Ngô Hà Trường Sơn
Học viện Chính trị khu vực IV
(Quanlynhanuoc.vn) – Quán triệt quan điểm của Đảng vấn đề dân tộc và công tác dân tộc: “Bảo đảm các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, phát huy nội lực, vươn lên cùng phát triển”1, Những năm qua, các tỉnh ủy, thành ủy vùng đồng bằng sông Cửu Long đã nỗ lực lãnh đạo công tác dân tộc, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào dân tộc thiểu số và thúc đẩy phát triển bền vững. Bài viết tập trung đánh giá thực trạng, rút ra bài học kinh nghiệm và đề xuất giải pháp nhằm tăng cường sự lãnh đạo của các tỉnh ủy, thành ủy trong vùng đối với công tác dân tộc trong thời gian tới.
Từ khóa: Đồng bằng sông Cửu Long; tỉnh ủy; lãnh đạo; công tác dân tộc; đồng bào dân tộc thiểu số.
1. Đặt vấn đề
Vùng đồng bằng sông Cửu Long hiện nay có 5 tỉnh, thành phố gồm: An Giang, Cà Mau, Đồng Tháp, thành phố Cần Thơ và Vĩnh Long. Cộng đồng dân tộc thiểu số ở vùng đồng bằng sông Cửu Long có quá trình hình thành và phát triển từ rất sớm, tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, đời sống của đồng bào các dân tộc thiểu số, nhất là đồng bào Khmer, Chăm vẫn còn nhiều khó khăn. Nhận thức rõ vị trí, vai trò của đồng bào các dân tộc thiểu số đối với sự phát triển nhanh và ổn định của vùng, cũng như những khó khăn, vướng mắc trong phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số, thời gian vừa qua, dưới sự lãnh đạo của các tỉnh ủy, thành ủy, đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào các dân tộc thiểu số đã từng bước được cải thiện. Tuy nhiên, trước những diễn biến phức tạp, khó dự báo của tình hình thế giới, khu vực và các thách thức an ninh phi truyền thống, cùng với yêu cầu đổi mới lãnh đạo, quản lý trong quá trình tinh gọn bộ máy và sáp nhập đơn vị hành chính, các tỉnh ủy, thành ủy vùng đồng bằng sông Cửu Long cần tăng cường lãnh đạo, nâng cao hiệu quả công tác dân tộc, qua đó góp phần thúc đẩy phát triển nhanh, bền vững vùng đồng bào dân tộc thiểu số trong bối cảnh mới.
2. Thực trạng lãnh đạo công tác dân tộc của các tỉnh ủy, thành ủy vùng đồng bằng sông Cửu Long
Các tỉnh ủy, thành ủy vùng đồng bằng sông Cửu Long đã chú trọng lãnh đạo, chỉ đạo công tác dân tộc trên cơ sở bám sát các nghị quyết, quy định của Trung ương, đồng thời, có sự chủ động, linh hoạt trong việc xây dựng các nghị quyết, chương trình, kế hoạch dựa vào điều kiện thực tế ở địa phương.
Tại tỉnh An Giang, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành Kế hoạch số 54-KH/TU ngày 12/6/2018 thực hiện Chỉ thị số 19-CT/TW ngày 10/01/2018 của Ban Bí thư về tăng cường công tác ở vùng đồng bào dân tộc Khmer trong tình hình mới; ngày 31/01/2020, Tỉnh ủy ban hành văn bản số 981-CV/TU về triển khai thực hiện Kết luận số 65-KL/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương (khóa IX) về công tác dân tộc trong tình hình mới.
Tỉnh Cà Mau đã ban hành nhiều văn bản để lãnh đạo, chỉ đạo công tác dân tộc trên địa bàn, như: Quyết định số 301-QĐ/TU ngày 16/5/2017 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy ban hành Đề án đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ nữ, trẻ, cán bộ dân tộc thiểu số nhiệm kỳ 2015 – 2020 và những năm tiếp theo; Chương trình số 60-CTr/TU ngày 29/02/2024 thực hiện Nghị quyết số 43-NQ/TW ngày 24/11/2023 Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) về tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.
Tại tỉnh Vĩnh Long, ngày 18/5/2020, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành văn bản số 2175-CV/TU về triển khai thực hiện Kết luận số 65-KL/TW ngày 30/10/2019 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết 24-NQ/TW về công tác dân tộc; đồng thời, cụ thể hóa thành các kế hoạch, chương trình để tổ chức thực hiện, như: Quyết định số 1812/QĐ-UBND ngày 05/9/2022 của UBND tỉnh ban hành Kế hoạch thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số giai đoạn 2021 – 2030, giai đoạn I từ năm 2022 – 2025 trên địa bàn tỉnh.
