Phạm Thị Phương Thanh
Trường Chính trị Tô Hiệu, TP Hải Phòng
(Quanlynhanuoc.vn) – Chuyển đổi số với phát triển lực lượng sản xuất mới trong nông nghiệp ở thành phố Hải Phòng có vị trí, vai trò quan trọng để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường trong và ngoài nước. Bài viết nghiên cứu thực trạng chuyển đổi số với phát triển lực lượng sản xuất mới trong nông nghiệp ở thành phố Hải Phòng, từ đó, xác định một số định hướng phát triển lực lượng sản xuất mới trong nông nghiệp ở thành phố Hải Phòng hiện nay.
Từ khóa: Chuyển đổi số, phát triển lực lượng sản xuất, nông nghiệp, thành phố Hải Phòng.
1. Đặt vấn đề
Chuyển đổi số nông nghiệp là xu hướng tất yếu nhằm tạo ra một nền nông nghiệp hàng hóa hiện đại, hiệu quả, chất lượng, bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu, trong bối cảnh phát triển của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Ứng dụng công nghệ cao trong phát triển nông nghiệp thông minh và nông nghiệp số là xu hướng tất yếu của sản xuất nông nghiệp Việt Nam nói chung và Hải Phòng nói riêng. Khi tỉnh Hải Dương sáp nhập vào thành phố Hải Phòng tạo ra nhiều tiềm năng thúc đẩy nông nghiệp, nông thôn phát triển bền vững. Vì vậy, chuyển đổi số với phát triển lực lượng sản xuất mới trong nông nghiệp ở thành phố Hải Phòng có ý nghĩa quan trọng; là cơ sở, tiền đề đặt ra những vấn đề cần tháo gỡ, giải quyết để xây dựng nền nông nghiệp bền vững theo hướng sinh thái, xây dựng nông thôn số thông qua chuyển đổi số bắt kịp vào dòng chảy xu thế toàn cầu.
2. Thực trạng về chuyển đổi số với phát triển lực lượng sản xuất mới trong nông nghiệp ở thành phố Hải Phòng
Sau sáp nhập, toàn bộ diện tích nông nghiệp của tỉnh Hải Dương với 54.334ha theo Quyết định số 437/QĐ-UBND ngày 25/02/2025 về việc phê duyệt kế hoạch sử dụng đất tỉnh Hải Dương năm 2025 và thành phố Hải Phòng là 74.600ha theo Nghị quyết số 105/NQ-HĐND ngày 30/12/2024 của Hội đồng nhân dân thành phố Hải Phòng thông qua kế hoạch sử dụng đất 5 năm 2021-2025, gộp lại ước tính là 130.334ha. Với số liệu này đã đưa thành phố Hải Phòng trở thành một trong những địa phương có diện tích đất nông nghiệp lớn hàng đầu khu vực đồng bằng sông Hồng. Diện tích tự nhiên và quy mô dân số rộng lớn hơn, thành phố Hải Phòng không chỉ củng cố vị thế về công nghiệp và dịch vụ mà còn tạo ra những ưu thế vượt trội, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp.
Việc sáp nhập đã giúp Hải Phòng có thêm nhiều lợi thế từ một thành phố công nghiệp có nền nông nghiệp phụ trợ thành một địa phương sở hữu cảng biển lớn, công nghiệp phát triển và một vùng nông nghiệp, đa dạng, trù phú nhiều tiềm năng, lợi thế về tài nguyên đất, nước, biển, rừng, đa dạng sinh học… để phát triển nông nghiệp, nông thôn. Bên cạnh đó, chuyển đổi số đã và đang được đẩy mạnh trong nông nghiệp, tạo ra nền tảng vững chắc để nông nghiệp chuyển mạnh sang sản xuất hàng hóa, đẩy mạnh áp dụng tiến bộ kỹ thuật, công nghệ mới và đạt nhiều kết quả đáng ghi nhận. Ví dụ: tốc độ tăng trưởng khu vực nông, lâm, thủy sản giai đoạn 2019 – 2023 là 1,53%/năm (tăng 0,11% so với giai đoạn 2014 – 2018 là 1,42%/năm). Giá trị sản xuất nông, lâm, thủy sản năm 2023 đạt trên 26.000 tỷ, gấp 1,24 lần năm 2018. Giá trị tăng thêm khu vực nông, lâm, thủy sản năm 2023 đạt trên 13.000 tỷ, gấp 1,26 lần năm 20181.
