TS. Nguyễn Đức Nhuận
Đại học Nguyễn Huệ, Bộ Quốc phòng
ThS. Nguyễn Duy Khắc
Đại học Nguyễn Huệ, Bộ Quốc phòng
(Quanlynhanuoc.vn) – Xây dựng Đảng về tư tưởng là một trong những nội dung quan trọng trong công tác xây dựng Đảng và sự nghiệp lãnh đạo cách mạng của Đảng. Xây dựng Đảng nhằm thiết lập, củng cố, giữ vững nền tảng tư tưởng của Đảng, nâng cao bản lĩnh chính trị, lập trường tư tưởng, niềm tin của cán bộ, đảng viên đối với sự lãnh đạo của Đảng, đối với chế độ; tạo sự đoàn kết thống nhất về tư tưởng, ý chí và hành động trong toàn Đảng và toàn dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại hệ thống những luận điểm có giá trị không chỉ cho công tác xây dựng Đảng về tư tưởng mà còn cung cấp những luận cứ khoa học, sắc bén trong việc đấu tranh, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong giai đoạn hiện nay.
Từ khóa: Quan điểm xây dựng Đảng, tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, Đảng Cộng sản Việt Nam.
1. Đặt vấn đề
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng công tác xây dựng Đảng, trong đó có xây dựng Đảng về tư tưởng. Với nhãn quan chính trị sắc xảo, Người đã để lại những quan điểm rất có giá trị trong xây dựng, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Hiện nay, các thế lực cơ hội, phản động, thù địch đang ráo riết tiến hành các âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc, chống phá Đảng một cách toàn diện thì việc nghiên cứu, vận dụng những chỉ dẫn quý báu của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào công tác xây dựng Đảng, nhất là trong xây dựng, đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng là việc làm hết sức cần thiết.
2. Xây dựng Đảng về tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin vào xây dựng Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi xây dựng Đảng về tư tưởng có vai trò, ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với việc nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Xây dựng Đảng về tư tưởng là xác lập, bồi đắp vững chắc nền tảng tư tưởng nhằm tạo sự thống nhất trong Đảng, bởi vì, sự thống nhất về tư tưởng là cơ sở của sự thống nhất về hành động trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân.
Thứ nhất, Đảng phải lấy chủ nghĩa Mác – Lênin “làm cốt”.
Trong xây dựng Đảng về tư tưởng, việc xác định một hệ thống lý luận làm cơ sở cho việc xây dựng, hoạch định chủ trương, đường lối và củng cố, tăng cường sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng có ý nghĩa rất quan trọng. Trong tác phẩm “Đường cách mệnh”, năm 1927, Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định: “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy”1. Đồng thời, Người cũng nhấn mạnh: “Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”2.
Từ việc nghiên cứu các học thuyết lý luận tiến bộ trên thế giới lúc bấy giờ và khảo sát kỹ lưỡng các cuộc cách mạng trên thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhận thấy vai trò dẫn đường của chủ nghĩa Mác – Lênin, nhất là từ thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại, Người đi đến kết luận: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều nhưng chủ nghĩa chân chính, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”3. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định Đảng phải lấy chủ nghĩa Mác – Lênin “làm cốt” là có cơ sở khoa học và thực tiễn vững chắc.
Để mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng thấm nhuần chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh luôn đề cao vai trò của công tác giáo dục lý luận chính trị. Người thường xuyên nhắc nhở mỗi cán bộ, mỗi đảng viên của Đảng phải ra sức học tập chủ nghĩa Mác – Lênin. Người căn dặn, việc học tập, nghiên cứu, tuyên truyền chủ nghĩa Mác – Lênin phải luôn phù hợp với từng đối tượng. Quá trình học tập phải chú ý xây dựng và hình thành thế giới quan khoa học, phải thường xuyên tiếp thu một cách hiệu quả lý luận mới, những thành tựu khoa học, công nghệ của nhân loại, xây dựng niềm tin vào sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân để giúp người học có cơ sở khoa học chống lại tư tưởng lạc hậu, phản động.
