Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận và sự vận dụng ở địa bàn Quân khu 3 hiện nay

Trung tá Phạm Văn Dũng
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng

(Quanlynhanuoc.vn) – Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận là nền tảng chỉ đạo mọi hoạt động của Đảng và Quân đội, coi dân là gốc, là trung tâm, là động lực của cách mạng. Vận dụng tư tưởng ấy vào thực tiễn Quân khu 3 là địa bàn có vị trí chiến lược, điều kiện kinh tế – xã hội đa dạng cần tập trung nâng cao chất lượng công tác dân vận thông qua tăng cường giáo dục chính trị, đổi mới nội dung và hình thức dân vận, phát huy phong trào “Dân vận khéo”, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, gắn bó mật thiết với Nhân dân. Qua đó, củng cố “thế trận lòng dân”, tăng cường đoàn kết quân – dân, góp phần xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh.

Từ khóa: Tư tưởng Hồ Chí Minh; công tác dân vận; dân là gốc; nền quốc phòng toàn dân; Quân khu 3.

1. Đặt vấn đề

Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận là một trong những nội dung quan trọng, thể hiện rõ nhất quan điểm của Người về vai trò, vị trí của Nhân dân trong sự nghiệp cách mạng, đồng thời, khẳng định phương pháp, phong cách lãnh đạo của Đảng luôn xuất phát từ Nhân dân, vì Nhân dân và dựa vào Nhân dân. Trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, dân là gốc, là chủ thể sáng tạo ra mọi giá trị vật chất và tinh thần, là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng. Vì vậy, dân vận là vận động Nhân dân, hướng dẫn Nhân dân, tổ chức, động viên và phát huy sức mạnh của Nhân dân tham gia vào các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh là một công tác có ý nghĩa chiến lược, quyết định đến mọi thắng lợi của cách mạng. Người đã nhiều lần khẳng định: “Nước lấy dân làm gốc”1. Lời dạy của Người đã trở thành kim chỉ nam cho toàn bộ hoạt động dân vận của Đảng, Nhà nước và Quân đội nhân dân Việt Nam trong suốt tiến trình cách mạng.

2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, dân vận trước hết phải xuất phát từ quan điểm coi Nhân dân là trung tâm, là mục tiêu và là động lực của cách mạng. Theo Người, dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không để sót một ai, góp thành lực lượng toàn dân để thực hiện những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và đoàn thể giao cho. Tư tưởng ấy khẳng định tính toàn diện, phổ biến của công tác dân vận, không chỉ bó hẹp trong phạm vi tuyên truyền, giáo dục hay vận động chính trị đơn thuần mà bao hàm cả việc tổ chức, hướng dẫn, khơi dậy, phát huy tiềm năng sáng tạo, tinh thần tự giác, ý thức làm chủ của Nhân dân để họ trực tiếp tham gia vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Người luôn nhấn mạnh: “Lực lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”2. Lời dạy ấy tuy ngắn gọn nhưng chứa đựng triết lý sâu sắc về vai trò của dân vận đối với mọi lĩnh vực của đời sống chính trị – xã hội, khẳng định rằng, muốn mọi chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước đi vào cuộc sống, trước hết phải làm tốt công tác dân vận.

