Từ tư tưởng Hồ Chí Minh đến thực tiễn phát huy giá trị đạo đức tôn giáo ở Việt Nam hiện nay

TS. Trần Thị Hằng
Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn

(Quanlynhanuoc.vn) – Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo bao gồm rất nhiều nội dung có giá trị, trong đó, có nội dung khai thác, sử dụng giá trị văn hóa, đạo đức tôn giáo. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, trong suốt tiến trình cách mạng, Đảng, Nhà nước luôn có đường lối, chính sách đúng đắn về tôn giáo; luôn quan tâm đến việc khai thác, phát huy giá trị tôn giáo trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Từ đó, trong thực tế đời sống xã hội, giá trị đạo đức các tôn giáo đã được phát huy trong nhiều khía cạnh, đóng góp thiết thực vào công cuộc đổi mới đất nước.

Từ khóa: Tư tưởng Hồ Chí Minh; đạo đức tôn giáo; phát huy giá trị tôn giáo; chính sách về tôn giáo; xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giá trị đạo đức của tôn giáo

Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo là bộ phận của tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề tôn giáo với những nội dung cơ bản, xuyên suốt là: tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng của Nhân dân; đoàn kết lương giáo và hòa hợp dân tộc; đề cao những điểm tương đồng và chấp nhận, tôn trọng những điểm khác biệt giữa tôn giáo với chủ nghĩa xã hội; phê phán mạnh mẽ việc lợi dụng tôn giáo để gây chia rẽ khối đoàn kết dân tộc, chống phá sự nghiệp cách mạng của Nhân dân; phát huy giá trị tốt đẹp của các tôn giáo.

Trong luận điểm phát huy giá trị tốt đẹp của các tôn giáo thì những giá trị đạo đức tôn giáo là nội dung trọng tâm được Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm, nhấn mạnh và chú trọng khai thác.  

Trong quan điểm của Hồ Chí Minh, tôn giáo là sản phẩm của con người, ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu của đời sống con người, tôn giáo là một phần của văn hóa. Người chỉ ra rằng, tất cả các tôn giáo lớn chân chính trên thế giới đều có điểm chung là hướng con người đến những giá trị tốt đẹp: chân – thiện – mỹ, tất cả đều hướng đến bình đẳng, tự do, bác ái, hướng đến cái thiện, loại trừ cái ác; tôn giáo cũng chính là sự phản ánh niềm tin, khát vọng, tự do và hạnh phúc của con người. Và, đó cũng chính là điểm chung trong giá trị đạo đức của các tôn giáo. Người từng nói: “Chúa Giê-su dạy: Đạo đức là bác ái. Phật Thích Ca dạy: Đạo đức là từ bi. Khổng Tử dạy: Đạo đức là nhân nghĩa”1.

Nhìn thấy những giá trị đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã tìm thấy “cơ sở”, “điểm tương đồng”, “mẫu số chung” cho sự đoàn kết tôn giáo, đoàn kết dân tộc ở Việt Nam. Bởi những giá trị đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo hiện diện trên đất nước Việt Nam đều không mâu thuẫn với lý tưởng, giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, mà còn “vun bồi” lẫn nhau để cùng hướng đến mục tiêu chung của dân tộc, lợi ích dân tộc gắn liền với lợi ích của đồng bào có đạo. Rất nhiều lần trong thư gửi đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Toàn thể đồng bào ta, không chia lương giáo, đoàn kết chặt chẽ, quyết lòng kháng chiến, để giữ gìn non sông Tổ quốc, mà cũng để giữ gìn quyền tôn giáo tự do”2.

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn bày tỏ sự ngưỡng mộ, kính trọng các vị sáng lập ra các tôn giáo, đặc biệt là tấm gương đạo đức của các vị đó. Trong thư gửi các vị linh mục và đồng bào Công giáo Việt Nam, ngày 15/12/1945, Người đã viết: “Cách một nghìn chín trăm bốn mươi nhăm năm trước, cũng ngày hôm nay, một vị thánh nhân là đức Chúa Giêsu ra đời. Suốt đời Ngài chỉ hy sinh phấn đấu cho tự do, cho dân chủ. Từ ngày Ngài giáng sinh đến nay đã gần 2.000 năm, nhưng tinh thần thân ái của Ngài chẳng những không phai nhạt mà toả ra khắp, thấm vào đã sâu”3.