Sự sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là xác định mục đích của việc nghiên cứu, học tập chủ nghĩa Mác – Lênin. Người chỉ rõ: “Hiểu chủ nghĩa Mác – Lênin tức là cách mạng phân công cho việc gì, làm chủ tịch nước hay nấu ăn, đều phải làm tròn nhiệm vụ. Không nên đào tạo ra những con người thuộc sách làu làu, cụ Mác nói thế này, cụ Lênin nói thế kia, nhưng nhiệm vụ của mình được giao quét nhà lại để cho nhà đầy rác”. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Hiểu chủ nghĩa Mác – Lênin là phải sống với nhau có tình có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác – Lênin được”4.
Thứ hai, Đảng phải giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất, thông suốt về tư tưởng.
Xây dựng sự đoàn kết, thống nhất, thông suốt về tư tưởng trong Đảng là vấn đề được Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm và thể hiện một cách xuyên suốt, nhất quán từ khi chuẩn bị thành lập Đảng. Bởi theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, sự đoàn kết, thống nhất, thông suốt về tư tưởng tạo nên sức mạnh to lớn cho Đảng. Người nhấn mạnh: vô luận việc gì cũng đều do người làm ra, từ việc nhỏ đến việc to, nếu lòng mình trong sáng, nếu đồng tâm thì mọi việc dù khó khăn đến mấy cũng vượt qua. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng chỉ rõ: sở dĩ trong Đảng có sự không thống nhất là do cách lãnh đạo không được dân chủ, cấp trên với cấp dưới tách biệt nhau, Đảng với quần chúng rời xa nhau, dẫn đến ở trên thì tưởng cái gì cũng tốt đẹp, ở dưới thì không dám nói ra, họ cứ để trong lòng rồi sinh ra uất ức, chán nản, làm nảy sinh các hiện tượng “trong Đảng im tiếng, ngoài Đảng nhiều mồm” và cái thói “thậm thà thậm thụt”5, không nói trước mặt, chỉ nói sau lưng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh còn cho rằng:“giáo dục tư tưởng và lãnh đạo tư tưởng là việc quan trọng nhất của Đảng, phải kiên quyết chống cái thói xem nhẹ tư tưởng”6 và “nếu tư tưởng không thông thì công tác kém kết quả”7. Theo Hồ Chí Minh, cán bộ, đảng viên ở trong Đảng và ngoài Đảng có nắm chắc, rõ tình hình, nhận rõ nhiệm vụ được giao thì tư tưởng mới thông suốt, tư tưởng thông suốt thì hành động mới thống nhất. Nếu tư tưởng thông suốt và hành động thống nhất thì nhiệm vụ tuy nặng nề, công việc tuy khó khăn phức tạp cũng nhất định thắng lợi. Muốn vậy, Người lưu ý rằng, phải hiểu tư tưởng của mỗi cán bộ, đảng viên để giúp đỡ trong công tác, vì tư tưởng thông suốt thì làm việc tốt, tư tưởng “nhùng nhằng” thì không làm được việc. Người nhấn mạnh: “Nếu đảng viên tư tưởng và hành động không nhất trí thì khác nào một mớ cắt rời, “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược. Như vậy, thì Đảng không thể nào lãnh đạo được quần chúng, không thể làm cách mạng”8.
Mặt khác, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đề cao và phát huy tính sáng tạo, tự do tư tưởng, tác phong độc lập suy nghĩ. Người chỉ rõ, trong mọi vấn đề, mọi người được tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý. Đây vừa là quyền lợi, vừa là nghĩa vụ của mọi người. Khi cán bộ, đảng viên đã phát huy dân chủ tham gia phát biểu ý kiến, đã thấy được chân lý, khi đó, quyền tự do tư tưởng hóa ra “quyền tự do phục tùng chân lý”. Làm được như vậy tức là đã “đánh thông tư tưởng và động viên sáng kiến và lực lượng của toàn Ðảng, toàn dân”9. Người nhấn mạnh: “tư tưởng không đúng đắn thì công tác ắt sai lầm”10.
Thứ ba, chống những tư tưởng cơ hội, giáo điều, bảo thủ, trì trệ.
