểm về lực lượng thực hiện công tác dân vận: Người chỉ rõ: “Tất cả cán bộ chính quyền, tất cả cán bộ Đoàn thể và tất cả hội viên của các tổ chức nhân dân (Liên Việt, Việt Minh, v.v.) đều phải phụ trách dân vận”9 và coi đây là công việc thường xuyên và liên tục, trong đó cán bộ chính quyền là lực lượng tiên phong trong việc thực hiện công tác dân vận. Trong mỗi công việc được giao, cán bộ chính quyền, cán bộ đoàn thể và cán bộ các cấp, các ngành cần đoàn kết chặt chẽ, phân công và phối hợp trong tuyên truyền, giải thích, bàn bạc và hỗ trợ nhân dân thực hiện nhiệm vụ.
Quan điểm về phương pháp thực hiện dân vận: Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra cách thức thực hiện dân vận: “Những người phụ trách dân vận cần phải óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm”10. Chỉ với mười hai từ, Người đã khái quát đầy đủ những yêu cầu cơ bản mà mỗi cán bộ dân vận phải thực hiện trong quá trình vận động quần chúng, phải luôn suy nghĩ, tìm tòi, phân tích tình hình, nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn để hoàn thành tốt nhiệm vụ vận động nhân dân.
Để “óc nghĩ” đúng đắn và khách quan, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh cán bộ phụ trách dân vận phải có “mắt trông” thì mới có thể tham mưu, đề xuất chính sách, giải pháp cho Đảng và Nhà nước trong việc thực hiện quyền dân chủ của nhân dân. Tuy nhiên, “mắt trông” theo Người vẫn chưa đủ, mà cần có “tai nghe” để thể hiện tinh thần cầu thị. “Tai nghe” giúp cán bộ tiếp nhận đầy đủ, khách quan và trung thực ý kiến, tâm tư, nguyện vọng của nhân dân từ nhiều phía; đồng thời biết dân đã hiểu gì, hiểu đến mức nào, đã làm ra sao và đạt kết quả đến đâu.
Với tư duy biện chứng, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, cán bộ muốn để “óc nghĩ”, “mắt trông” và “tai nghe” hiệu quả thì cách duy nhất là phải “chân đi”, tức là phải đi vào quần chúng, bám sát quần chúng. Khi “chân đi” đến với quần chúng, Người yêu cầu cán bộ phụ trách dân vận đồng thời phải “miệng nói” và “tay làm”. “Miệng nói” để tuyên truyền đường lối, chính sách, giải thích lợi ích và trách nhiệm cho nhân dân, đồng thời phải gắn với “tay làm”; nghĩa là cán bộ phải “thật thà nhúng tay vào việc”, hăng hái, tích cực tham gia mọi công việc. Nếu chỉ “miệng nói” mà không làm thì nhân dân chỉ thấy lý luận, còn nếu chỉ làm mà không nói thì nhân dân không hiểu. Vì vậy, sau khi tuyên truyền, cán bộ phải gương mẫu đi trước để vận động nhân dân cùng làm, cùng giải quyết, thì việc gì cũng thành công, khó khăn nào cũng vượt qua.
2. Sự vận dụng của Đảng ta hiện nay
Thứ nhất, vận dụng quan điểm “lấy dân làm gốc” trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
Một trong những nội dung căn cốt nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tác phẩm Dân vận là tư tưởng coi nhân dân là trung tâm, là chủ thể của cách mạng. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng luôn khẳng định và vận dụng nhất quán quan điểm này và đã cụ thể hóa điều này bằng các nghị quyết quan trọng. Đáng chú ý, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, XII và XIII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng chỉ rõ phải kiên quyết, kiên trì đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, nhằm củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng.
Bên cạnh đó, các quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu như Quy định số 08-QĐi/TW ngày 25/10/2018 của Ban Chấp hành Trung ương về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương đã trở thành cơ chế quan trọng nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ “vừa hồng, vừa chuyên”. Đây chính là sự vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ là “công bộc của dân”, phải gần dân, hiểu dân, trọng dân, dựa vào dân và hết lòng phục vụ nhân dân. Do đó, muốn dân tin, dân yêu, dân theo thì cán bộ phải thực sự gắn bó máu thịt với nhân dân, coi niềm tin và sự hài lòng của nhân dân là thước đo phẩm chất, năng lực và uy tín của mình.