Hay khi viết về đức Phật của Phật giáo, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng viết về tấm gương đạo đức vĩ đại của đức Phật với những đức tính cao thượng là đại từ, đại bi, cứu khổ, cứu nạn: “Đức Phật là đại từ, đại bi, cứu khổ cứu nạn, muốn cứu chúng sinh ra khỏi khổ nạn Người phải hy sinh tranh đấu, diệt lũ ác ma”4… Điểm chung trong đạo đức của các vị sáng lập các tôn giáo lớn chân chính là đức hy sinh vì hạnh phúc của xã hội loài người, như đức Giêsu cả đời hy sinh cho tự do, dân chủ, đức Phật cả đời hy sinh tranh đấu với cái xấu, cái ác nhằm đem lại sự “giải thoát”, hạnh phúc cho con người,…

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đạo đức tín đồ các tôn giáo ở Việt Nam không tách rời đạo đức người con của Tổ quốc, đạo và đời chưa bao giờ mâu thuẫn. Người tín đồ chân chính là người phụng đạo gắn liền với phụng sự Tổ quốc. Người đã tìm thấy điểm chung trong những giá trị đạo đức chân chính của tín đồ các tôn giáo và đạo đức truyền thống Việt Nam. Chính vì thế, những lời động viên, khích lệ của Chủ tịch Hồ Chí Minh với đồng bào có đạo, với Nhân dân đã tạo nên sức mạnh tinh thần to lớn như kim chỉ nam cho lối sống, hoạt động của đồng bào. Trong thư gửi đồng bào Công giáo nhân dịp lễ Nôen năm 1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã động viên đồng bào: “Phúc âm dạy chúng ta rằng: Chúa Cơ Đốc sinh ra làm gương mọi giống phúc đức, như: hy sinh vì nước vì dân, làm gương lao động, công bằng ruộng đất, tin thờ Chúa bằng tinh thần. Chúng ta kháng chiến cứu nước, thi đua tăng gia sản xuất và tiết kiệm, cải cách ruộng đất làm cho người cày có ruộng, tín ngưỡng tự do. Như thế là những việc Chính phủ và Nhân dân ta làm, đều hợp với tinh thần Phúc âm. Cho nên tôi chúc đồng bào công giáo làm trọn chính sách của Chính phủ cũng là làm tròn tinh thần của Chúa Cơ đốc”5.

Ca ngợi những giá trị đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo chân chính, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khéo léo khích lệ, động viên đồng bào tín đồ các tôn giáo ở Việt Nam ra sức thi đua kháng chiến cứu quốc, xây dựng đất nước. Chính sự động viên đó đã tạo nên sức mạnh tinh thần to lớn, tạo nên khối đại đoàn kết toàn dân, tạo lực lượng to lớn cho cách mạng Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh ghi nhận những đóng góp to lớn của đồng bào tín đồ các tôn giáo đã hy sinh, tích cực đóng góp cho các lĩnh vực của kháng chiến và công cuộc xây dựng đất nước. Ghi nhận sự hy sinh, hăng hái của tăng ni, tín đồ Phật giáo với cách mạng, Người viết: “Nhân đây, chúng ta tỏ lòng đoàn kết với đồng bào Phật giáo ở miền Nam đang hăng hái tham gia cuộc đấu tranh yêu nước và chống đế quốc Mỹ xâm lăng. Đồng bào Phật giáo cả nước, từ Bắc đến Nam, đều cố gắng thực hiện lời Phật dạy là: “lợi lạc quần sinh, vô ngã vị tha” (đem lại lợi ích và vui sướng cho mọi người. Quên mình vì mọi người”6.

2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước về phát huy giá trị đạo đức tôn giáo

Việt Nam là quốc gia đa tôn giáo, đời sống tín ngưỡng tôn giáo rất đa dạng và phức tạp. Chính vì vậy, ngay từ khi mới ra đời và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn có quan điểm rõ ràng về vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo.

Quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước là sự kế thừa, vận dụng quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề tôn giáo. Chính sách cơ bản đối với tôn giáo ở Việt Nam là tôn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo và đoàn kết tôn giáo. Để đáp ứng yêu cầu quá trình đổi mới, tiếp tục phát huy lòng yêu nước và tạo điều kiện phát triển mọi tiềm năng, trí tuệ của đồng bào có đạo trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, từ năm 1986 đến nay, Đảng và Nhà nước đã có nhiều văn bản thể hiện chủ trương, chính sách về tôn giáo.