Tỉnh ủy Đồng Tháp đã chỉ đạo UBND tỉnh xây dựng các chương trình, kế hoạch để tổ chức thực hiện, tiêu biểu là Kế hoạch số 208/KH-UBND ngày 07/6/2022 về triển khai thực hiện Chiến lược công tác dân tộc giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2045 trên địa bàn tỉnh.
Các tỉnh ủy, thành ủy thường xuyên quan tâm, lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội tăng cường tuyên truyền chủ trương, nghị quyết của Trung ương và Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy về công tác dân tộc trên địa bàn; phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên trong thực hiện các chính sách dân tộc; tập trung lãnh đạo công tác xây dựng hệ thống chính trị ở các xã, phường có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống cũng như tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chủ trương, chính sách về phát triển toàn diện vùng. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên của các tỉnh ủy, thành ủy, quá trình thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác dân tộc đạt được nhiều kết quả quan trọng:
Về xây dựng hệ thống chính trị: hệ thống chính trị trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số không ngừng được củng cố, vững mạnh toàn diện. Các địa phương có đông đồng bào dân tộc cơ bản thực hiện tốt việc cơ cấu cấp ủy và chức danh lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp xã có cán bộ là người dân tộc thiểu số. Nhiệm kỳ 2015 – 2020, toàn vùng có 20 cán bộ, đảng viên người dân tộc thiểu số tham gia ban chấp hành đảng bộ tỉnh2. Các địa phương có đông đồng bào dân tộc trong vùng đều bố trí cán bộ người dân tộc giữ một trong các chức danh chủ chốt ở cơ sở.
Công tác phát triển đảng viên là người dân tộc thiểu số đạt nhiều kết quả tích cực, năm 2015 toàn vùng có 21.564 đảng viên là người dân tộc thiểu số thì đến đầu 2020, số lượng đảng viên là người dân tộc thiểu số của vùng là 24.578 đảng viên3. Không có tình trạng ấp, khóm vùng đồng bào dân tộc thiểu số “trắng đảng viên”. Ở một số địa phương, đảng viên là người dân tộc thiểu số chiếm tỷ lệ khá cao như tại tỉnh An Giang, năm 2018, tỉnh có 1.095 đảng viên là người dân tộc thiểu số nhưng đến năm 2024 đã có 1.699 đảng viên là người dân tộc thiểu số4, bình quân mỗi năm kết nạp thêm được hơn 100 đảng viên là người dân tộc thiểu số.
Công tác xây dựng đội ngũ đoàn viên, hội viên của các đoàn thể trong hệ thống chính trị tỉnh cũng được các tỉnh ủy, thành ủy trong vùng thực hiện tốt. Năm 2023, tính riêng đội ngũ nhân lực công tác tại Mặt trận Tổ quốc ở cấp tỉnh người Khmer là 15 người, người Hoa là 3 người; ở cấp huyện, người Khmer là 32 người, người Hoa là 2 người; ở cấp xã người Khmer là 153 người, người Hoa là 24 người, đều tăng so với năm 20195.
Về kinh tế: đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số vùng đồng bằng sông Cửu Long tiếp tục ổn định và từng bước được nâng lên, tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân khoảng 2 – 3%/năm6. Nhiều mô hình sản xuất có hiệu quả được triển khai, nhân rộng, như: mô hình sản xuất lúa kênh bê tông nổi, mô hình trồng dừa sáp, bưởi da xanh, trồng cây gấc của đồng bào Khmer tỉnh Vĩnh Long.
Các làng nghề truyền thống từng bước được phục hồi và phát triển mạnh, như: làng nghề bánh tét Trà Cuôn, làng nghề dệt chiếu Hàm Giang (tỉnh Vĩnh Long), làng nghề làm nồi đất của đồng bào Khmer tỉnh An Giang, làng nghề dệt thổ cẩm của đồng bào Chăm (tỉnh An Giang). Nhiều tổ hợp tác trong vùng đồng bào dân tộc hoạt động có hiệu quả, góp phần giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân tại địa phương.