Trong quản lý, điều hành, thành phố Hải Phòng đã tập trung đẩy mạnh quá trình chuyển đổi số, xây dựng bản đồ số nông nghiệp nông thôn, thực hiện quản lý mã số vùng, truy xuất nguồn gốc, tăng cường quảng bá, xúc tiến thương mại điện tử cho các sản phẩm nông nghiệp; đã số hóa toàn bộ dữ liệu về nông sản, tập trung xây dựng các nền tảng ứng dụng số để nông dân tham gia được dễ dàng, thuận lợi.
Trong lĩnh vực thủy sản, chuyển đổi số được thực hiện mạnh mẽ thông qua việc ứng dụng hệ thống sóng siêu âm, máy đo dòng chảy, hệ thống thu – thả lưới chụp, công nghệ GIS, thiết bị định vị toàn cầu (GPS) quản lý đội tàu khai thác hải sản xa bờ đã giúp cho việc nuôi trồng và đánh bắt thủy, hải sản hiệu quả. Bên cạnh đó, việc ứng dụng AI trong nuôi tôm đã giúp phân tích dữ liệu về chất lượng nước, quản lý thức ăn của tôm. Công nghệ tự động hóa được sử dụng trong chế biến thủy, hải sản từ phân loại, hấp, đóng gói… đã giúp giảm chi phí, tiết kiệm nhân lực, thời gian, bảo đảm chất lượng nên tăng hiệu quả và bền vững. Nhờ áp dụng chuyển đổi số, hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp ngày càng rõ hơn: giá trị sản xuất nông nghiệp từ năm 2021 đến nay tăng trưởng bình quân liên tục được bảo đảm ở mức 1,0 %/năm trở lên; thu nhập của bà con nông dân từ năm 2021 là 55,4 triệu đồng/năm, đến nay đã lên 69,5 triệu đồng/năm. Đối với các mô hình ứng dụng công nghệ số, tùy theo mô hình, tùy theo nội dung công nghệ mà áp dụng đều mang lại giá trị gia tăng từ 20 đến 40%2.
Hiện nay, công nghệ số đã được thành phố Hải Phòng sử dụng trong kết nối tiêu thụ nông sản, sử dụng vào quảng bá, xúc tiến thương mại, đẩy mạnh phân phối và tiêu thụ nông sản. Từ năm 2022 đến nay, Thành phố đã tổ chức nhiều hội nghị kết nối, xúc tiến tiêu thụ vải thiều Thanh Hà và nông sản chủ lực của tỉnh qua hình thức trực tuyến với các tỉnh, thành trong nước và với 60 điểm cầu tại 22 quốc gia, vùng lãnh thổ cùng hàng trăm điểm cầu liên kết khác trong và ngoài nước3. Việc kết nối tiêu thụ nông sản trên nền tảng số đã tạo thuận lợi, minh bạch thông tin, giảm chi phí trung gian. Qua đó, tạo mối “liên kết – hợp tác” chặt chẽ, nhiều chiều giữa cơ quan quản lý với doanh nghiệp và nông dân, khắc phục điểm nghẽn của một nền sản xuất “manh mún, nhỏ lẻ, tự phát”; tạo ra các sản phẩm bảo đảm chất lượng, an toàn, trách nhiệm, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường và người tiêu dùng.
Chuyển đổi số góp phần nâng cao tiềm năng phát triển nông nghiệp hàng hóa công nghệ cao ở Thành phố hiện nay. Với diện tích nông nghiệp lớn và đa dạng hơn là nền tảng vững chắc để Thành phố đẩy mạnh phát triển nông nghiệp theo hướng hàng hóa, ứng dụng công nghệ cao và bền vững. Hình thành các vùng chuyên canh quy mô lớn: Với quỹ đất rộng, Thành phố có thể quy hoạch và đầu tư vào các vùng chuyên canh cây trồng, vật nuôi quy mô lớn, áp dụng đồng bộ các tiến trình sản xuất tiên tiến. Điều này giúp chuẩn hóa quy trình, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, đáp ứng các tiêu chuẩn khắt khe của thị trường.
