TS. Nguyễn Văn Hiếu
Học viện Ngân hàng – Phân viện Bắc Ninh
(Quanlynhanuoc.vn) – Tư tưởng Hồ Chí Minh cùng chủ nghĩa Mác – Lênin là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho sự nghiệp cách mạng của Nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Triết lý “Dĩ bất biến ứng vạn biến” là một trong những nguyên tắc cơ bản trong hoạt động lãnh đạo cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và được Đảng ta vận dụng sáng tạo trong thời kỳ đổi mới trên tất cả các lĩnh vực, trong đó được thể hiện nổi bật trong đường lối ngoại giao “cây tre Việt Nam”. Bài viết phân tích những nội dung cơ bản của triết lý “Dĩ bất biến ứng vạn biến” trong tư tưởng Hồ Chí Minh và sự vận dụng của Đảng trong đường lối đối ngoại, ngoại giao mang đặc trưng “cây tre Việt Nam”.
Từ khóa: “Dĩ bất biến ứng vạn biến”, tư tưởng Hồ Chí Minh, ngoại giao cây tre Việt Nam.
1. Đặt vấn đề
Triết lý “Dĩ bất biến ứng vạn biến” là nguyên tắc xuyên suốt trong tư duy cách mạng Hồ Chí Minh. Triết lý này không chỉ là kim chỉ nam trong cuộc đấu tranh giành độc lập, thống nhất đất nước, mà còn giữ vai trò rất quan trọng trong công cuộc đổi mới gần 40 năm qua và trong kỷ nguyên mới tiếp theo. Trên lĩnh vực đối ngoại, Đảng đã vận dụng sáng tạo triết lý “Dĩ bất biến ứng vạn biến” để tạo nên đường lối ngoại giao đặc trưng “cây tre Việt Nam”. Đường lối này là sự kết hợp giữa tính linh hoạt, sáng tạo trong phương pháp, cách thức ứng xử với sự kiên định giá trị cốt lõi là độc lập dân tộc, tự do, hạnh phúc của Nhân dân.
2. Triết lý “Dĩ bất biến ứng vạn biến” trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Ngày 31/5/1946, trước khi lên đường đi thăm nước Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói với cụ Huỳnh Thúc Kháng rằng: Tôi vì nhiệm vụ quốc dân giao phó phải đi xa ít lâu, ở nhà trăm sự khó khăn nhờ cậy ở Cụ cùng anh em giải quyết cho. Mong Cụ “dĩ bất biến ứng vạn biến”1.
Câu nói “Dĩ bất biến ứng vạn biến” thực chất là một vế trong đôi câu đối hoàn chỉnh là: “Dĩ bất biến ứng vạn biến/Dĩ chúng tâm vi kỷ tâm”. Do vậy, từ góc độ triết học, “Dĩ bất biến ứng vạn biến” chính là biểu hiện của mối quan hệ biện chứng giữa cái bất biến và cái khả (vạn) biến, giữa cái nhất (cái một) và cái đa (cái nhiều), giữa bản chất và hiện tượng… Ý nghĩa của triết lý này là ở chỗ mọi sự vật hiện tượng dù phong phú, đa dạng, thay đổi khôn lường cũng đều xoay quanh trục của nó – bản thể bất biến. Trong mối quan hệ giữa bản thể và hiện tượng thì bản thể là cái bất biến, không sinh không diệt; còn các hiện tượng thì biến chuyển, sinh diệt không ngừng.
Trong triết học Mác – Lênin, vật chất chính là bản thể của thế giới, thế giới thống nhất ở tính vật chất. Vật chất nói chung tồn tại vĩnh viễn và luôn vận động, biến đổi, chuyển hóa không ngừng. Các sự vật hiện tượng trong thế giới dù vô cùng phong phú, đa dạng nhưng chỉ là những biểu hiện khác nhau của vật chất – bản thể duy nhất, bất biến. Như vậy, cái bất biến và cái vạn biến có mối quan hệ biện chứng với nhau, cái bất biến được thể hiện qua sự vạn biến, còn cái vạn biến không xa rời cái bất biến.
Trong thực tiễn, triết lý “Dĩ bất biến ứng vạn biến” có ý nghĩa nhân sinh sâu sắc. Đó là trong cuộc sống cần giữ cái cốt lõi, cơ bản, bản chất, lâu dài chứ không sa đà vào những điều nhỏ nhặt, hiện tượng, nhất thời. Cần phải nắm cái cốt lõi, cơ bản để có định hướng giải quyết đúng đắn. Cần nắm bản chất để phân tích hiện tượng; đồng thời, qua hiện tượng để nắm rõ bản chất.
