TS. Hà Huy Ngọc
Viện Kinh tế Việt Nam và Thế giới
ThS. Nguyễn Quý Linh
Ban Tổ chức Thành ủy Hà Nội
(Quanlynhanuoc.vn) – Công nghệ mới đang định hình lại những điều kiện cần thiết để các quốc gia đạt được mục tiêu trở thành nền kinh tế có thu nhập cao, trong đó cần hình thành được một đội ngũ lao động có kỹ năng cao với quy mô lớn, có khả năng thu hút đầu tư và thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Việt Nam đã đưa ra các định hướng chính sách thể hiện rõ sự ưu tiên cho khoa học – công nghệ và đặc biệt là vốn nhân lực, coi đây là những động lực then chốt cho tăng trưởng. Trongđó các trụ cột đổi mới sáng tạo – nhân tài là chìa khóa để Việt Nam hiện thực hóa bước nhảy vọt trở thành nền kinh tế hiện đại, thu nhập cao vào năm 20451.
Từ khóa: Đổi mới sáng tạo; chiến lược; nhân tài; công nghệ cao.
1. Cơ chế, chính sách phát triển nhân tài công nghệ cao
Tham vọng phát triển công nghệ cao đóng vai trò then chốt để Việt Nam chuyển đổi từ mô hình tăng trưởng dựa vào xuất khẩu sang các lĩnh vực đem lại giá trị gia tăng cao hơn, hỗ trợ cho mục tiêu trở thành nền kinh tế thu nhập cao vào năm 2045. Từ đầu năm 2000, Việt Nam đã chuyển từ nền kinh tế lệ thuộc vào thương phẩm thô sang nền kinh tế chế tạo công nghệ thấp và đến năm 2010 đã trở thành trung tâm lắp ráp điện tử của khu vực. Giai đoạn tiếp theo (2025 – 2045), chú trọng nâng cao vị thế trong chuỗi giá trị hướng đến các lĩnh vực chế tạo chế biến tiên tiến và các lĩnh vực dịch vụ dựa vào đổi mới sáng tạo. Để đạt được mục tiêu này phải khai thác đổi mới sáng tạo và xây dựng lực lượng lao động kỹ năng cao để góp phần thúc đẩy năng suất lao động2.
Những chính sách mới của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn 2023 – 2025 thể hiện rõ cam kết chính trị mạnh mẽ cho bước nhảy vọt sang các ngành công nghiệp tiên tiến và xây dựng nền kinh tế tri thức, chú trọng phát triển nhân tài và đổi mới sáng tạo. Cụ thể, Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, ưu tiên coi khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo là động lực tăng trưởng, tạo đột phá về chất lượng lực lượng lao động và chuyển đổi số; Nghị quyết số 193/2025/QH ngày 19/02/2025 của Quốc hội về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành các văn bản về những lĩnh vực khoa học – công nghệ trọng yếu, như: Quyết định số 1018/QĐ-TTg ngày 21/9/2024 về Chiến lược phát triển công nghiệp bán dẫn Việt Nam đến năm 2030 và tầm nhìn 2050; Quyết định số 1131/QĐ-TTg ngày 12/6/2025 ban hành Danh mục công nghệ chiến lược và sản phẩm công nghệ chiến lược; Quyết định số 374/QĐ-TTg ngày 19/02/2025 phê duyệt Đề án phát triển hệ thống trung tâm đào tạo xuất sắc và tài năng về công nghệ 4.0 đến năm 2030 và Quyết định số 1002/QĐ-TTg ngày 24/5/2025 phê duyệt Đề án đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển công nghệ cao giai đoạn 2025 – 2035 và định hướng tới năm 2045. Việt Nam đã đặt ra mục tiêu mạnh mẽ về công nghệ cao, chứng tỏ quyết tâm chiến lược muốn biến quốc gia từ trung tâm chủ yếu lắp ráp thành nơi tạo ra công nghệ và đổi mới sáng tạo3.
