Những vấn đề đặt ra trong sử dụng cán bộ, công chức cấp xã người dân tộc thiểu số tại tỉnh Đắk Lắk hiện nay

ThS. Nguyễn Văn Minh
NCS của Học viện Hành chính và Quản trị công

(Quanlynhanuoc.vn) – Trong xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức thì sử dụng là khâu đặc biệt quan trọng và là mắt xích yếu nhất trong công tác cán bộ. Tại tỉnh Đắk Lắk, việc sử dụng cán bộ, công chức nói chung, đặc biệt là cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số tại tỉnh Đắk Lắk nói riêng hiện nay đang gặp một số thách thức. Bài viết nghiên cứu, phân tích thực trạng và đề xuất, kiến nghị một số giải pháp nhằm phát huy những điểm mạnh, khắc phục những điểm yếu trong sử dụng cán bộ, công chức cấp xã người dân tộc thiểu số tại tỉnh Đắk Lắk.

Từ khóa: Vấn đề sử dụng, cán bộ, công chức, cấp xã, dân tộc thiểu số, Đắk Lắk.

1. Đặt vấn đề

Đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã nói chung, đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã người dân tộc thiểu số tại tỉnh Đắk Lắk nói riêng đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng – an ninh của địa phương. Hiện nay, việc sử dụng cán bộ, công chức cấp xã người dân tộc thiểu số tại tỉnh Đắk Lắk hiệu quả chưa cao, chưa tạo ra được động lực nâng cao chất lượng và hiệu quả của hệ thống chính trị và thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội của vùng dân tộc thiểu số. Nguyên nhân là do chưa bảo đảm các điều kiện cần thiết; chưa đổi mới cơ chế, chính sách tạo động lực để thu hút và việc bố trí, sử dụng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã người dân tộc thiểu số chưa đúng chuyên môn, sở trường nhằm phát huy phẩm chất và năng lực của họ. Ngoài ra, đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã người dân tộc thiểu số tỉnh Đắk Lắk còn có những đặc điểm riêng về tâm lý, văn hóa – xã hội, đây là vấn đề mà các cấp, các ngành phải quan tâm để có những chính sách, biện pháp sử dụng hiệu quả đội ngũ này.

2. Thực trạng sử dụng cán bộ, công chức cấp xã người dân tộc thiểu số tại tỉnh Đắk Lắk

Thời gian qua, nhờ các chính sách ưu tiên của Đảng, Nhà nước và sự quan tâm của Tỉnh ủy Đắk Lắk, một số văn bản xây dựng và phát triển nguồn nhân lực được ban hành, như: Nghị quyết số 13-NQ/TU ngày 19/5/2022 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới; Nghị quyết số 14-NQ/TU ngày 27/7/2022 về phát triển nguồn nhân lực trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk đến năm 2025, định hướng đến năm 2030;… Tỉnh đã chủ động trong việc đào tạo, bồi dưỡng, tạo nguồn cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số từ cơ sở, từng bước nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ phù hợp với đặc thù văn hóa, phong tục và ngôn ngữ bản địa. Một số cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số đã phát huy tốt vai trò, được tín nhiệm trong cộng đồng góp phần quan trọng trong việc thực hiện các chính sách dân tộc, giữ gìn an ninh trật tự và thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội tại địa phương. Đội ngũ cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số ở tỉnh Đắk Lắk tăng cả về số lượng và chất lượng; phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực thực thi công vụ ngày càng được nâng cao. Các khâu của công tác cán bộ, như: đánh giá; quy hoạch; đào tạo, bồi dưỡng; bố trí, sử dụng; quản lý và các chế độ chính sách đối với cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số có nhiều tiến bộ.