Khi phó thác nhiệm vụ cho Cụ Huỳnh Thúc Kháng qua câu nói “Dĩ bất biến ứng vạn biến”, Chủ tịch Hồ Chí Minh muốn nhắn nhủ rằng, trong thực hiện nhiệm vụ cách mạng, phải biết chủ động, sáng tạo, mềm dẻo, linh hoạt trong những tình huống, hoàn cảnh cụ thể, nhưng không xa rời nguyên tắc; không được vì những cái nhỏ mà đánh mất cái lớn, cái căn bản; phải đứng trên lập trường, quan điểm của những điều bất biến để quan sát, dung hòa, điều tiết vạn sự phù hợp với quy luật khách quan.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, “Dĩ bất biến” chính là giữ vững nguyên tắc, mục tiêu độc lập, tự do, dân chủ, giàu mạnh, hạnh phúc cho dân tộc và Nhân dân. Phục vụ lợi ích dân tộc và Nhân dân là mục tiêu, lý tưởng cao cả trong suốt cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Người. Lợi ích cao nhất của Quốc gia – Dân tộc là độc lập, quyền lợi cao nhất của Nhân dân là tự do, dân chủ, giàu mạnh và hạnh phúc. Các yếu tố này nằm trong mối liên hệ mật thiết, gắn bó chặt chẽ với nhau. Nhân dân muốn tự do, dân chủ giàu mạnh và hạnh phúc thì trước tiên và trên hết phải có độc lập cho Tổ quốc. Bởi vì nước mà không có độc lập, mất chủ quyền thì người dân phải sống trong cảnh nô lệ lầm than. Chính vì thế, khi mất nước thì nhiệm vụ đầu tiên là phải “đi tìm hình của nước”, phải đấu tranh bằng mọi giá để đất nước được độc lập, có chủ quyền. Như vậy, đất nước độc lập là cái bất biến số một, trước tiên trong “Dĩ bất biến” của Người.
Khi đất nước có được độc lập thì mới nói đến tự do của người dân, bởi dân gắn với nước. Vì vậy, Người luôn nhắc nhở: trước hết là phải giành cho kỳ được độc lập dân tộc và nêu lên chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Người dân chỉ tự do với điều kiện được phát huy hết các quyền dân chủ. Và, dân chủ cũng chỉ nảy sinh trên điều kiện tiên quyết là đất nước độc lập. Khi đất nước độc lập, chúng ta mới có thể xây dựng một nhà nước mà ở đó người dân làm chủ, bao nhiêu quyền hạn là của dân, bao nhiêu lợi ích đều vì dân và khi đó mới có cơ sở để xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc thực sự.
Như vậy, điều kiện tiên quyết để có tự do, dân chủ, giàu mạnh và hạnh phúc là đất nước phải được độc lập. Tuy nhiên, đất nước có độc lập không đồng nghĩa với Nhân dân có ngay được tự do, dân chủ, giàu mạnh, hạnh phúc. Vì đất nước độc lập mới chỉ là điều kiện, tiền đề. Tự do, dân chủ, giàu mạnh và hạnh phúc mới là đích đến đích thực của quốc gia độc lập. Vì theo Hồ Chí Minh, nước được độc lập mà dân không được hưởng tự do, hạnh phúc thì độc lập cũng chẳng để làm gì. Để đạt đến mục tiêu tự do, dân chủ, giàu mạnh, hạnh phúc thực sự cần có sự nỗ lực của toàn thể các tầng lớp nhân dân qua một hành trình lâu dài, khó khăn. Người cho rằng: thắng đế quốc, phong kiến còn tương đối dễ, nhưng thắng bần cùng, nghèo nàn, lạc hậu còn khó hơn nhiều. Từ đó, Người cũng nhấn mạnh, đã hy sinh làm cách mạng thì phải làm cách mạng triệt để, làm cho đến nơi, đến chốn để nhân dân được hạnh phúc thực sự. Và cuộc cách mạng triệt để nhất phải là cuộc cách mạng theo con đường cộng sản chủ nghĩa.
Trong Cương lĩnh chính trị tháng 02/1930 do Nguyễn Ái Quốc khởi thảo đã xác định mục tiêu của cách mạng Việt Nam là làm “tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”2. Như vậy, tư tưởng cơ bản, cốt lõi, xuyên suốt – nguyên tắc bất biến – trong tư tưởng Hồ Chí Minh chính là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đây cũng chính là đường lối xuyên suốt, cơ bản của cách mạng Việt Nam. Người cho rằng: chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới có thể giải quyết triệt để vấn đề độc lập cho dân tộc, mới có thể đem lại cuộc sống tự do, ấm no và hạnh phúc thực sự cho tất cả mọi người, cho các dân tộc.