Việt Nam đã lên thứ hạng 50 nền kinh tế hàng đầu trong Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu, xếp thứ 44/133 nền kinh tế vào năm 2024, trở thành quốc gia được nâng hạng nhanh nhất về kết quả đổi mới sáng tạo so với mức thu nhập. Kết quả đó có được là nhờ chú trọng mạnh vào vốn nhân lực trong lĩnh vực STEM (khoa học – công nghệ, kỹ thuật và toán học) cũng như có các cơ sở giáo dục đại học danh tiếng tập trung vào khoa học – công nghệ4.
Bên cạnh đó, kim ngạch xuất khẩu điện tử đạt trên 132 tỷ USD, đã đưa Việt Nam trở thành một trong những trung tâm chế tạo chế biến điện tử hàng đầu thế giới nhờ nền tảng chế tạo chế biến vững mạnh. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn chủ yếu tham gia các hoạt động thâm dụng lao động ở hạ nguồn và chỉ cung cấp một vài dịch vụ hỗ trợ thiết kế vi mạch đơn giản. Các công đoạn tiên tiến, như: thiết kế vi mạch tiền kỳ (front-end), phát triển tài sản trí tuệ, chế tác tấm bán dẫn tiên tiến chủ yếu thực hiện ở nước ngoài. Đến năm 2024, khoảng 85% lượng hàng điện tử xuất khẩu của Việt Nam được sản xuất tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), chủ yếu qua lắp ráp các linh kiện được thiết kế ở nơi khác5.
2. Thực trạng nguồn nhân lực công nghệ cao ở Việt Nam
Việt Nam có một lực lượng lao động STEM trẻ, đông đảo và ngày càng tăng. Đến năm 2023, khoảng 560.000 chuyên gia trẻ (ở độ tuổi 22 – 35) có bằng đại học trong các ngành STEM. Nguồn cung sinh viên mới tốt nghiệp trong các ngành STEM cũng đang gia tăng nhanh chóng: số sinh viên đại học theo học các chương trình STEM tăng gần 10% mỗi năm, từ năm 2019 – 2023. Lực lượng lao động này là điểm khởi đầu trọng yếu trong bối cảnh các ngành công nghệ cao đều đòi hỏi lực lượng lao động nhân tài lớn.
Trong ngành dịch vụ phần mềm và lập trình máy vi tính (một ngành thâm dụng công nghệ, bao gồm gần như toàn bộ các doanh nghiệp thiết kế vi mạch điện tử trong nước), hơn 80% số lao động có bằng đại học và gần 90% được tuyển dụng cho các vị trí đòi hỏi kỹ năng cao, như: kỹ sư, nhà khoa học hoặc kỹ thuật viên cao cấp. Trong các ngành công nghiệp chế tạo chế biến công nghệ cao, ngành dược phẩm có tỷ lệ lao động có bằng đại học, tay nghề cao gấp hơn bốn lần mức bình quân của tất cả các ngành công nghiệp chế tạo chế biến6.
Mặc dù, nguồn nhân lực đang từng bước phát triển, lực lượng lao động nghiên cứu nòng cốt của Việt Nam còn khiêm tốn so với quy mô dân số. Năm 2023, cả nước có khoảng 80.900 nhân lực nghiên cứu và phát triển (R&D) (quy đổi toàn thời gian), chỉ chiếm khoảng 0,15% tổng số lực lượng lao động (Bảng 1). Điều này đồng nghĩa với việc chưa đến 800 cán bộ nghiên cứu trên một triệu dân vào năm 2023, thấp hơn so với các quốc gia hàng đầu trong khu vực và thấp hơn mục tiêu quốc gia đề ra là đạt ít nhất 12 nhân lực R&D toàn thời gian trên 10.000 dân vào năm 2030.