Tỉnh Đắk Lắk mới sáp nhập từ tỉnh Đắk Lắk cũ và tỉnh Phú Yên cũ, là vùng đất đa dân tộc với 49 dân tộc anh em sinh sống, tỷ lệ dân tộc thiểu số chiếm hơn 25% dân số toàn tỉnh; trong đó, dân tộc thiểu số tại chỗ, là: Ê đê, M’Nông, Jrai, Ba Na, Xơ Đăng,… chiếm tỷ lệ 26%, các dân tộc thiểu số còn lại chiếm tỷ lệ 11%2. Với đặc thù đa dạng dân tộc của vùng, đội ngũ cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số đóng vai trò hết sức quan trọng trong phát triển kinh tế – xã hội, giữ vững ổn định an ninh, trật tự ở cơ sở, nhất là các xã có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. Cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số sinh ra và lớn lên tại địa phương, chung tiếng nói, am hiểu phong tục, tập quán, gần gũi, gắn bó với buôn làng, đồng bào nên làm việc tại chính quyền cơ sở có nhiều lợi thế trong việc tuyên truyền, vận động đồng bào hiểu và thực hiện tốt các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đẩy mạnh sản xuất, xóa đói, giảm nghèo nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của chính gia đình đồng bào.

Tuy nhiên, bên cạnh nhiều kết quả đạt được thì đội ngũ cán bộ, công chức là người dân tộc thiểu số trong hệ thống chính trị các cấp ở tỉnh Đắk Lắk vẫn chưa đạt tỷ lệ theo yêu cầu quy định của Chính phủ. Tổng hợp từ tỉnh Đắk Lắk đến 31/7/2025, tính trên số dân thì tỷ lệ cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số còn thấp. Các dân tộc thiểu số chiếm hơn 25% số dân toàn tỉnh nhưng cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số ở cấp xã chỉ chiếm tỷ lệ hơn 15%. Trong đó, cán bộ người dân tộc thiểu số chiếm tỷ lệ là 19,39%; công chức chiếm tỷ lệ là 11,65% cán bộ, công chức cấp xã toàn tỉnh. Tỷ lệ đại biểu là người dân tộc thiểu số trong Hội đồng nhân dân cấp xã toàn vùng, nhiệm kỳ 2021 – 2026 chiếm tỷ lệ 27,6%. Trong cơ quan Đảng, nhiệm kỳ 2020 – 2025, số cán bộ tham gia cấp ủy cơ sở là 17,9%1. Tinh thần trách nhiệm, phong cách lề lối làm việc, năng lực thực thi công vụ của một bộ phận cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của địa phương. Công tác tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số ở một số xã, phường còn mang tính hình thức, còn có nhiều hạn chế, chưa đạt hiệu quả.

Trước yêu cầu sáp nhập và tinh gọn bộ máy hiện nay, đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã người dân tộc thiểu số ở Đắk Lắk hiện vẫn còn nhiều hạn chế. Số lượng, cơ cấu thành phần, năng lực, trình độ, mức độ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chưa đồng đều; nhiều cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số trình độ chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn; năng lực bao quát, quyết đoán trong chỉ đạo thực tiễn không cao; có nơi bắt đầu hẫng hụt cán bộ, công chức sau khi lớp cán bộ, công chức lớn tuổi nghỉ công tác, nghỉ hưu,… Bên cạnh đó, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã người dân tộc thiểu số chưa được quan tâm chú trọng, việc đào tạo, bồi dưỡng chưa gắn với thực tế và nhu cầu sử dụng. Công tác phối hợp triển khai nhiệm vụ giữa các cơ quan đơn vị chưa thật sự chặt chẽ, việc dự báo nhu cầu và xây dựng kế hoạch tuyển dụng, sử dụng của một số cơ quan, đơn vị chưa sát với thực tế dẫn tới số lượng cán bộ, công chức chưa đạt chỉ tiêu, tỷ lệ đề ra.