Cùng với việc quan tâm giáo dục, nâng cao trình độ lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin cho cán bộ, đảng viên, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng kiên quyết phê phán những tư tưởng cơ hội, giáo điều, bảo thủ, trì trệ. Trong thời kỳ hoạt động cách mạng tại Pháp, Hồ Chí Minh đã nhận rõ thực chất của chủ nghĩa cơ hội, tiểu tư sản trong Quốc tế II, Người viết: “Trong chính sách thuộc địa của Quốc tế thứ hai, bất cứ ở đâu cũng lộ rõ bộ mặt thật của tổ chức tiểu tư sản này. Bởi vậy, cho tới tận Cách mạng tháng Mười, ở các nước thuộc địa, học thuyết xã hội chủ nghĩa đã bị coi là một thứ học thuyết chỉ dành riêng cho những người da trắng, một thứ thủ đoạn mới để lừa dối và bóc lột người bản xứ”11.
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ phê phán tư tưởng cơ hội, phản cách mạng mà Người còn phê phán cách nghĩ, cách làm giáo điều, dập khuôn máy móc. Thấm nhuần nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn, Người nhận thức rõ lý luận cách mạng không phải là giáo điều, nó là kim chỉ nam cho hành động cách mạng, lý luận không phải là một cái gì cứng nhắc mà đầy tính sáng tạo, do đó, “phải cụ thể hóa chủ nghĩa Mác – Lênin cho thích hợp với điều kiện hoàn cảnh từng lúc từng nơi”12. Người chỉ rõ những sai lầm có thể mắc phải trong nhận thức và vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin cũng như trong chỉ đạo thực tiễn. Đó là, nếu “Tả khuynh” thì sẽ bị cô lập, sẽ xa rời Nhân dân ta và Nhân dân thế giới, lúc đó sẽ thất bại; còn “Hữu khuynh” thì bi quan tiêu cực, nhân nhượng vô nguyên tắc. Không tin tưởng vào lực lượng của Nhân dân, làm nhụt tinh thần phấn đấu của Nhân dân. Quên tác phong gian khổ; chỉ mong muốn một đời sống yên ổn dễ dàng. Và Người kết luận: “Khuynh hướng “tả” cũng như hữu đều là sai lầm, đều sẽ bị địch lợi dụng, đều có hại cho ta mà lợi cho địch”13.
Nắm vững những nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, lại có vốn kinh nghiệm và hiểu biết thực tiễn sâu sắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phê phán thẳng thắn quan điểm phiến diện, giáo điều, rập khuôn máy móc của một số người về giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và giai cấp ở Việt Nam: “nghe người ta nói giai cấp đấu tranh, mình cũng ra khẩu hiệu giai cấp đấu tranh mà không xét hoàn cảnh nước mình như thế nào để làm cho đúng”14. Khi miền Bắc bắt tay vào cải tạo xã hội chủ nghĩa, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ việc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, cải tạo giai cấp tư sản cũng cần có cách thức khác, “Ta không thể giống Liên Xô, vì Liên Xô có phong tục tập quán khác, có lịch sử địa lý khác”15. Rõ ràng, việc xây dựng đường lối, chính sách cũng như việc thực hiện đường lối đó không thể máy móc, giáo điều mà phải luôn chú ý đặc điểm, hoàn cảnh riêng của Việt Nam.
Bên cạnh việc chống lại tư tưởng cơ hội, giáo điều, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn phê phán tư tưởng bảo thủ, lạc hậu, trì trệ. Người cho rằng: “Tư tưởng bảo thủ là như những sợi dây cột chân cột tay người ta, phải vất nó đi. Muốn tiến bộ thì phải có tinh thần mạnh dạn, dám nghĩ, dám làm”16. Người còn nhấn mạnh: “Xã hội ngày càng tiến, công tác của ta cũng phải ngày càng tiến… Không tiến, tức là thoái”17. Muốn chống giáo điều, trì trệ bảo thủ trong hành động, Người cho rằng, cần phải đổi mới tư duy. Đổi mới được tư duy thì việc dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm như một hệ quả, kết quả, động lực tất yếu bên trong, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Phải biết rằng tình hình khách quan thay đổi hàng giờ, hàng phút, một chủ trương của ta hôm nay đúng, hôm sau đã không hợp thời, nếu ta không tỉnh táo kiểm điểm những tư tưởng, hành vi của ta để bỏ đi những cái quá thời, sai hỏng, nhất định ta sẽ không theo kịp tình thế, ta sẽ bị bỏ rơi”18.