Bảng 1. Nhân lực R&D tại Việt Nam giai đoạn 2013 – 2023
| 2013 | 2014 | 2015 | 2016 | 2017 | 2018 | 2019 | 2020 | 2021 | 2022 | 2023 | |
| Nhân lực R&D (nghìn người) | 73.09 | 67,29 | 68,87 | 60,10 | 66,46 | 72,46 | 75,13 | 71,98 | 59,08 | 66,24 | 80,87 |
| Tỷ lệ trong lực lượng lao động (%) | 0,14 | 0,12 | 0,13 | 0,11 | 0,12 | 0,31 | 0,14 | 0,13 | 0,19 | 0,13 | 0,15 |
Những năm gần đây, số lượng các cơ sở giáo dục đại học trong nước xuất hiện trong các bảng xếp hạng về khoa học – kỹ thuật toàn cầu tăng gần gấp đôi, từ 4 cơ sở vào năm 2020 lên 8 cơ sở vào năm 2025. Một số cơ sở giáo dục đại học hàng đầu, như: Đại học Bách khoa Hà Nội, Đại học Quốc gia Hà Nội nằm trong nhóm 500 đại học hàng đầu trên toàn cầu trong các lĩnh vực kỹ thuật. Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh đã lọt vào nhóm 901 – 950 trong bảng xếp hạng đại học thế giới QS năm 2025, đáng chú ý là chương trình Kỹ thuật Dầu khí của Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh được nằm trong nhóm 100 toàn cầu.
Mặc dù có những tín hiệu tích cực nêu trên, đến nay, vẫn chưa có cơ sở giáo dục đại học nào của Việt Nam lọt vào nhóm 100 đại học hàng đầu trong các ngành về khoa học hoặc kỹ thuật. Sự vắng mặt của Việt Nam trong thứ bậc cao về học thuật trong khu vực và toàn cầu cho thấy, tình trạng thiếu hụt đáng kể về thành tựu nghiên cứu xuất sắc. Các cơ sở giáo dục đại học hàng đầu đóng vai trò là “mỏ neo” của các cụm đổi mới sáng tạo và thực tế Việt Nam chưa có các tổ chức nghiên cứu đẳng cấp toàn cầu cũng như thiếu vắng các công trình nghiên cứu khoa học có tác động cao là rào cản lớn đối với năng lực đổi mới sáng tạo quốc gia7.
Việt Nam đã cam kết đầu tư cho ba cụm đổi mới sáng tạo quốc gia, tuy nhiên, những cụm đó vẫn chưa trở thành động lực chủ đạo cho các ngành công nghệ cao. Khác với Khu Công nghệ Cao Hòa Lạc ở Hà Nội, Khu Công nghệ cao TP. Hồ Chí Minh và Khu Công nghệ cao Đà Nẵng, các cụm khoa học – công nghệ năng động ở các nền kinh tế công nghệ cao thành công, thường được hình thành quanh các viện nghiên cứu hoặc các cơ sở giáo dục đại học đầu ngành. Sự thiếu vắng các “mỏ neo” cho nghiên cứu ở Việt Nam, cùng với sự gắn kết giữa cơ sở giáo dục đại học và doanh nghiệp còn yếu đang hạn chế hoạt động chuyển giao công nghệ, năng lực đổi mới sáng tạo.
3. Bất cập trong đào tạo đội ngũ nhân lực công nghệ
Một là, giáo dục sau đại học còn yếu và năng lực giảng viên hạn chế.
Thiếu giảng viên có bằng tiến sĩ và tham gia nghiên cứu là rào cản lớn trong việc nâng cao số lượng và chất lượng nguồn nhân tài công nghệ của Việt Nam. Hiện chỉ có một phần ba số giảng viên đại học của Việt Nam có bằng tiến sĩ, thấp hơn nhiều so với tỷ lệ 100% ở các chương trình hàng đầu về khoa học và kỹ thuật của châu Á8. Do gánh nặng giảng dạy và nguồn quỹ hỗ trợ nghiên cứu hạn chế, giảng viên thường không có nhiều động lực nâng cao trình độ hoặc duy trì các phòng thí nghiệm hiện đại. Nhiều giảng viên thiếu kinh nghiệm thực tiễn và chưa được tiếp cận hoạt động nghiên cứu tiên phong để nâng cao chuyên môn, chẳng hạn thông qua các kỳ nghỉ nghiên cứu, học bổng nghiên cứu hoặc đào tạo ở nước ngoài.