Trình độ học vấn và chuyên môn của cán bộ, công chức cấp xã người dân tộc thiểu số ở tỉnh Đắk Lắk còn những hạn chế và thách thức nhất định. 12,43% số cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số chỉ có trình độ trung cấp; hơn 30,98% thiếu tiêu chuẩn về chính trị và chưa được bồi dưỡng quản lý nhà nước chiếm tỷ lệ hơn 62%3. Nhiều nơi bố trí cán bộ, công chức không đúng chuyên ngành. Cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số khó tiếp cận các lớp bồi dưỡng dài hạn do điều kiện kinh tế, gia đình, không sắp xếp được công việc cơ quan. Vẫn còn địa phương có tình trạng dân tộc thiểu số ít người chưa có người tham gia vào hệ thống chính trị đúng theo kế hoạch phê duyệt. Một bộ phận có trình độ chuyên môn, tin học, ngoại ngữ còn hạn chế, ảnh hưởng đến việc tiếp cận văn bản, chính sách mới. Thiếu kinh nghiệm trong quản lý hành chính hiện đại (chuyển đổi số, tiếp cận công nghệ – kỹ thuật hiện đại…). Tỷ lệ nữ người dân tộc thiểu số tham gia vào làm việc trong hệ thống chính trị cấp xã thấp hơn nam giới 2,25 lần (30,76% so với 69,24%)4.

Uy tín xã hội của cán bộ, công chức cấp xã người dân tộc thiểu số chính là sự đánh giá, công nhận và tín nhiệm của cộng đồng địa phương đối với năng lực, phẩm chất đạo đức, tinh thần trách nhiệm và khả năng phục vụ Nhân dân của họ. Kết quả khảo sát người dân tộc thiểu số về mức độ tin cậy (uy tín) của cán bộ, công chức cấp xã người dân tộc thiểu số (số phiếu phát ra 450 phiếu và thu vào 445 phiếu) 5, cụ thể:

Bảng 1. Kết quả khảo sát người dân tộc thiểu số về sự tin cậy (uy tín) của đội ngũ cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số tại tỉnh Đắk Lắk

STTNội dung khảo sátKết quả đánh giá (Thang đo likert: 1 – 5)Ghi chú
1Cung cấp thông tin liên quan đến người dân (nhanh chóng, chính xác, đầy đủ)2.88 
2Cán bộ, công chức tiếp thu ý kiến đóng góp của người dân (có hòm thư góp ý, lịch tiếp công dân,…)3.10 
3Cán bộ, công chức bình đẳng trong giải quyết công việc cho người dân2.92 
4Cán bộ, công chức hiểu được mong muốn, nguyện vọng của người dân2.78 
5Cán bộ, công chức nhiệt tình, tận tâm với người dân2.80 
6Cán bộ, công chức làm việc khoa học, linh hoạt và chính xác2.69 
7Cán bộ, công chức ghi nhận mọi yêu cầu của người dân2.75 
8Cán bộ, công chức giải quyết công việc đúng thời hạn2.81 
 Trung bình2.84 

Kết quả khảo sát cho thấy, sự tin cậy (uy tín) của cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số được người dân đánh giá chỉ đạt ở mức điểm trung bình (2.84), điều đó cho thấy, người dân chưa thực sự hài lòng về cách thức, năng lực giải quyết công việc của cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số. Một số ý kiến người dân còn cho rằng, việc xử lý công việc của cán bộ, công chức cấp xã là người dân tộc thiểu số chưa khoa học, linh hoạt và chính xác; đôi khi còn chậm; gây phiền hà cho người dân; chưa nắm bắt tâm tư, nguyện vọng cũng như tạo sự gần gũi chia sẻ với người dân,…

Với câu hỏi: “Theo ông/ bà ở các địa phương có đông người dân tộc thiểu số, có nhất thiết cần phải có cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số không? Tại sao?”. Tuyệt đại đa số người dân được khảo sát đưa ra ý kiến lựa chọn “Có” (436/445, tỷ lệ 98.0%)6 và cho rằng, cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số có vai trò to lớn, đóng góp, xây dựng tâm huyết để góp phần nâng nâng cao hiệu quả hệ thống chính trị cấp cơ sở và phát triển địa phương.