Về văn hóa – xã hội: công tác giữ gìn, phát huy các giá trị văn hóa dân tộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số cũng được các tỉnh ủy, thành ủy trong vùng quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, đạt được nhiều kết quả tích cực. Năm 2024, hơn 96,07% số người dân tộc Khmer, 96,7% dân tộc Hoa, 90,8% dân tộc Chăm được sử dụng nguồn nước hợp vệ sinh7. Các chương trình phát thanh, truyền hình, báo, tạp chí tiếng dân tộc thiểu số ngày càng được chú trọng, quan tâm nâng cao chất lượng và thời lượng.
Hoạt động giáo dục – đào tạo và phát triển nguồn nhân lực: Mạng lưới trường, lớp, quy mô giáo dục các cấp học được đầu tư xây dựng. Trong vùng đã có nhiều cơ sở đào tạo dành riêng cho đồng bào dân tộc thiểu số, như: Trường Bổ túc văn hóa Pali Trung cấp Nam Bộ, Học viện Phật giáo Nam tông Khmer; Khoa Ngôn ngữ – Văn hóa – Nghệ thuật Khmer Nam Bộ, trường Đại học Trà Vinh,… một số trường dành cho con em đồng bào dân tộc Hoa học tập, như: Trường mầm non, tiểu học Tân Minh Trí (Vĩnh Long), Trường phổ thông Việt – Hoa (thành phố Cần Thơ), trường bổ túc Hoa ngữ (thành phố Cần Thơ).
Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân các dân tộc thiểu số được quan tâm, giai đoạn 2016 -2020, có 99,8% xã vùng dân tộc có trạm y tế; tỷ lệ xã có trạm y tế đạt chuẩn quốc gia chiếm 94,2%, trên 70.000 lượt người được khám, chữa bệnh mỗi năm. Đội ngũ cán bộ y tế người dân tộc thiểu số được quan tâm đào tạo, nâng cao về số lượng và chất lượng, với khoảng 2.000 cán bộ dân tộc thiểu số8, cơ bản đáp ứng nhu cầu khám và chữa bệnh cho người dân.
Về quốc phòng – an ninh: cấp ủy các cấp trên địa bàn các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long đã thực hiện tốt nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội gắn với bảo đảm quốc phòng – an ninh; xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, đề cao cảnh giác và chủ động đấu tranh ngăn chặn các hoạt động phá hoại của các thế lực thù địch, phần tử xấu lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền để chống phá, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết lương giáo ở vùng dân tộc.
Nhiều mô hình mới, cách làm hay được triển khai, huy động sự tham gia của đồng bào Khmer tham gia giữ gìn an ninh trật tự, như: “Mô hình phát huy vai trò người có uy tín trong vùng dân tộc Khmer”, “Câu lạc bộ 3 tích cực trong đồng bào dân tộc Khmer” (tích cực tham gia thực hiện tự quản, tự phòng, tự bảo vệ an ninh trật tự và tham gia hòa giải ở cơ sở; tích cực bảo tồn, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc mình và văn hóa cộng đồng; tích cực tham gia xây dựng nông thôn mới)…
Tuy nhiên, bên cạnh kết quả tích cực, công tác dân tộc ở đồng bằng sông Cửu Long còn một sốhạn chế nhất định, như:
(1) Đời sống của một bộ phận người dân tộc thiểu số, nhất là đồng bào Khmer còn khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo, hộ cận nghèo còn cao; chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp, dịch vụ còn chậm. Năm 2024, số người dân tộc Khmer từ 15 tuổi trở lên làm việc trong lĩnh vực dịch vụ cá nhân, bảo vệ, bán hàng và nông, lâm, ngư nghiệp lần lượt là 90.484 người và 93.564 người trên tổng số 598.985 người (tỷ lệ lần lượt là 15,1% và 15,6%), trong khi tỷ lệ này ở dân tộc Hoa là 24.554 người và 6.609 người trên tổng số 59.952 người (40,9% và 11,02%); ở đồng bào Chăm của vùng là 2.477 người và 263 người trên tổng số 4.444 người (55,7% và 5,9%)9. tỷ lệ đảng viên là người dân tộc còn thấp so với tổng số đảng viên, như tại tỉnh Cà Mau năm 2023, tỷ lệ đảng viên là người dân tộc thiểu số trên tổng số đảng viên của tỉnh chỉ đạt gần 1,5%10.
(2) Số lượng cán bộ, công chức, viên chức là người dân tộc ở cấp cơ sở vẫn còn thiếu so với yêu cầu nhiệm vụ xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh vùng đồng bào dân tộc. Đơn cử như tại tỉnh An Giang có số lượng người dân tộc thiểu số khá cao: 92.282 người nhưng chỉ có 1.154 người là cán bộ, công chức, viên chức (năm 2024)11.