Thiếu hụt giảng viên có trình độ tiến sĩ tạo ra vòng lặp tiêu cực là đầu ra tiến sĩ thấp, dẫn đến thiếu các nhà khoa học, kỹ sư và nhân sự đổi mới sáng tạo tiên phong. Giảng viên không có bằng tiến sĩ hoặc không tham gia nghiên cứu sẽ gặp khó khăn trong công tác hướng dẫn nghiên cứu sinh, dẫn đến ít người tốt nghiệp tiến sĩ và giảm đầu ra nhân tài có trình độ cao. Sinh viên giỏi trong nước có nguyện vọng theo đuổi sự nghiệp nghiên cứu thường ra nước ngoài, sinh viên học trong nước ít được kèm cặp hướng dẫn và bị hạn chế về nguồn lực cho nghiên cứu nâng cao.
Hai là, thiếu vốn đầu tư và phân bổ nguồn lực chưa hiệu quả.
Việt Nam đang phải đối mặt với khoảng cách lớn về đầu tư cho giáo dục và đào tạo và R&D so với các quốc gia trong khu vực. Tổng chi cho R&D chỉ đạt 0,5% GDP, thấp hơn nhiều so với Hàn Quốc (4,8% GDP) hoặc Trung Quốc và các quốc gia trong khu vực, như: Malaysia và Thái Lan. Đầu tư thấp khiến cho Việt Nam chưa có được cụm khoa học – công nghệ lớn tầm cỡ toàn cầu, chưa có được số lượng các sản phẩm nghiên cứu khoa học cần thiết để tạo động lực cho nền kinh tế dựa trên đổi mới sáng tạo. Chính vì vậy, số lượng các công bố khoa học, bằng sáng chế và kết quả đổi mới sáng tạo công nghệ cao còn hạn chế, trong khi chuyển giao công nghệ cho các doanh nghiệp còn chậm9.
Việc các cơ sở giáo dục đại học công lập được giao tự chủ cũng dẫn đến giảm phân bổ của Nhà nước theo đầu sinh viên, khiến gánh nặng học phí và tài chính cho sinh viên tăng lên. Đó cũng là nguyên nhân ngăn cản nhiều người theo đuổi các chương trình thạc sĩ hoặc tiến sĩ do chi phí cao.
Tình trạng thiếu vốn dành cho R&D và giáo dục đại học còn trở nên trầm trọng hơn do những rào cản về thủ tục hành chính trong giải ngân vốn dành cho nghiên cứu, đặc biệt đối với nhà nghiên cứu ở các cơ sở giáo dục đại học. Chi tiêu của Chính phủ dành cho R&D tuy chiếm tỷ lệ tương đối cao trong tổng chi tiêu cho R&D của Việt Nam, nhưng lại dàn trải cho nhiều bộ, ngành, cơ sở giáo dục đại học, viện nghiên cứu nên chưa thể chuyển hóa thành các sản phẩm đầu ra tương xứng. Các nguồn kinh phí theo cơ chế cạnh tranh, như: Quỹ Phát triển khoa học – công nghệ quốc gia (NAFOSTED) còn hạn chế và thường dàn trải cho quá nhiều đối tượng, chưa kể rào cản thủ tục hành chính dẫn đến giải ngân chậm.
Ba là, liên kết giữa cơ sở giáo dục đại học và doanh nghiệp còn yếu.