Một số ý kiến đóng góp, như: hiểu rõ văn hóa, phong tục, tập quán; tạo niềm tin và sự gần gũi với Nhân dân; thuận lợi trong quản lý và triển khai chính sách; góp phần bảo tồn bản sắc dân tộc và tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc hoặc là có ý kiến cho rằng, cán bộ, công chức là người dân tộc thiểu số có vai trò quan trọng trong hệ thống chính trị, là hạt nhân trong việc phát huy sức mạnh đại đoàn kết của cộng đồng, là người trực tiếp góp phần tổ chức đưa chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước vào cuộc sống của đồng bào dân tộc thiểu số,… Những ý kiến đóng góp cho thấy, người dân rất quan tâm đến chất lượng phục vụ của cấp xã, từ đó, người dân sẽ có những sự điều chỉnh, nâng cao ý thức trách nhiệm khi liên hệ công việc; tham gia tích cực các hoạt động địa phương và chấp hành nghiêm nội quy, quy chế văn hóa địa phương; tìm hiểu các văn bản liên quan, quy trình giải quyết công việc trước khi liên hệ công việc,…

3. Đề xuất, kiến nghị

Cán bộ, công chức cấp xã là lực lượng trực tiếp thực hiện các chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước tại cơ sở, đóng vai trò trung tâm trong hệ thống chính trị ở địa phương. Đối với tỉnh Đắk Lắk, tỷ lệ người dân tộc thiểu số chiếm tỷ lệ tương đối cao nên việc sử dụng đội ngũ người dân tộc thiểu số không chỉ là yêu cầu khách quan về mặt tổ chức bộ máy mà còn là giải pháp quan trọng để bảo đảm tính đại diện, hiệu lực, hiệu quả trong quản lý nhà nước.

Thứ nhất, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng giúp đội ngũ cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng quản lý hành chính và khả năng thực thi công vụ trong điều kiện mới. Tổ chức các khóa đào tạo chuyên biệt, tại chỗ; ứng dụng phương pháp đào tạo linh hoạt, kết hợp lý thuyết và thực hành; tăng cường sử dụng tiếng dân tộc trong giảng dạy; mở rộng đào tạo từ xa, học trực tuyến phù hợp với điều kiện thực tế.

Đổi mới nội dung, phương pháp đào tạo, thiết kế chương trình đào tạo phù hợp với trình độ xuất phát và nhu cầu thực tiễn của cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số, tập trung vào các kỹ năng còn yếu, như: lập kế hoạch, giao tiếp hành chính, sử dụng công nghệ thông tin và xử lý tình huống trong công việc. Tổ chức các lớp đào tạo tại chỗ hoặc luân phiên giữa các địa phương: giảm thiểu chi phí di chuyển, tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ, công chức công tác ở vùng sâu, vùng xa tham gia. Ưu tiên hình thức đào tạo “cầm tay chỉ việc” gắn với công việc cụ thể tại địa phương. Đẩy mạnh hình thức đào tạo từ xa, trực tuyến: ứng dụng công nghệ thông tin để tăng tính linh hoạt và hiệu quả, nhất là trong bối cảnh chuyển đổi số.

Tăng cường đội ngũ giảng viên am hiểu vùng dân tộc thiểu số, mời giảng viên có kinh nghiệm công tác thực tiễn tại vùng dân tộc để giúp học viên dễ tiếp cận và áp dụng kiến thức vào thực tiễn. Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn cho cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số về ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, giải quyết thủ tục hành chính và xây dựng hệ thống thông tin quản lý tốt nhằm đáp ứng yêu cầu của chuyển đổi số trong hệ thống chính trị giai đoạn hiện nay.

Thứ hai, đổi mới công tác tuyển dụng, đánh giá và sử dụng cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số, áp dụng hình thức đánh giá năng lực thực tiễn; xây dựng cơ chế tuyển chọn linh hoạt, ưu tiên năng lực thực tế và kinh nghiệm công tác cơ sở; có lộ trình quy hoạch và bổ nhiệm minh bạch, phù hợp. Bảo đảm lựa chọn và bố trí đúng người, đúng việc; phát huy hiệu quả năng lực thực tế thay vì chỉ dựa vào bằng cấp, cơ cấu.