Còn “Ứng vạn biến” trong tư tưởng Hồ Chí Minh chính là căn cứ vào từng điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể, khác nhau để có phương pháp, cách thức giải quyết, ứng phó khác nhau một cách linh hoạt để đạt hiệu quả tối ưu. Đây là một nguyên tắc cơ bản có ý nghĩa quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng của chúng ta, nhất là trong điều kiện Việt Nam là một quốc gia nhỏ, thường xuyên phải đối mặt với các nguy cơ từ nhiều quốc gia lớn, nhất là trong điều kiện của thời đại ngày nay.
Như vậy, triết lý “Dĩ bất biến ứng vạn biến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh được hiểu là lấy cái không thay đổi (bất biến) ứng phó với cái thay đổi (vạn biến). Điều kiện, hoàn cảnh, tình hình luôn thay đổi, phát triển, bởi vậy, trong thực tiễn cách mạng cần có sách lược mềm dẻo, uyển chuyển nhưng phải bảo đảm mục tiêu cốt lõi, cuối cùng. Khi viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh, Thủ tưởng Phạm Văn Đồng đã khẳng định: “Hồ Chí Minh là con người của lòng tin không gì lay chuyển nổi vào tương lai dân tộc và loài người, vào chủ nghĩa xã hội. Đó là cái chất không bao giờ biến đổi để ứng phó linh hoạt với muôn vàn biến đổi của một sự nghiệp đầy sóng gió”3.
3. Ngoại giao “Cây tre Việt Nam” – logic tất yếu từ triết lý “Dĩ bất biến ứng vạn biến”
Từ triết lý “Dĩ bất biến ứng vạn biến”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt nền móng và trực tiếp chỉ đạo, định hướng cho sự phát triển nền ngoại giao của nước Việt Nam độc lập, hiện đại. Người nói rằng: mục đích bất di bất dịch của chúng ta vẫn là độc lập, thống nhất, dân chủ, hòa bình. Nguyên tắc của ta thì phải vững chắc nhưng sách lược thì phải linh hoạt. Sự linh hoạt phải trên cơ sở giữ vững nguyên tắc là không được làm tổn hại đến chủ quyền và lợi ích quốc gia.
Trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng đã vận dụng sáng tạo để xây dựng đường lối đối ngoại, ngoại giao với nguyên tắc là “độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại”, “là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”4. Từ đây hình thành nên đường lối ngoại giao “cây tre Việt Nam” rất đặc sắc và độc đáo, đó là: gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển, thấm đượm tâm hồn, cốt cách và khí phách của dân tộc Việt Nam.
“Vững ở gốc” là nguyên tắc vì lợi ích dân tộc để phục vụ, là đường lối đối ngoại độc lập – tự chủ, lấy thực lực làm gốc, lấy đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng để tạo thế, lập thời; lấy phương pháp luận chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng dẫn đường. Tiếp đến, “Chắc ở thân” là những phương thức tạo nên sức mạnh, trong đó sức mạnh đoàn kết là nhân tố sống còn; đại đoàn kết trong nước là căn bản, đoàn kết quốc tế là nhân tố bổ trợ hết sức quan trọng. Sức mạnh tổng hợp của đối ngoại có được dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà nước đối với các hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại…
Sức mạnh của Việt Nam còn ở tính chính danh, chính nghĩa, cách ứng xử nhân văn, thủy chung, thượng tôn pháp luật và phù hợp với xu thế tiến bộ của thời đại. Và sự “Uyển chuyển ở cành” là phong cách, nghệ thuật ứng xử linh hoạt dựa trên nguyên tắc “Dĩ bất biến ứng vạn biến”, đặc biệt trong các hoàn cảnh khó khăn, phức tạp, có sự mâu thuẫn giữa những xu thế khác nhau, đòi hỏi phải hài hòa giữa cái chung và cái riêng, nhằm giữ vững bản sắc, giá trị đất nước và bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc Việt Nam phù hợp với những giá trị chung của nhân loại. Đó là cách ứng xử “biết mình, biết người”, “biết thời, biết thế”, “biết dừng, biết biến” của tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh.
Trong đường lối ngoại giao “cây tre Việt Nam”, lợi ích quốc gia – dân tộc luôn là xuất phát điểm, là cơ sở để hoạch định và triển khai thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách đối ngoại, là cái “gốc” của đối ngoại, ngoại giao. Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã từng nhấn mạnh: “Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, độc lập, tự cường và bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc luôn luôn là nguyên tắc bất biến, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong toàn bộ hoạt động của chúng ta”5.