Về phương pháp dân vận, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, phải dựa vào dân, tôn trọng dân, lắng nghe dân và vì lợi ích của dân mà hành động. Người cho rằng, làm dân vận phải có phương pháp đúng, phải nói và làm cho dân hiểu, dân tin, dân theo. Theo Người, dân vận không thể chỉ là khẩu hiệu, là tuyên truyền suông mà phải đi vào thực chất, phải gắn với lợi ích thiết thân của Nhân dân. Mỗi cán bộ làm công tác dân vận cần phải nói sao cho dân hiểu, làm sao cho dân tin và hướng dẫn sao cho dân làm được. Người nhấn mạnh, công tác dân vận muốn có hiệu quả thì phải thường xuyên sâu sát cơ sở, bám sát thực tiễn, hiểu rõ tâm tư, nguyện vọng của Nhân dân, có phương pháp phù hợp với từng đối tượng, từng địa bàn. Dân vận không phải là việc riêng của một vài người, mà là công việc của cả hệ thống chính trị, của tất cả cán bộ, đảng viên. Do vậy, để dân vận thành công, phải có sự phối hợp đồng bộ giữa các tổ chức Đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể; phải thực hiện dân vận một cách toàn diện, thường xuyên và kiên trì.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng dành nhiều tâm huyết để chỉ ra phẩm chất, tác phong của người cán bộ dân vận. Người yêu cầu: “Những người phụ trách dân vận cần phải óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm. Chứ không phải chỉ nói suông, chỉ ngồi viết mệnh lệnh. Họ phải thật thà nhúng tay vào việc”3. Lời chỉ dẫn ấy hàm chứa nội dung hết sức sâu sắc. “Óc nghĩ” là yêu cầu phải có trí tuệ, có tầm nhìn, có tư duy khoa học, phải biết phân tích, tổng hợp, dự đoán và đề ra biện pháp thích hợp. “Mắt trông, tai nghe, chân đi” là yêu cầu cán bộ phải bám sát thực tế, gần gũi Nhân dân, biết quan sát, lắng nghe, nắm bắt tình hình đời sống, tâm tư, nguyện vọng và cả những khó khăn của Nhân dân để kịp thời tham mưu, giải quyết. “Miệng nói, tay làm” thể hiện nguyên tắc nói đi đôi với làm, phải thật thà, gương mẫu, làm mực thước cho dân noi theo.

Người từng nói: “Muốn hướng dẫn Nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”. Vì vậy, trong công tác dân vận, gương mẫu là điều kiện tiên quyết để tạo uy tín, niềm tin và sự ủng hộ của Nhân dân. Cán bộ dân vận không thể chỉ nói suông, chỉ hô khẩu hiệu mà phải thực sự bắt tay vào việc, cùng ăn, cùng ở, cùng làm với dân, chia sẻ với dân, giúp dân phát triển và nâng cao đời sống.

Tư tưởng trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành nền tảng lý luận cho công tác dân vận của Đảng và Quân đội ta. Trải qua các giai đoạn cách mạng, từ kháng chiến đến xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Quân đội nhân dân Việt Nam luôn nắm vững và vận dụng sáng tạo tư tưởng dân vận của Người, xem đó là một trong những yếu tố quan trọng làm nên sức mạnh chiến đấu và chiến thắng. Thực tiễn đã chứng minh, ở đâu công tác dân vận tốt, ở đó thế trận lòng dân vững chắc, quân với dân gắn bó như cá với nước, mọi khó khăn đều được Nhân dân đồng lòng cùng quân đội vượt qua. Chính vì vậy, trong giai đoạn hiện nay, khi đất nước đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, công tác dân vận trong quân đội nói chung và trong các đơn vị thuộc Quân khu 3 nói riêng càng có vai trò đặc biệt quan trọng.

3. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận vào địa bàn Quân khu 3 hiện nay

Quân đội nhân dân Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức, lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện; mang bản chất giai cấp công nhân, thấm đượm tính Nhân dân và tính dân tộc, được hình thành từ Nhân dân và chiến đấu vì Nhân dân. Quân đội luôn nhận được sự quan tâm, huấn thị và chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhờ đó từng bước trưởng thành, giành nhiều thắng lợi. Qua thời gian, tư tưởng của Người về công tác dân vận vẫn giữ nguyên giá trị, tiếp tục soi đường cho sự phát triển và trưởng thành của Quân đội hiện nay.