Tuyển dụng linh hoạt, ưu tiên người địa phương có trình độ, năng lực: xây dựng cơ chế tuyển dụng phù hợp với vùng dân tộc thiểu số, kết hợp giữa thi tuyển và xét tuyển; ưu tiên những người có đóng góp tại cơ sở hoặc trưởng thành từ phong trào quần chúng. Thiết lập hệ thống đánh giá công bằng, dựa trên kết quả thực tiễn; đánh giá không chỉ dựa trên hồ sơ cá nhân mà còn căn cứ vào hiệu quả công việc, mức độ hài lòng của Nhân dân và khả năng phối hợp trong thực thi công vụ. Sử dụng, luân chuyển cán bộ phù hợp, không bố trí cán bộ chỉ mang tính cơ cấu mà không phù hợp với nhiệm vụ. Khuyến khích luân chuyển giữa các xã trong tỉnh, ưu tiên những đơn vị hành chính cấp xã gần nhau nhằm tạo điều kiện học tập kinh nghiệm, nâng cao năng lực. Xây dựng cơ chế quy hoạch phát triển nhân sự dài hạn: có lộ trình cụ thể để phát triển cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số từ nguồn cán bộ trẻ; tạo nguồn cho các chức danh lãnh đạo cấp xã và cấp huyện trong tương lai.

Thứ ba, hoàn thiện chính sách hỗ trợ và đãi ngộ: tạo động lực để cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số gắn bó lâu dài với công việc, yên tâm công tác tại địa bàn khó khăn. Xây dựng chính sách mang tính lâu dài, ổn định về lương, phụ cấp, nhà ở, đi lại và điều kiện làm việc cho cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số tại vùng khó khăn. Xây dựng chế độ phụ cấp đặc thù hợp lý với từng địa phương; tăng phụ cấp thu hút, phụ cấp khu vực, chế độ bồi dưỡng hằng tháng, quý cho cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số công tác tại các xã vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới. Hỗ trợ về nhà ở, đi lại, chăm sóc y tế, có chính sách cấp đất hoặc nhà công vụ, hỗ trợ vay vốn ưu đãi để ổn định đời sống; cải thiện điều kiện làm việc, như: trang thiết bị, phương tiện đi lại, dịch vụ công cộng. Khen, thưởng động viên kịp thời những cán bộ, công chức có sáng kiến, mô hình tốt hoặc có thành tích nổi bật trong thực thi nhiệm vụ.

Thứ tư, tăng cường công tác tư tưởng, truyền thông và tạo môi trường làm việc tốt: thay đổi nhận thức, củng cố niềm tin, nâng cao tinh thần trách nhiệm và bản lĩnh cho cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số bằng hình thức tuyên truyền, nâng cao nhận thức về vai trò, trách nhiệm của cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số; tạo môi trường làm việc bình đẳng, dân chủ, khuyến khích sự sáng tạo và phát triển nghề nghiệp.

Tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng thường xuyên, thông qua sinh hoạt chi bộ, các lớp bồi dưỡng nhận thức về Đảng giúp cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số hiểu rõ vai trò, vị trí của mình trong hệ thống chính trị và nghĩa vụ với cộng đồng. Khuyến khích sự tự tin, chủ động trong công việc: tổ chức các hội thi nghiệp vụ, diễn đàn cán bộ trẻ hoặc các hoạt động giao lưu nhằm tạo sân chơi rèn luyện kỹ năng, đồng thời giúp cán bộ thêm gắn bó với tổ chức. Xây dựng văn hóa công sở thân thiện, cởi mở, môi trường làm việc công khai, minh bạch, dân chủ sẽ giúp cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số phát huy vai trò và cảm thấy được tôn trọng, chia sẻ, từ đó tích cực hơn trong công việc. Tăng cường sự đồng hành của cấp trên, lãnh đạo các cơ quan cần có cơ chế tư vấn, kèm cặp, hỗ trợ thường xuyên cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số ở cấp xã để họ vượt qua khó khăn, đặc biệt trong xử lý công việc mới, tình huống phức tạp giai đoạn đầu sau sáp nhập và tinh gọn bộ máy.