Bên cạnh kết quả đạt được thực hiện chuyển đổi số với phát triển lực lượng sản xuất mới trong nông nghiệp ở thành phố Hải Phòng còn một số hạn chế, như: việc ứng dụng công nghệ thông tin của các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất phần lớn chưa đáp ứng được nhu cầu chuyển đổi số. Phần lớn nông dân còn thiếu kiến thức, kỹ năng về công nghệ thông tin, chưa nhận thức đầy đủ về vai trò, lợi ích của chuyển đổi số trong sản xuất nông nghiệp. Hệ thống hạ tầng công nghệ thông tin, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa, địa hình đồi núi và ngoài biển, đảo của thành phố Hải Phòng còn chưa đáp ứng yêu cầu, kết nối internet còn hạn chế, thiếu đồng bộ ảnh hưởng đến yêu cầu hiện đại hóa nông nghiệp theo hướng nông nghiệp thông minh, nông nghiệp công nghệ cao;chất lượng nguồn nhân lực có chuyên môn cao về sản xuất, chế biến nông sản, biết sử dụng vận hành các thiết bị (tự động, số, thiết bị phân tích…) còn hạn chế.
Việc ứng dụng đồng bộ các giải pháp công nghệ thông minh theo chuỗi giá trị từ nghiên cứu chọn tạo giống, tổ chức sản xuất, nuôi trồng đến chế biến, bảo quản và tiêu thụ sản phẩm còn chưa nhiều. Việc chuyển giao, ứng dụng các thành tựu khoa học – công nghệ vào việc phát triển các yếu tố của lực lượng sản xuất vẫn còn ở quy mô nhỏ, chủ yếu là quy mô hộ gia đình và các trang trại sử dụng ít lao động. Do vậy, sản phẩm làm ra còn ít về số lượng và thiếu đồng nhất về chất lượng nên khả năng cạnh tranh thấp, khó tiếp cận với thị trường khó tính.
Thực tiễn từ mô hình nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao ở một số địa phương, như: Hợp tác xã Tân Minh Đức tại xã Phạm Trấn (cũ) nay thuộc xã Trường Tân – top đầu của thành phố Hải Phòng trong phát triển canh tác nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao trong nhà màng, nhà lưới; xã An Phú, mô hình trồng nho sữa Hàn Quốc trong nhà màng của Hợp tác xã Nông nghiệp công nghệ cao và hữu cơ Phú Điền…thì quy mô của hoạt động nghiên cứu, ứng dụng vẫn còn khiêm tốn, chưa đủ mạnh để thúc đẩy phát triển hoạt động nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng khoa học – công nghệ rộng rãi vào sản xuất nông nghiệp ở thành phố Hải Phòng.
Trình độ khoa học – công nghệ ứng dụng vào sản xuất nông nghiệp còn thấp, nhất là máy móc, thiết bị còn lạc hậu và thiếu đồng bộ, mức độ cơ giới hóa còn rất thấp. Hầu hết trình độ máy móc, trang bị làm đất có công suất nhỏ, chỉ thích hợp với quy mô hộ và ruộng đất manh mún. Trong khâu thu hoạch, bảo quản nông phẩm còn thiếu máy móc hiện đại, công nghệ tiên tiến nên hầu hết nông sản được xuất khẩu dưới dạng thô hoặc mới qua sơ chế; công nghệ bảo quản các mặt hàng nông sản còn lạc hậu, quy mô nhỏ, chi phí cao nên khó tiếp cận hoặc không thể cạnh tranh được với nông sản của nước ngoài trên các thị trường khó tính như Mỹ, EU, Nhật Bản…
Bên cạnh đó, việc ứng dụng khoa học – công nghệ trong nhiều lĩnh vực khác, như: thủy nông, điện khí hóa, hóa học hóa, tin học hóa… phục vụ sản xuất nông nghiệp còn ở trình độ thấp và thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng được yêu cầu hiện đại hóa nông nghiệp. Công nghệ thông tin, số hóa mới chỉ được áp dụng trong các mô hình nông nghiệp công nghệ cao, các hợp tác xã, mô hình điểm là chủ yếu. Đa số nông dân vẫn chưa tiếp cận được với cách làm nông nghiệp hiện đại theo hướng bền vững.