Quân khu 3 là một trong những địa bàn chiến lược trọng yếu của cả nước, bao gồm khu vực đồng bằng sông Hồng và vùng Đông Bắc ven biển, hiện nay được xác định gồm các tỉnh: Quảng Ninh, Hưng Yên, Ninh Bình và thành phố Hải Phòng. Đây là địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng và an ninh; địa bàn có cả vùng núi, trung du, đồng bằng, ven biển và hải đảo. Khu vực này vừa là vùng kinh tế động lực, có tốc độ đô thị hóa và phát triển công nghiệp cao vừa có những địa bàn còn nhiều khó khăn, chịu ảnh hưởng của thiên tai, bão lũ, xâm nhập mặn, biến đổi khí hậu. Dân cư đông đúc, trình độ dân trí cao, song cũng đa dạng về thành phần, nghề nghiệp và lối sống, từ nông thôn đến đô thị, từ vùng đồng bằng đến vùng biển đảo. Đặc điểm địa lý – xã hội như vậy tạo nên những thuận lợi và khó khăn đan xen đối với công tác dân vận của lực lượng vũ trang Quân khu 3.

Thuận lợi lớn nhất là Nhân dân trong khu vực có truyền thống yêu nước, cách mạng, gắn bó máu thịt với quân đội, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, chính quyền và các lực lượng vũ trang. Các địa phương đều có kinh nghiệm phối hợp chặt chẽ với quân đội trong xây dựng khu vực phòng thủ, phát triển kinh tế – xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh. Bên cạnh đó, hạ tầng giao thông, thông tin, truyền thông phát triển tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai các hoạt động dân vận, tuyên truyền, vận động quần chúng.

Tuy nhiên, công tác dân vận cũng đang đối mặt với thách thức. Đó là quá trình đô thị hóa nhanh, phân hóa xã hội ngày càng rõ, đời sống và nhu cầu của người dân đa dạng, tư duy, lối sống, cách tiếp cận thông tin thay đổi nhanh chóng, trong khi một bộ phận cán bộ dân vận chưa theo kịp yêu cầu mới. Ở những nơi vùng sâu, vùng xa, ven biển, hải đảo, đời sống Nhân dân còn khó khăn, việc đi lại, tiếp cận thông tin, chính sách còn hạn chế. Tình hình thiên tai, bão lũ, ô nhiễm môi trường, cùng với các yếu tố tác động từ bên ngoài, như: buôn lậu, di cư, tôn giáo, an ninh phi truyền thống… cũng ảnh hưởng không nhỏ đến công tác dân vận của quân đội. Trước thực tế ấy, việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào nâng cao chất lượng công tác dân vận trên địa bàn Quân khu 3 là yêu cầu khách quan, cấp thiết. Theo đó, cần tập trung thực hiện đồng bộ, hiệu quả các giải pháp sau:

Một là, thường xuyên làm tốt công tác giáo dục, quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, quan điểm của Đảng về công tác dân vận cho mọi cán bộ, chiến sĩ.

Phải làm cho mỗi người nhận thức rõ dân vận là nhiệm vụ chính trị quan trọng, là trách nhiệm của toàn thể cán bộ, chiến sĩ chứ không phải của riêng cơ quan chính trị hay một bộ phận chuyên trách. Cần tổ chức học tập, sinh hoạt chính trị chuyên đề về tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận; cập nhật, phổ biến kịp thời các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương và Quân ủy Trung ương về công tác dân vận; đồng thời, gắn nội dung học tập với việc rèn luyện phẩm chất đạo đức, tác phong công tác, tinh thần trách nhiệm, ý thức tôn trọng và phục vụ nhân dân. Trong quá trình giáo dục, cần chú trọng hình thức sinh động, thiết thực, có lồng ghép các câu chuyện, tấm gương “Dân vận khéo” tiêu biểu để khích lệ, lan tỏa trong toàn Quân khu. Cùng với đó, tăng cường kiểm tra, giám sát, đánh giá kết quả học tập và thực hiện, bảo đảm việc quán triệt không chỉ dừng ở nhận thức mà phải chuyển hóa thành hành động cụ thể.

Hai là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, người chỉ huy, cơ quan chính trị các cấp trong thực hiện công tác dân vận.