5. Kết luận

Việc sử dụng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã người dân tộc thiểu số tại tỉnh Đắk Lắk là vấn đề mang tính chiến lược đối với sự phát triển bền vững vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Để phát huy tốt vai trò của đội ngũ này cần có sự đổi mới đồng bộ từ chính sách, cơ chế tổ chức đến thực tiễn triển khai. Chỉ khi đội ngũ cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số thực sự được sử dụng đúng chuyên môn, năng lực, được đào tạo và phát triển toàn diện thì hệ thống chính trị cơ sở mới có thể vận hành hiệu quả, góp phần quan trọng vào công cuộc phát triển kinh tế – xã hội, giữ vững quốc phòng – an ninh tại vùng đất chiến lược tỉnh Đắk Lắk.

Chú thích:
1, 3, 4, 7. Tổng hợp từ số liệu các báo cáo của Ban Tổ chức Tỉnh ủy Đắk Lắk và Sở Nội vụ tỉnh Đắk Lắk.
2. UBND tỉnh Đắk Lắk (2025). Đề án số 4345/ĐA-UBND ngày 28/4/2025 sắp xếp các tỉnh Đắk Lắk và Phú Yên.
5, 6. Nguồn: Khảo sát, điều tra năm 2025.
Tài liệu tham khảo:
1. Bộ Nội vụ – Uỷ ban Dân tộc (2014). Thông tư liên tịch số 02/2014/TTLT-BNV-UBDT ngày 11/9/2014 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành chính sách cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số quy định tại Điều 11 Nghị định số 05/2011/NĐ-CP ngày 14/01/2011 về công tác dân tộc.
2. Chính phủ (2011). Nghị định số 05/2011/NĐ ngày 14/01/2011 về công tác dân tộc.
3. Chính phủ (2016). Nghị quyết số 52/NQ-CP ngày 15/6/2016 về đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số giai đoạn 2016-2020, định hướng đến năm 2030.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003). Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 12/3/2003 về công tác dân tộc.
5. HĐND tỉnh Đắk Lắk (2018). Nghị quyết số 10/2018/NQ-HĐND ngày 06/12/2018 quy định mức chi cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
6. UBND tỉnh Đắk Lắk (2021). Quyết định số 20/2021/QĐ-UBND ngày 15/7/2021 quy định cụ thể tiêu chuẩn về trình độ chuyên môn nghiệp vụ đối với công chức làm việc tại các xã miền núi, vùng cao, biên giới, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
7. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 5. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, tr. 253, 314.
8. Quốc hội (2025). Luật Cán bộ, công chức năm 2025.
9. Thủ tướng Chính phủ (2016). Quyết định số 402/QĐ-TTg ngày 14/3/2016 phê duyệt Đề án phát triển đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số trong thời kỳ mới.
10. Thủ tướng Chính phủ (2019). Quyết định số 1659/QĐ-TTg ngày 19/11/2019 phê duyệt Đề án “Chương trình quốc gia về học tập ngoại ngữ cho CBCC, viên chức giai đoạn 2019 – 2030.
11. Tỉnh ủy Đắk Lắk (2022). Nghị quyết số 13-NQ/TU ngày 19/5/2022 về xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
12. Tỉnh ủy Đắk Lắk (2022). Nghị quyết số 14-NQ/TU ngày 27/7/2022 về phát triển nguồn nhân lực trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.
13. UBND tỉnh Đắk Lắk (2024). Báo cáo số 251/BC-UBND ngày 15/8/2024 về việc thực hiện chính sách, pháp luật về công tác cán bộ người dân tộc thiểu số, giai đoạn 2016 – 2023.