(3) Công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chủ trương, chính sách dân tộc ở vùng đôi lúc chưa kịp thời, chủ yếu là kiểm tra định kỳ, chưa có nhiều hoạt động giám sát chuyên đề.
3. Một số giải pháp
Thứ nhất, không ngừng nâng cao nhận thức của các cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội và Nhân dân trong vùng về tầm quan trọng của việc lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện thường xuyên các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và nghị quyết của cấp trên đối với phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Thống nhất quan điểm xác định công tác dân tộc là nhiệm vụ thường xuyên của cấp ủy, gắn chặt với trách nhiệm của người đứng đầu, bảo đảm sự chỉ đạo thống nhất, xuyên suốt trong hệ thống chính trị, qua đó tạo động lực, khuyến khích các cấp, các ngành vào cuộc quyết liệt, đồng bộ, góp phần nâng cao hiệu quả công tác dân tộc tại địa phương.
Thứ hai, tăng cường phổ biến, quán triệt cho đảng viên và quần chúng nhân dân nhận thức đúng, đầy đủ về vai trò, ý nghĩa của các chủ trương, chính sách về phát triển toàn diện vùng đồng bào dân tộc và vị trí, vai trò của cộng đồng dân tộc thiểu số trong xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc và giữ vững ổn định chính trị, an ninh, trật tự tại địa phương. Đồng thời, phát huy hơn nữa vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội, các tổ chức đoàn thể ở cơ sở và người có uy tín trong vùng đồng bào dân tộc. Đẩy mạnh chuyển đổi số, tận dụng tối đa ưu thế của mạng xã hội trong công tác tuyên truyền, vận động với mục tiêu làm chuyển biến nhận thức, nâng cao tính chủ động, tích cực thực hiện tốt các chủ trương, chính sách dân tộc, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào dân tộc thiểu số, thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội bền vững vùng dân tộc thiểu số.
Thứ ba, huy động mọi nguồn lực để đầu tư phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó,ưu tiên xây dựng hạ tầng phục vụ sản xuất gắn với mục tiêu giảm nghèo bền vững, đồng thời, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết các dân tộc, tôn trọng và giữ gìn bản sắc văn hóa truyền thống. Việc huy động nguồn lực cần được triển khai đồng bộ, kết hợp giữa ngân sách nhà nước với xã hội hóa, tăng cường hợp tác công – tư, tranh thủ sự hỗ trợ về vốn, kinh nghiệm từ các tổ chức quốc tế và doanh nghiệp, cũng như phát huy vai trò chủ thể của cộng đồng trong phát triển bền vững. Trước mắt, cần tập trung giải quyết các vấn đề cấp thiết, như: đất ở, đất sản xuất, vốn vay ưu đãi, đầu ra cho sản phẩm và chuyển đổi sinh kế. Bên cạnh đó, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là thế hệ trẻ người dân tộc thiểu số thông qua giáo dục, đào tạo nghề, trang bị kỹ năng số và khuyến khích khởi nghiệp, sáng tạo, góp phần bảo đảm sự phát triển toàn diện và bền vững của vùng.
Ngoài ra, chú trọng bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa, đặc biệt là những giá trị văn hóa – lịch sử gắn với hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng, đồng thời từng bước khai thác hợp lý các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể để phát triển du lịch cộng đồng, nâng cao thu nhập và đời sống tinh thần của người dân.
Thứ tư, quan tâm chăm lo xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vùng đồng bào dân tộc thiểu số.Xây dựng lực lượng cốt cán làm công tác dân tộc có đủ phẩm chất, năng lực đáp ứng được yêu cầu, nhất là xây dựng đội ngũ cán bộ là người dân tộc và người có uy tín trong vùng đồng bào dân tộc.Thực hiện nghiêm túc các quy định về cơ cấu cán bộ người dân tộc trong cấp ủy, chính quyền, các tổ chức chính trị – xã hội, đồng thời, có cơ chế, chính sách ưu đãi phù hợp, từng bước hình thành đội ngũ cán bộ chuyên trách về công tác dân tộc. Về lâu dài, ở một số địa phương có đông đồng bào dân tộc sinh sống cần triển khai nghiên cứu, ban hành đề án về xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc với tầm nhìn xa, chỉ tiêu cụ thể, đồng thời, đánh giá hằng năm để điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với tình hình thực tiễn thực hiện các nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh trong từng giai đoạn.