Các cơ sở giáo dục đại học và doanh nghiệp ở Việt Nam hoạt động thiếu gắn kết, dẫn đến chương trình đào tạo lạc hậu và lệch với nhu cầu về kỹ năng. Trong thời gian gần đây, mới có một vài cơ sở giáo dục đại học đào tạo các ngành, như: thiết kế vi mạch VLSI hoặc khoa học dữ liệu. Sinh viên ra trường chưa có kinh nghiệm thực tế hoặc chưa được tiếp xúc với các công cụ tiêu chuẩn trong ngành. Do đó, các nhà tuyển dụng lao động phải đầu tư để đào tạo lại nhân sự mới tuyển dụng nhằm đáp ứng nhu cầu công việc. Mức độ hợp tác trong R&D và chuyển giao công nghệ giữa giới học thuật và doanh nghiệp còn hạn chế. Chỉ có một số ít doanh nghiệp trong nước hợp tác với các cơ sở giáo dục đại học để nghiên cứu, trong khi các nhà nghiên cứu không có nhiều động lực (hoặc nguồn lực) để theo đuổi các dự án nghiên cứu ứng dụng phù hợp với doanh nghiệp. Chẳng hạn, từ năm 2018 – 2023, khoảng 85% giá trị của toàn bộ các hợp đồng chuyển giao công nghệ ở Việt Nam đến từ các doanh nghiệp FDI, thay vì sự hợp tác giữa cơ sở giáo dục đại học và doanh nghiệp trong nước10.
Bốn là, thiếu hụt hạ tầng đào tạo và R&D.
Mức đầu tư hạn chế cho R&D của cả khu vực công và tư nhân ở Việt Nam dẫn đến không đáp ứng đủ nhu cầu phát triển hạ tầng đào tạo, R&D trong các ngành công nghệ cao. Việt Nam vẫn còn thiếu những cơ sở hạ tầng trọng yếu, như: phòng thí nghiệm đào tạo hiện đại, các nhà máy vi mạch bán dẫn (để sản xuất vi mạch), phòng sạch, dây chuyền thí điểm công nghệ sinh học đòi hỏi đầu tư ban đầu rất lớn. Việc thiếu cơ sở hạ tầng để tạo nguyên mẫu và mở rộng quy mô trong nước khiến nhiều sáng kiến đổi mới sáng tạo thường chỉ dừng lại ở phòng thí nghiệm, trong khi các nhà nghiên cứu không được tiếp cận với quy trình đổi mới sáng tạo đầy đủ. Điều này không chỉ cản trở nỗ lực thương mại hóa kết quả nghiên cứu mà còn làm giảm sức hấp dẫn của Việt Nam đối với các dự án công nghệ cao.
Việt Nam hiện còn thiếu cơ sở vật chất chủ chốt để tạo nguyên mẫu và thí điểm nhằm phục vụ đổi mới sáng tạo trong thiết kế vi mạch bán dẫn, tức các cơ sở hạ tầng từ phòng thí nghiệm đến nhà máy cần thiết để biến ý tưởng thành sản phẩm vật chất. Do không có dây chuyền chế tác vi mạch bán dẫn trong nước hoặc nhà máy R&D dùng chung, với quyền truy cập mở để chế tạo nguyên mẫu vi mạch, các nhóm thiết kế vi mạch trong nước phải gửi thiết kế nguyên mẫu ra nước ngoài, thường là các xưởng sản xuất ở Đài Loan (Trung Quốc) hoặc Hàn Quốc để chế tạo. Điều này vừa tốn kém, vừa làm chậm chu trình lặp, vì thiết kế có thể phải mất từ 6 – 10 tháng mới được chế tạo và kiểm thử ở nước ngoài.
4. Giải pháp phát triển nhân tài công nghệ cao
Thứ nhất, mở rộng và tăng cường chiều sâu của đội ngũ nhân tài công nghệ cao. Việt Nam cần mở rộng nguồn cung nhân tài (tăng cả quy mô lực lượng lao động kỹ năng cao hiện tại và nguồn sinh viên mới tốt nghiệp) và tăng cường chiều sâu năng lực để nâng tầm trình độ kỹ năng và chuyên môn. Điều đó đòi hỏi phải bồi dưỡng thêm nhiều nhân tài trong nước; đồng thời, thu hút và giữ chân các chuyên gia đến từ nước ngoài, bao gồm cả kiều bào. Những đề xuất bao gồm:
(1) Học bổng sau đại học quốc gia: Triển khai chương trình học bổng nhằm hỗ trợ học viên và nhà nghiên cứu trẻ tham gia các lĩnh vực công nghệ cao ưu tiên. Chương trình sẽ tài trợ cho thạc sĩ và tiến sĩ toàn thời gian và các dự án nghiên cứu liên kết doanh nghiệp trong các lĩnh vực, như: vi mạch bán dẫn, AI và công nghệ sinh học. Các học viện và nhà nghiên cứu trẻ sẽ được hưởng trợ cấp, hướng dẫn và được thực tập tại các phòng thí nghiệm quốc tế để bảo đảm có kinh nghiệm R&D thực tiễn.