Thấm nhuần những lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhiều cán bộ, đảng viên đã trở thành những hình mẫu sống động về tinh thần nêu gương, gần dân, sát dân, hết lòng phục vụ nhân dân. Nhất là trong thời gian phòng, chống dịch Covid-19 đã có hàng vạn cán bộ, đảng viên ở cơ sở đã không quản ngày đêm “đi từng ngõ, gõ từng nhà, rà từng đối tượng” để tuyên truyền, hỗ trợ, cấp phát nhu yếu phẩm cho người dân. Hay trong công tác xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, các cán bộ cơ sở đã “ba cùng” (cùng ăn, cùng ở, cùng làm) với người dân, trực tiếp hướng dẫn bà con chuyển đổi cơ cấu cây trồng, áp dụng khoa học – kỹ thuật, phát triển sản xuất. Nhiều đồng chí được người dân gọi thân thương là “cán bộ của bản”, “người nhà của dân”. Hiện nay, có không ít cán bộ, nhất là cán bộ trẻ, đã gương mẫu trong thực hiện cải cách thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ số, làm việc ngoài giờ để giải quyết kịp thời hồ sơ, giấy tờ cho người dân. Một số nơi còn triển khai mô hình “ngày thứ bảy vì dân” hay “chính quyền phục vụ” được người dân đồng tình, đánh giá cao…
Những tấm gương ấy cho thấy, khi cán bộ thực sự gần dân, vì dân, thì uy tín của Đảng được nâng cao, lòng dân được củng cố, niềm tin vào chế độ được nhân lên. Đây cũng chính là sự vận dụng sâu sắc quan điểm Hồ Chí Minh: “một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”(11).
Thứ hai, vận dụng tư tưởng “dân vận khéo” trong lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn.
Học tập tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã phát động phong trào thi đua “Dân vận khéo” từ Trung ương đến cơ sở, được triển khai trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh. Phong trào được cụ thể hóa bằng phương châm “nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin, để dân theo”, khuyến khích cán bộ, đảng viên đổi mới phương thức vận động quần chúng, gắn bó mật thiết với nhân dân. Theo đó, nhiều mô hình “dân vận khéo” đã được nhân rộng như xây dựng nông thôn mới ở Đồng bằng sông Hồng, phát triển kinh tế tập thể ở Tây Nguyên, bảo vệ an ninh trật tự ở các đô thị lớn… Qua đó, đã huy động được sức mạnh của nhân dân, tạo đồng thuận xã hội, biến chủ trương của Đảng thành hành động cụ thể như lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Dễ mười lần không dân cũng chịu,/ Khó trăm lần dân liệu cũng xong”12.
Đồng thời, quy chế dân chủ ở cơ sở cũng được triển khai sâu rộng với phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”, qua đó từng bước thể chế hóa tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Nhờ đó, nhân dân có điều kiện tham gia góp ý trực tiếp hoặc gián tiếp vào nhiều quyết định quan trọng như: góp ý về quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội ở địa phương; giám sát các dự án đầu tư công để bảo đảm minh bạch, hiệu quả; quản lý và sử dụng quỹ, các khoản đóng góp của cộng đồng theo đúng nguyên tắc công khai, dân chủ…
Ba là, vận dụng trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài báo Dân vận có giá trị chỉ dẫn sâu sắc đối với sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Người khẳng định, nhân dân là gốc của cách mạng, mọi quyền lực thuộc về Nhân dân; cán bộ, công chức phải là “công bộc của dân”, luôn gần dân, trọng dân, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân. Quan điểm này không chỉ phản ánh bản chất dân chủ của chế độ ta mà còn trở thành nguyên tắc cốt lõi trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ở đó, nhân dân được xác định vừa là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển xã hội. Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”13. Đội ngũ cán bộ, công chức chính là người trực tiếp hiện thực hóa nguyên tắc này trong quản trị quốc gia, trong việc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân.
Trong bối cảnh mới, khi đất nước đang đứng trước những vận hội và thách thức đan xen, việc kiên định vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong bài báo Dân vận càng mang ý nghĩa chiến lược. Những quan điểm cốt lõi như “lấy dân làm gốc”, “cán bộ là công bộc của dân”, “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” cần được cụ thể hóa bằng thể chế, chính sách và được hiện thực hóa bằng hành động thường xuyên của cả hệ thống chính trị. Đây chính là yếu tố quan trọng để củng cố mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân – nhân tố quyết định để giữ vững niềm tin, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Dân tộc Việt Nam tự hào và tin tưởng rằng: “Dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng, với ánh sáng Hồ Chí Minh soi đường, dựa vào sức mạnh nhân dân, khối đại đoàn kết toàn dân, không lực cản nào, không lý do gì có thể ngăn bước chúng ta vươn tới hòa bình, thịnh vượng, dân tộc trường tồn và phát triển” – như Tổng Bí thư Tô Lâm đã khẳng định14.
Chú thích:
1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10. Hồ Chí Minh (2011) Toàn tập. Tập 6. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 232, 232, 234, 232, 233, 233, 233, 233, 233, 233-234.
11. Hồ Chí Minh (2011) Toàn tập. Tập 1. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 284.
12. Hồ Chí Minh (2011) Toàn tập. Tập 15. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 280.
13. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. H. NXB. Chính trị quốc gia Sự thật, 2024, tr. 8.
14 Tổng Bí thư: Không có lý do gì ngăn bước dân tộc ta trường tồn và phát triển. https://vietnamnet.vn/tong-bi-thu-khong-co-ly-do-gi-ngan-buoc-dan-toc-ta-truong-ton-va-phat-trien-2438539.html, truy cập ngày 02/9/2025.