Thứ năm, tập trung xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể để thực hiện các nghị quyết, kết luận, chương trình, đề án… của Trung ương về phát triển vùng đồng bào dân tộc. Quá trình xây dựng các chương trình, kế hoạch phải rõ về nội dung, cách thức, nguồn lực và thời gian thực hiện; chú ý đến tính đặc thù trong hoạch định chính sách đối với đồng bào dân tộc; bảo đảm sự tham gia của người có uy tín trong vùng đồng bào dân tộc trong tham gia xây dựng chủ trương, chính sách dân tộc tại địa phương. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết việc thực hiện các nghị quyết, kết luận, chương trình, kế hoạch của Đảng, Nhà nước, của tỉnh ủy, thành ủy về chính sách dân tộc đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn. Chú trọng thực hiện kiểm tra, giám sát thường xuyên, kiểm tra đột xuất việc thực hiện một số nội dung về phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng đồng bào dân tộc để kịp thời nhận diện, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho các địa phương trong quá trình triển khai thực hiện.
4. Kết luận
Công tác dân tộc ở vùng đồng bằng sông Cửu Long giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế – xã hội, củng cố quốc phòng – an ninh và xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Những năm qua, dưới sự lãnh đạo của các tỉnh ủy, thành ủy, đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số đã có nhiều chuyển biến tích cực; hệ thống chính trị cơ sở được củng cố; nhiều mô hình sản xuất, gìn giữ văn hóa truyền thống được triển khai hiệu quả, góp phần quan trọng vào sự phát triển bền vững của vùng. Tuy nhiên, thực tiễn cũng cho thấy còn không ít khó khăn, hạn chế, như: tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo trong đồng bào dân tộc Khmer, Chăm còn cao; chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu; tỷ lệ cán bộ, đảng viên là người dân tộc thiểu số còn thấp; công tác kiểm tra, giám sát chưa đồng đều. Điều này đòi hỏi các tỉnh ủy, thành ủy phải tiếp tục tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác dân tộc một cách toàn diện, đồng bộ và hiệu quả hơn, đây không chỉ là yêu cầu trước mắt mà còn là định hướng lâu dài, qua đó, tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển toàn diện, bền vững của vùng đồng bằng sông Cửu Long và đóng góp tích cực vào sự nghiệp phát triển chung của đất nước.
Chú thích:
1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2023). Nghị quyết số 43-NQ/TW, ngày 24/11/2023 về tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.
2, 3, 8. Vụ Địa phương III, Ủy ban dân tộc (2020). Báo cáo số 409/BC-VĐP ngày 05/11/2020về tình hình vùng dân tộc, kết quả thực hiện công tác dân tộc, chính sách dân tộc khu vực Tây Nam Bộ, giai đoạn 2016 – 2020.
4, 11. Tỉnh ủy An Giang (2024). Báo cáo số 527-BC/TU ngày 08/11/2024 sơ kết 5 năm thực hiện Kết luận số 65-KL/TW ngày 30/10/2019 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) về công tác dân tộc trong tình hình mới.
5. Bạch Thanh Sang (2024). Chất lượng đội ngũ nhân lực làm công tác chuyên trách Mặt trận vùng đồng bằng sông Cửu Long: thực trạng và giải pháp. Kỷ yếu hội thảo khoa học: “Phát huy vai trò của hệ thống chính trị cơ sở trong công tác dân tộc vùng Tây Nam bộ, Cần Thơ, tr. 55 – 56.
6. Vụ Công tác Dân tộc địa phương, Ủy ban Dân tộc (2023). Báo cáo số 210/BC-CTDTĐP-BPKVNB ngày 12/12/2023 kết quả thực hiện công tác dân tộc năm 2023 và nhiệm vụ trọng tâm năm 2024.
7, 9. Kết quả điều tra, thu thập thông tin về thực trạng kinh tế – xã hội của 53 dân tộc thiểu số năm 2024. http://www.cema.gov.vn/thong-bao/ket-qua-dieu-tra-thu-thap-thong-tin-ve-thuc-trang-kinh-te-xa-hoi-cua-53-dan-toc-thieu-so-nam-2024.htm, ngày 18/7/2025.
10. Ủy ban nhân dân tỉnh Cà Mau (2023). Báo cáo số 474/BC-UBND ngày 19/11/2023 rà soát, đánh giá tình hình triển khai thực hiện Kết luận 65–KL/TW ngày 30/10/2019 của Bộ Chính trị về công tác dân tộc trong tình hình mới.
 
				