Cấp ủy đảng cần xác định công tác dân vận là một nội dung quan trọng trong chương trình công tác thường xuyên, có kế hoạch, có phân công trách nhiệm rõ ràng, cụ thể. Người chỉ huy đơn vị phải trực tiếp quan tâm, chỉ đạo và gương mẫu thực hiện, coi kết quả công tác dân vận là một tiêu chí để đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ. Cơ quan chính trị các cấp cần làm tốt chức năng tham mưu, hướng dẫn, kiểm tra, tổng kết, nhân rộng những mô hình, điển hình tiên tiến, tạo chuyển biến thực sự trong nhận thức và hành động của cán bộ, chiến sĩ. Đồng thời,, cần đẩy mạnh phối hợp giữa các đơn vị của Quân khu với cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể các cấp trên địa bàn, tạo nên sức mạnh tổng hợp trong công tác dân vận, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ giữa chủ trương của Đảng với việc tổ chức thực hiện ở cơ sở.

Ba là, nội dung và hình thức tiến hành công tác dân vận cần được đổi mới mạnh mẽ, sát thực tiễn, linh hoạt và hiệu quả.

Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế và chuyển đổi số hiện nay, công tác dân vận không thể chỉ dừng ở các phương pháp truyền thống mà phải kết hợp các phương tiện truyền thông hiện đại. Các đơn vị có thể sử dụng mạng xã hội, trang thông tin điện tử, hệ thống truyền thanh nội bộ, video, hình ảnh để tuyên truyền, lan tỏa các hoạt động dân vận, những tấm gương người tốt, việc tốt, góp phần nâng cao hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ” trong lòng Nhân dân. Các hoạt động dân vận cần gắn liền với đời sống thiết thực của Nhân dân, như: tham gia xây dựng nông thôn mới, hỗ trợ phát triển kinh tế, giúp dân phòng, chống thiên tai, dịch bệnh, bảo vệ môi trường, bảo đảm an ninh trật tự, an toàn xã hội.

Cán bộ, chiến sĩ cần thực hiện “4 cùng”: cùng ăn, cùng ở, cùng làm, cùng nói tiếng dân tộc (nếu có), qua đó hiểu dân, gần dân, gắn bó với dân, cùng chia sẻ khó khăn và đồng hành với Nhân dân trong phát triển kinh tế – xã hội. Việc tổ chức hành quân dã ngoại kết hợp dân vận, khám chữa bệnh, cấp thuốc miễn phí, giúp dân khắc phục hậu quả thiên tai, tu sửa trường học, cầu, đường, nhà văn hóa… là những hình thức cụ thể, thiết thực, vừa giúp Nhân dân ổn định cuộc sống, vừa tăng cường mối quan hệ đoàn kết quân – dân.

Ngoài ra, cần chú trọng công tác dân vận trong lực lượng công nhân, thanh niên, phụ nữ, học sinh, sinh viên và các nhóm xã hội mới phát sinh trong quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa; tăng cường đối thoại, lắng nghe ý kiến của Nhân dân, kịp thời giải quyết những vấn đề bức xúc ngay từ cơ sở, không để nảy sinh điểm nóng.

Bốn là, coi trọng công tác bồi dưỡng, nâng cao năng lực, trình độ, kỹ năng dân vận cho đội ngũ cán bộ, chiến sĩ.

Cán bộ dân vận phải am hiểu lý luận chính trị, nắm vững chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, có kiến thức về xã hội, tâm lý, văn hóa, pháp luật, kỹ năng giao tiếp, tuyên truyền, vận động, thuyết phục quần chúng. Cần tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng chuyên đề về công tác dân vận, chú trọng phương pháp thực hành, xử lý tình huống thực tế, kết hợp huấn luyện chính trị với rèn luyện kỹ năng dân vận trong huấn luyện dã ngoại. Đồng thời,, phải xây dựng phong cách công tác dân vận của cán bộ, chiến sĩ quân đội gần gũi, giản dị, trung thực, nói đi đôi với làm, hết lòng vì Nhân dân. Mỗi cán bộ, đảng viên, chiến sĩ cần tự giác học tập, tu dưỡng, rèn luyện để trở thành tấm gương sáng trong quan hệ với Nhân dân, góp phần lan tỏa hình ảnh tốt đẹp của người chiến sĩ trong lòng dân.