Các mô hình ứng dụng công nghệ cao, như: nhà kính thông minh, tưới tiêu tự động, sử dụng robot, phân tích dữ liệu lớn và AI để hỗ trợ quyết định còn ít. Khả năng ứng dụng công nghệ số vào nông nghiệp của đội ngũ nguồn nhân lực trong lĩnh vực nông nghiệp còn khiêm tốn. Việc đầu tư cho chuyển đổi số đòi hỏi nguồn lực tài chính lớn, trong khi nông dân, hợp tác xã, doanh nghiệp nhỏ và vừa thường gặp khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn vay ưu đãi.
Nguyên nhân của hạn chế là do: (1) Trình độ nông dân – đội ngũ lao động trực tiếp đưa công nghệ số vào sản xuất còn thấp; hầu hết nông dân chưa được đào tạo bài bản về chuyển đổi số nên gặp khó khăn trong thao tác cũng như đánh giá hiệu quả. (2) Chi phí đầu tư cho nông nghiệp thông minh và công nghệ cao lớn hơn rất nhiều so với nông nghiệp truyền thống nên phần lớn các hộ không đủ điều kiện để đầu tư, trong khi cơ chế, chính sách khuyến khích, thu hút các tổ chức, cá nhân thực hiện chuyển đổi số còn thiếu. (3) Chính sách phục vụ chuyển đổi số trong nông nghiệp chưa phù hợp, chưa kịp thời. (4) Hạ tầng công nghệ số còn lạc hậu, chi phí cao.
3. Một số định hướng phát triển lực lượng sản xuất mới trong nông nghiệp ở thành phố Hải Phòng
Một là, chủ trương, chính sách cần mang tính đột phá nhằm phát triển lực lượng sản xuất mới trong nông nghiệp.
Cần chủ động rà soát, điều chỉnh các quy hoạch vùng sản xuất, không gian biển cho phù hợp với quy hoạch tổng thể mới, kết nối hài hòa giữa các vùng sản xuất nội địa với các khu vực ven biển và trung tâm logistics. Đồng thời, tham mưu xây dựng các chính sách đặc thù, đủ mạnh để thu hút các doanh nghiệp “đầu đàn” đầu tư vào cả lĩnh vực chế biến sâu và logistics nông nghiệp, khuyến khích tích tụ, tập trung đất đai.
Hai là, đẩy nhanh ứng dụng khoa học – công nghệ vào phát triển lực lượng sản xuất mới trong nông nghiệp.
Dù đã có nhiều mô hình ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất, mang lại hiệu quả kinh tế cao nhưng nhìn nhận tổng thể, việc tiếp cận, ứng dụng thành tựu khoa học, kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp của thành phố Hải Phòng hiện nay vẫn chưa tương xứng với tiềm năng. Theo đó, việc ứng dụng khoa học – công nghệ vào sản xuất, nhất là phát triển công nghệ cao; tăng năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh nhiều sản phẩm hàng hóa chủ lực cần được chú trọng cải thiện,…
Ba là, xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực nông nghiệp.
Cần quan tâm đào tạo nguồn nhân lực để sản xuất các ngành hàng chủ lực, lao động trong các trang trại, doanh nghiệp. Đặc biệt, chú trọng xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao về kỹ năng quản trị, kiến thức thị trường và marketing, năng lực khởi nghiệp cho các chủ thể OCOP, chủ trang trại, giám đốc hợp tác xã. Xây dựng chương trình đào tạo chéo, đưa kinh nghiệm sản xuất công nghệ cao từ vùng nội địa ra ven biển và ngược lại.
Bốn là, hoàn thiện quan hệ sản xuất trong nông nghiệp.
Quá trình chuyển đổi số với phát triển lực lượng sản xuất mới trong nông nghiệp hiện nay đang làm thay đổi sâu sắc phương thức sản xuất, đặc biệt là quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất và tổ chức lao động. Các tài sản vô hình, như: tri thức, công nghệ, dữ liệu… trở thành yếu tố then chốt trong lĩnh vực nông nghiệp, đòi hỏi quan hệ sản xuất, nhất là quan hệ sở hữu, phải được điều chỉnh tương ứng.