3. Giá trị đối với cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay
Đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong giai đoạn hiện nay. Đại hội XIII (2021) của Đảng đánh giá: “Công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch được lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, chuyển biến tích cực”19. Tuy nhiên, Đảng cũng thẳng thắn chỉ rõ: “Công tác đấu tranh phản bác, ngăn chặn các thông tin xấu độc, quan điểm sai trái, thù địch có lúc, có nơi còn bị động, thiếu sắc bén, tính chiến đấu chưa cao…”20. Nghiên cứu quan điểm xây dựng Đảng về tư tưởng của Hồ Chí Minh có thể rút ra một số vấn đề có giá trị đối với công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng như sau:
Một là, cần tiếp tục kiên trì và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới.
Đây là vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng, tạo cơ sở nhận thức đúng đắn trong công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay. Với tinh thần độc lập tự chủ và sáng tạo, Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương mẫu mực về sự vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin để giải quyết thành công những vấn đề thực tiễn đặt ra, thể hiện tinh thần biện chứng trong việc tiếp thu, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Người khẳng định lấy chủ nghĩa Mác – Lênin “làm cốt”, điều đó có nghĩa là việc nghiên cứu, học tập, tuyên truyền, giảng dạy, vận dụng nó không được giáo điều, máy móc theo từng câu, từng chữ của các nhà kinh điển mà nắm vững tinh thần của chủ nghĩa Mác – Lênin, nắm vững lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác – Lênin, đồng thời, phải tiếp thu những tinh hoa của văn hóa dân tộc và nhân loại, tham khảo những kinh nghiệm của các nước, vận dụng một cách sáng tạo vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam để định ra đường lối, chính sách đúng đắn.
Bên cạnh đó, cần tăng cường hơn nữa việc vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn đất nước để thúc đẩy tiến trình đổi mới đất nước, làm cho nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc và không ngừng nâng cao vị thế của đất nước trên trường quốc tế. Đây thực chất là giải pháp dùng thực tiễn để bảo vệ lý luận, bảo vệ chân lý, bởi thực tiễn là nơi kiểm nghiệm mọi lý luận, mọi chân lý một cách xác thực nhất. Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh: “toàn dân và toàn quân ta là phải kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng… Đây là vấn đề mang tính nguyên tắc, có ý nghĩa sống còn đối với chế độ ta, là nền tảng vững chắc của Đảng ta, không cho phép ai được ngả nghiêng, dao động”21. Việc xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta chính là minh chứng hùng hồn nhất cho sức sống, giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Mác – Lênin trong thời đại ngày nay.
Hai là, phải nâng cao nhận thức về mối quan hệ biện chứng giữa tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Mác – Lênin, về âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động và phần tử cơ hội chính trị khi phủ nhận mối quan hệ này.
Cần làm cho cán bộ, đảng viên và Nhân dân hiểu rõ rằng, mối quan hệ giữa chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là mối quan hệ giữa cội nguồn và phát triển, giữa cái chung và cái đặc thù nên “tuy hai mà là một, tuy một mà là hai”. Vì thế, không thể tách rời, đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác – Lênin, cũng không thể lấy tư tưởng Hồ Chí Minh để thay thế cho chủ nghĩa Mác – Lênin và ngược lại. Cho dù tư tưởng Hồ Chí Minh có nhiều điểm sáng tạo nhưng lại thống nhất với chủ nghĩa Mác – Lênin ở chiều sâu bản chất, ở lý tưởng giải phóng con người… Việc các thế lực thù địch, phản động và phần tử cơ hội chính trị mưu toan tách rời tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác – Lênin, cố tình lờ đi mối quan hệ biện chứng giữa hai hệ thống tư tưởng, lý luận này không phải là do chưa có đủ thông tin hay chưa có phương pháp nghiên cứu phù hợp mà là sự chủ ý xuyên tạc, bịa đặt và lừa bịp nhằm thực hiện “diễn biến hòa bình” và thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Ba là, đẩy mạnh công tác giáo dục, bồi dưỡng lý luận chính trị để cán bộ, đảng viên hiểu rõ nội dung, bản chất khoa học, cách mạng, nhân văn của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Việc làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng sẽ làm cho cán bộ và Nhân dân đều thấu hiểu, thấu cảm giá trị đích thực, sức sống thời đại của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, qua đó sẽ làm cho mọi sự xuyên tạc sẽ trở nên vô nghĩa. Do đó, cần tập trung thực hiện có hiệu quả Chỉ thị số 23-CT/TW ngày 09/02/2018 của Ban Bí thư “Về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả học tập, nghiên cứu, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới”. Làm tốt công tác giáo dục lý luận chính trị, đẩy lùi căn bệnh lười học lý luận chính trị ở một bộ phận cán bộ, đảng viên, tích cực bồi đắp tri thức khoa học cho cán bộ, đảng viên và Nhân dân chính là tạo “vắc-xin” phòng, chống sự xâm nhập của các luồng thông tin xấu, độc, các quan điểm sai trái, thù địch.