Trải qua gần 40 năm đổi mới, đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam đã được khẳng định. Với đường lối “ngoại giao cây tre”, Việt Nam luôn giữ vững độc lập, tự chủ trong hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại, có quan điểm, lập trường riêng đối với các vấn đề quốc tế… Giữ vững độc lập, tự chủ, nhưng không biệt lập, đóng cửa, tự cô lập, mà luôn mở rộng sự hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với các nước, các nền kinh tế, các tổ chức quốc tế và khu vực; luôn phấn đấu vì hòa bình, thúc đẩy tình hữu nghị, sự hợp tác, phát triển và tiến bộ xã hội.
Ngày nay, trong bối cảnh thế giới và khu vực có nhiều biến động phức tạp, việc Việt Nam nhất quán thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa đã tạo nên sự tin cậy trong quan hệ hợp tác giữa Việt Nam với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực, không ngừng nâng cao vị thế và uy tín quốc tế của đất nước. Giữ vững nguyên tắc vì độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội, đồng thời phải rất sáng tạo, năng động, linh hoạt, phù hợp với thực lực, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam cũng như diễn biến của tình hình thế giới và khu vực, phù hợp với đặc điểm từng đối tượng mà Việt Nam có quan hệ.
Sự uyển chuyển trong chính sách và các bước đi đối ngoại của Việt Nam không phải là sự ngả nghiêng, thực dụng, vô nguyên tắc mà là sự sáng tạo, năng động, linh hoạt về sách lược trên cơ sở kiên định về chiến lược nhằm bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc Việt Nam trong mọi hoàn cảnh. Chỉ trên cơ sở giữ vững nguyên tắc và kiên định về chiến lược mới có thể sáng tạo, năng động và linh hoạt về sách lược. Đồng thời, sự sáng tạo, năng động và linh hoạt về sách lược giúp cho việc triển khai, thực hiện chiến lược đạt hiệu quả cao.
Thực tiễn chứng minh, trước những biến chuyển lớn của thời đại, ngoại giao “cây tre Việt Nam” dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã và đang góp phần quan trọng vào sự nghiệp cách mạng bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bảo vệ và phát huy mạnh mẽ lợi ích quốc gia – dân tộc, vì một nước Việt Nam hung cường, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc.
4. Kết luận
Như vậy, triết lý “Dĩ bất biến ứng vạn biến” trong tư tưởng Hồ Chí Minh chính là nền tảng tư tưởng vững chắc cho đường lối ngoại giao “cây tre Việt Nam” trong suốt lịch sử cách mạng của nhân dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Trong suốt quá trình đổi mới, đường lối đối ngoại, ngoại giao “cây tre Việt Nam” đã góp phần quan trọng vào thành tựu chung có ý nghĩa lịch sử của đất nước, để “với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”6. Chính vì vậy, trong bối cảnh thế giới biến động phức tạp, việc vận dụng sáng tạo triết lý “Dĩ bất biến ứng vạn biến” theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn tiếp tục là yêu cầu cấp thiết, đòi hỏi xác định đúng giá trị cốt lõi và bản lĩnh, để đưa đất nước bước sang kỷ nguyên mới – kỷ nguyên Việt Nam hùng cường, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc.
Chú thích:
1. Nguyễn Hùng Hậu (2015). Suy ngẫm về triết lý Hồ Chí Minh. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 216.
2. Hồ Chí Minh (1993). Biên niên tiểu sử. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 1.
3. Phạm Văn Đồng (2023). Hồ Chí Minh – một con người, một dân tộc, một thời đại, một sự nghiệp. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 40.
4, 5. Nguyễn Phú Trọng (2024). Xây dựng và phát triển nền đối ngoại, ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 8, 150.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 25.
Tài liệu tham khảo:
1. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 3. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.
2. Nguyễn Phú Trọng (2022). Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật
3. Vận dụng tư tưởng “Dĩ bất biến ứng vạn biến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bảo vệ Tổ quốc hiện nay. https://www.quanlynhanuoc.vn/2024/11/19/van-dung-tu-tuong-di-bat-bien-ung-van-bien-cua-chu-tich-ho-chi-minh-trong-bao-ve-to-quoc-hien-nay/
4. Từ triết lý “Dĩ bất biến ứng vạn biến” đến triết lý hành động Hồ Chí Minh. https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/nghien-cu/-/2018/2937/tu-triet-ly-“di-bat-bien-ung-van-bien”-den-triet-ly-hanh-dong-ho-chi-minh.aspx
5. 80 năm ứng vạn biến của ngoại giao Việt Nam. https://vnexpress.net/80-nam-ung-van-bien-cua-ngoai-giao-viet-nam-4929994.html