(2) Chương trình thu hút và giữ chân nhân tài công nghệ toàn cầu: lựa chọn một nhóm nhỏ các cơ sở giáo dục đại học khoa học – công nghệ hàng đầu làm “đại học xuất sắc” theo các thỏa thuận về kết quả đạt được trong nhiều năm. Các thỏa thuận đó sẽ bảo đảm phân bổ vốn trong khả năng dự liệu cho các phòng thí nghiệm nghiên cứu tiên phong; đặt ra các chỉ tiêu về đầu ra đào tạo sau đại học, tỷ lệ giảng viên có bằng tiến sĩ và yêu cầu phối hợp mạnh mẽ với doanh nghiệp và giám sát quốc tế luận văn tốt nghiệp.
Thứ hai, xây dựng cơ sở hạ tầng R&D và thí điểm dùng chung.
(1) Thiết lập mạng lưới các trung tâm nghiên cứu tiên tiến quốc gia trong các lĩnh vực công nghệ cao then chốt. Những trung tâm đó sẽ có các phòng thí nghiệm hiện đại và các nhà nghiên cứu hàng đầu, đóng vai trò là đầu mối tập hợp các nhóm nghiên cứu từ cơ sở giáo dục đại học, các viện nghiên cứu công và doanh nghiệp tư nhân. Mỗi trung tâm sẽ tập trung vào R&D ứng dụng và phát triển nguyên mẫu trong lĩnh vực chuyên môn; đồng thời, cung cấp quyền truy cập mở vào cơ sở vật chất và chuyên môn cho các dự án hợp tác.
(2) Phát triển hạ tầng R&D dùng chung, cho phép các cơ sở giáo dục đại học, các viện nghiên cứu, các doanh nghiệp khởi nghiệp và doanh nghiệp có thể tiếp cận khi cần. Ví dụ, các trung tâm điện toán hiệu năng cao, các công cụ thiết kế vi mạch và cơ sở vật chất chuyên dụng khác về phát triển phần cứng.
(3) Đầu tư vào các cơ sở vật chất quy mô thí điểm nhằm thu hẹp khoảng cách giữa nghiên cứu và sản xuất công nghiệp. Những cơ sở này sẽ tạo điều kiện cho các nhà nghiên cứu và doanh nghiệp trong nước sản xuất nguyên mẫu vận hành giới hạn của các sản phẩm công nghệ cao để kiểm thử và thí nghiệm lặp lại nhằm hoàn thiện các quy trình sản xuất và chứng minh tính khả thi về ý tưởng trước khi mở rộng quy mô.
(4) Khai thác Quỹ Hỗ trợ đầu tư quốc gia mới thành lập để đồng tài trợ cơ sở hạ tầng R&D cũng như những dự án đổi mới sáng tạo trong các lĩnh vực ưu tiên. Thông qua chương trình này, liên danh gồm các cơ sở giáo dục đại học, viện nghiên cứu và doanh nghiệp có thể đề nghị hỗ trợ đối ứng nhằm thiết lập các phòng thí nghiệm chung, nâng cấp trang thiết bị nghiên cứu hoặc phát triển các công nghệ mới.
Thứ ba, thúc đẩy liên kết cơ sở giáo dục đại học – doanh nghiệp và tác động lan tỏa của FDI.