Năm là, tiếp tục đẩy mạnh các phong trào thi đua “Dân vận khéo”, xây dựng “Đơn vị dân vận tốt”, gắn với học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

Các phong trào cần được cụ thể hóa bằng các tiêu chí, chỉ tiêu rõ ràng, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của từng đơn vị, từng địa bàn. Cần phát hiện, bồi dưỡng, biểu dương, nhân rộng các mô hình, điển hình tiên tiến, các tập thể, cá nhân có cách làm sáng tạo, hiệu quả trong dân vận, tạo thành phong trào sâu rộng trong toàn quân. Mỗi đơn vị phải coi kết quả công tác dân vận là một trong những thước đo phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực công tác của cán bộ, đảng viên, chiến sĩ. Song song với đó, cần tăng cường công tác kiểm tra, sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm, kịp thời điều chỉnh, bổ sung biện pháp, mô hình phù hợp với tình hình thực tế. Khi phong trào dân vận khéo được duy trì thường xuyên, liên tục, sẽ tạo ra sức lan tỏa mạnh mẽ, củng cố mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa quân với dân, giữa Đảng, Nhà nước và Nhân dân.

Việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào công tác dân vận trên địa bàn Quân khu 3 đòi hỏi sự kết hợp chặt chẽ giữa nhận thức và hành động, giữa lý luận và thực tiễn. Phải kiên trì quán triệt quan điểm “lấy dân làm gốc”, coi dân là trung tâm, là mục tiêu, là động lực của mọi hoạt động; đồng thời,, phải biết phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, của toàn dân, tạo nên sức mạnh đoàn kết quân – dân vững chắc. Chỉ khi nào Nhân dân thực sự tin yêu, gắn bó với quân đội, khi “thế trận lòng dân” được củng cố thì khi đó công tác quốc phòng, an ninh mới thực sự vững chắc, góp phần bảo vệ vững bền Tổ quốc trong mọi tình huống.

4. Kết luận

Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận luôn là ngọn đuốc soi đường, là kim chỉ nam hành động cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân. Trong bối cảnh mới, với yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ngày càng cao, việc vận dụng sáng tạo tư tưởng ấy để nâng cao chất lượng công tác dân vận trên địa bàn Quân khu 3 không chỉ là nhiệm vụ trước mắt mà còn là công việc thường xuyên, lâu dài, mang ý nghĩa chiến lược. Làm tốt công tác dân vận chính là củng cố niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và Quân đội; là xây dựng thế trận lòng dân vững chắc, tạo nền tảng của sức mạnh quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, bảo đảm để đất nước phát triển phồn vinh, hạnh phúc.

Chú thích:

1Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 5. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 501.

2, 3. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 6. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 234, 233 – 234.

Tài liệu tham khảo:

1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2021). Quyết định số 23-QĐ/TW ngày 30/7/2021 về việc ban hành Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị.

 2. Quân ủy Trung ương (2015). Nghị quyết số 49-NQ/QUTW ngày 26/01/2015 về tăng cường và đổi mới công tác dân vận của Quân đội trong tình hình mới.

3. Quân ủy Trung ương (2021). Quy chế số 718-QC/QUTW ngày 05/11/2021 công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam.

4. Biện pháp nâng cao chất lượng công tác dân vận ở đơn vị cơ sở trong quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay. https://www.quanlynhanuoc.vn/2024/08/08/bien-phap-nang-cao-chat-luong-cong-tac-dan-van-o-don-vi-co-so-trong-quan-doi-nhan-dan-viet-nam-hien-nay/