Bốn là, xây dựng đội ngũ cán bộ lý luận có bản lĩnh chính trị thật sự vững vàng, có năng lực lý luận tinh thông, tinh nhuệ.
Hiện nay, để đấu tranh trực diện với những âm mưu, thủ đoạn, những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, rất cần những người có trình độ, am hiểu sâu sắc về công tác tư tưởng lý luận của Đảng. Những người làm công tác lý luận của Đảng khi tham gia vào trận chiến trên mặt trận đấu tranh tư tưởng lý luận phải có thái độ vừa mạnh mẽ, điềm tĩnh, vừa kiên quyết, kiên trì; mọi lập luận đưa ra phải đạt tới mức tinh thông, sắc bén về lý luận, phong phú, sinh động về thực tiễn. Theo đó, cần thường xuyên và kịp thời cung cấp thông tin cho lực lượng này và tổ chức các buổi tọa đàm, trao đổi kinh nghiệm với các cơ quan chức năng, lực lượng nòng cốt về đấu tranh trên không gian mạng để họ trở thành những chiến sĩ thực thụ trên mặt trận đấu tranh tư tưởng lý luận.
Như vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, xây dựng Đảng về tư tưởng là tạo nên sự thống nhất, thông suốt về tư tưởng, thấm nhuần lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin cho mọi cán bộ, đảng viên; làm cơ sở cho việc xây dựng cương lĩnh chính trị, chủ trương, đường lối của Đảng và rèn luyện, nâng cao phẩm chất đạo đức của cán bộ, đảng viên. Bên cạnh đó, xây dựng Đảng về tư tưởng còn tăng cường nâng cao trình độ lý luận chính trị, trình độ tư duy lý luận trong toàn Đảng.
Trong tình hình mới, xây dựng Đảng về tư tưởng đòi hỏi hải gắn liền với đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và phòng ngừa, ngặn chặn những tư tưởng sai trái, tiêu cực, cơ hội chính trị nảy sinh ở cán bộ, đảng viên, góp phần xây dựng Đảng vững mạnh về mọi mặt.
4. Kết luận
Quan điểm xây dựng Đảng về tư tưởng của Hồ Chí Minh có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc. Hệ thống những luận điểm ấy đã trực tiếp góp phần xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam trong sạch, vững mạnh về mọi mặt, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Hiện nay, trước những yêu cầu mới của sự nghiệp cách mạng, sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch đối với nền tảng tư tưởng của Đảng đòi hỏi từng cấp ủy, tổ chức đảng và mỗi cán bộ, đảng viên phải tích cực nghiên cứu, nắm vững giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng. Đó chính là cơ sở cho việc xây dựng Đảng về tư tưởng, tạo sự đoàn kết, thống nhất và góp phần đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trước sự xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch.
Chú thích:
1, 2, 3, 11. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 2. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 289, 289, 289, 233-234.
4. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 15. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 668.
5. Kiên định trước sau cả trong lời nói và việc làm. https://www.qdnd.vn/phong-chong-tu-dien-bien-tu-chuyen-hoa/kien-dinh-truoc-sau-ca-trong-loi-noi-va-viec-lam-545108.
6, 13, 17. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 8. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 279, 554, 405.
7, 15. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 10. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 67, 391.
8, 9, 12. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 11. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 606, 555, 95.
10. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 7. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 114.
14. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 5. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 312.
16. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 13. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 340.
18. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 4. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 28.
21. Nguyễn Phú Trọng (2022). Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 51.
19, 20. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 74, 91.