Trong quan hệ sở hữu đáng chú ý là sở hữu đối với đất đai và sở hữu trí tuệ trong nông nghiệp đang trong giai đoạn hoàn thiện, từng bước thích ứng với sự biến đổi của lực lượng sản xuất mới trong nông nghiệp ở thành phố Hải Phòng. Đặc biệt, sở hữu trí tuệ trong nông nghiệp đang đặt ra nhiều vấn đề cần đầu tư nghiên cứu và phát triển, đồng thời bảo đảm lợi ích của người tạo ra và chủ sở hữu. Việc bảo vệ sở hữu trí tuệ trong nông nghiệp rất quan trọng để thúc đẩy sự phát triển bền vững của ngành, bảo đảm công bằng và khuyến khích đổi mới.
Năm là, cần có giải pháp mang tính đột phá toàn diện, thích ứng với biến đổi khí hậu và bảo vệ môi trường.
Thành phố Hải Phòng hiện nay còn hạn chế trong việc tập trung nguồn lực để đầu tư, nâng cấp kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn một cách đồng bộ, từ hệ thống thủy lợi nội đồng đến hệ thống đê biển. Thành phố vẫn đang trong thời kỳ xây dựng hệ thống cảng cá, khu neo đậu tránh trú bão, khu dịch vụ hậu cần thủy sản hiện đại để hiện thực hóa mục tiêu trở thành trung tâm nghề cá lớn, đồng thời, đầu tư vào chuỗi cung ứng lạnh (kho lạnh, xe chuyên dụng) để kết nối các vùng sản xuất với cảng biển.
Việc xây dựng chiến lược chung tái cơ cấu ngành nông nghiệp của Hải Phòng sau sáp nhập không chỉ là một kế hoạch kinh tế mà còn là một cuộc cách mạng trong tư duy và hành động. Đây là quá trình đòi hỏi cần có thời gian và nguồn lực để tiếp tục kết hợp lợi thế, nguồn lực, đánh thức tiềm năng trong nông nghiệp, tạo ra trụ cột phát triển vững chắc bên cạnh công nghiệp và dịch vụ, góp phần xây dựng thành phố Hải Phòng ngày càng giàu mạnh, văn minh, hiện đại.
4. Kết luận
Chuyển đổi số với phát triển lực lượng sản xuất mới trong nông nghiệp ở thành phố Hải Phòng hiện nay thực chất là ứng dụng, sử dụng công nghệ hiện đại vào ngành Nông nghiệp, tạo bước chuyển biến rõ rệt về sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp theo hướng hiện đại, bền vững. Những vấn đề đặt ra về chuyển đổi số trong phát triển lực lượng sản xuất mới trong nông nghiệp xuất phát từ thực tiễn; đòi hỏi các chủ thể, lực lượng nhận thức rõ để xác định các biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo phù hợp; phát huy tiềm năng, lợi thế về điều kiện tự nhiên, xã hội, môi trường; hạn chế, khắc phục những rủi ro về tự nhiên, năng lực, trình độ sử dụng chuyển đổi số; khắc phục hạn chế của thị trường tiêu thụ để phát triển lực lượng sản xuất mới trong nông nghiệp, góp phần xây dựng, phát triển Thành phố an toàn, thân thiện, bảo đảm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân, doanh nghiệp.
Chú thích:
1. Vai trò của hoạt động khuyến nông trong phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp thông minh và nông nghiệp số tại Hải Phòng. https://khuyennonghaiphong.gov.vn/vai-tro-cua-hoat-dong-khuyen-nong-trong-phat-trien-nong-nghiep-ung-dung-cong-nghe-cao-nong-nghiep-thong-minh-va-nong-nghiep-so-tai-hai-phong-tt14998.html.
2. Ủy ban nhân dân tỉnh Hải Dương (2024). Báo cáo đánh giá kết quả ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số năm 2024 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2025.
3. Hải Phòng đẩy mạnh chuyển đổi số, xây dựng bản đồ số nông nghiệp. https://vietnamnet.vn/hai-phong-day-manh-chuyen-doi-so-trong-xay-dung-nong-thon-moi-2305418.html.