(1) Hình thành các khu đổi mới sáng tạo công nghệ cao, trong đó các cơ sở giáo dục đại học, viện nghiên cứu, doanh nghiệp khởi nghiệp và doanh nghiệp khác cùng đặt trụ sở và hợp tác. Mỗi cụm sẽ chuyên sâu vào một nhóm các lĩnh vực công nghệ cao có liên quan với nhau, như: vi mạch bán dẫn, phần cứng AI và vật liệu tiên tiến thay vì chỉ tập trung vào một lĩnh vực duy nhất nhằm thúc đẩy sự giao thoa nhân tài và ý tưởng. Chính phủ có thể hỗ trợ sự hình thành những cụm này bằng cách cung cấp cơ sở hạ tầng, cơ chế thí điểm đặc thù và có thể cả cơ chế ưu đãi cho “khu đổi mới sáng tạo”. Mục tiêu là tạo môi trường để các hoạt động nghiên cứu, đào tạo và sản xuất cùng bổ trợ cho nhau. Hơn nữa, những cụm công nghệ này sẽ rút ngắn chu trình từ phát kiến đến sản xuất và tạo thuận lợi lan tỏa sự học hỏi kinh nghiệm giữa các doanh nghiệp FDI và các nhà cung cấp trong nước.
(2) Thiết lập các cơ chế chính thức để trao đổi nhân tài giữa tổ chức học thuật, doanh nghiệp và các tổ chức nghiên cứu. Điều này sẽ tạo điều kiện và khuyến khích bổ nhiệm kép, biệt phái ngắn hạn và tạo vị trí việc làm chung. Qua việc tạo điều kiện để nhân tài vượt qua các ranh giới thể chế, Việt Nam có thể bảo đảm kinh nghiệm thực tế tại doanh nghiệp được sử dụng trong đào tạo học thuật và kết quả nghiên cứu có thể tìm hướng thương mại hóa thuận lợi.
(3) Thiết lập nền tảng đồng tài trợ trung và dài hạn nhằm liên kết giữa các công ty đa quốc gia lớn với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các đơn vị cung ứng, các cơ sở giáo dục đại học để tăng cường chiều sâu các chuỗi cung ứng trong nước và đẩy nhanh chuyển giao công nghệ. Các khoản hỗ trợ nhằm phát triển đơn vị cung ứng, các dự án “trình diễn” của doanh nghiệp – cơ sở giáo dục đại học, trong đó các quy định của chương trình sẽ được thiết kế để tạo tác động lan tỏa trong nước, chẳng hạn doanh nghiệp FDI hướng dẫn nâng cấp cho các nhóm đơn vị cung ứng trong nước. Sáng kiến như vậy có thể sử dụng các khoản hỗ trợ đối ứng (với mức trần lên đến 50% kinh phí dự án) gắn với các sản phẩm đầu ra cụ thể, như: số lượng nhân sự được đào tạo, số lượng quy trình được áp dụng và tài sản trí tuệ được chia sẻ.
Chú thích:
1. Bài viết là một phần của đề tài: “Nghiên cứu xây dựng định hướng ưu tiên, xác định nhiệm vụ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh đến năm 2030” do Viện Kinh tế Việt Nam và Thế giới chủ trì.
2. Ngân hàng Thế giới (2025). Đầu tư vì một nền kinh tế thu nhập cao. Chuyên đề chính sách của Ngân hàng Thế giới.
3. Ngân hàng Thế giới (2025). Báo cáo kiến tạo tương lai bán dẫn Việt Nam: Đột phá từ nhân tài công nghệ và đổi mới sáng tạo.
4. Tổ chức Sở hữu trí tuệ Thế giới (WIPO). Báo cáo Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu 2024. Global Innovation Index 2024 – GII 2024.
5. Bộ Thông tin và Truyền thông (2024). Sách trắng công nghiệp công nghệ thông tin Việt Nam 2024.
6, 7. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2024). Đề án “Phát triển nguồn nhân lực ngành bán dẫn đến năm 2030, định hướng đến năm 2045”.
8, 9, 10. Bộ Khoa học và Công nghệ (2024). Khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo Việt Nam năm 2024.