Ngày 16/10/1990, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 24-NQ/TW về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới, ghi dấu về sự đổi mới đường lối, chính sách tín ngưỡng, tôn giáo. Trong đó có 3 quan điểm quan trọng nhất, đó là: Tôn giáo là một vấn đề còn tồn tại lâu dài; tín ngưỡng tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân; đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới.

Ngày 02/7/1998, Bộ chính trị ra Chỉ thị số 37-NQ/TW về công tác tôn giáo trong tình hình mới, trong đó có nguyên tắc: “Những hoạt động tôn giáo ích nước, lợi dân, phù hợp với nguyện vọng, lợi ích chính đáng, hợp pháp của tín đồ được bảo đảm. Những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo được tôn trọng và khuyến khích phát huy”7. Chỉ thị đã không chỉ thừa nhận các giá trị đạo đức của các tôn giáo mà còn khẳng định các giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo sẽ được khuyến khích phát huy để phục vụ cho công cuộc xây dựng đất nước.

Ngày 12/3/2003, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Nghị quyết số 25-NQ/TW về công tác tôn giáo, trong đó nêu ra 5 quan điểm chính sách đối với tôn giáo. Trong đó, xác định rõ hơn vai trò, sự hiện diện của tôn giáo song hành cùng dân tộc, đặc biệt vai trò của tôn giáo với đời sống tinh thần của con người; quan điểm về gìn giữ các giá trị tích cực, các giá trị đạo đức của tôn giáo cũng tiếp tục được nhấn mạnh.

Năm 2016, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo ra đời, đánh dấu bước ngoặt trong quá trình hoàn thiện pháp luật về vấn đề tôn giáo ở Việt Nam. Điều 3 Luật, ghi rõ: “Nhà nước tôn trọng, bảo vệ giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tín ngưỡng, tôn giáo, truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh người có công với đất nước, với cộng đồng đáp ứng nhu cầu tinh thần của Nhân dân”. Như vậy, các giá trị đạo đức tốt đẹp của tôn giáo là một trong những nội dung được pháp luật tôn trọng và bảo vệ.

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng (2021), xác định: “…Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và các nguồn lực của các tôn giáo cho sự nghiệp phát triển đất nước…”8. Đây là sự khẳng định về nguồn lực của tôn giáo đối với đời sống xã hội trong một văn kiện quan trọng, định hướng đường lối của cách mạng Việt Nam trong khoảng thời gian 5 năm. Như vậy, tiếp tục hoàn thiện quan điểm, chủ trương về tôn giáo, Đảng không những xác định sự đóng góp của tôn giáo trên các lĩnh vực văn hoá, đạo đức, xây dựng đời sống tinh thần của Nhân dân mà còn mở rộng ra là sự khẳng định về nguồn lực của xã hội.

Từ sự phân tích trên cho thấy, ngay từ những ngày đầu thành lập, Đảng và Nhà nước đã rất quan tâm đến vấn đề tôn giáo. Sự đổi mới về nhận thức của Đảng, chính sách của Nhà nước về tôn giáo đã đáp ứng nhu cầu thực tiễn của đời sống xã hội Việt Nam trong bối cảnh mới. Nhờ đó, diện mạo đời sống tôn giáo ở Việt Nam cũng có nhiều chuyển biến tích cực, đồng bào tín đồ các tôn giáo hăng hái thi đua đóng góp vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt, chủ trương thừa nhận, tôn trọng và phát huy những giá trị văn hóa đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo đã tạo điều kiện thuận lợi cho các giá trị ngày càng khẳng định và phát huy trong xây dựng và phát triển đất nước giai đoạn hiện nay.

3. Thực tiễn phát huy giá trị đạo đức tôn giáo ở Việt Nam

Từ tư tưởng Hồ Chí Minh đến quan điểm, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước về tôn giáo, các giá trị đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo có nhiều điều kiện phát huy, thể hiện ở các khía cạnh:

Thứ nhất, về đường hướng hành đạo tiến bộ của các tổ chức tôn giáo.

Các tổ chức tôn giáo ở Việt Nam luôn hướng đến mục tiêu chung là “tốt đời, đẹp đạo”, hướng đến phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân, đem lại đời sống ấm no, hạnh phúc cho Nhân dân. Đạo không tách khỏi đời, lợi ích tôn giáo không đi ngược lại với lợi ích của Nhân dân, của quốc gia, dân tộc. Giáo hội Phật giáo Việt Nam lựa chọn đường hướng “đạo pháp – dân tộc – chủ nghĩa xã hội”. Mục đích của Giáo hội Phật giáo Việt Nam là hoằng dương Phật pháp, phát triển Giáo hội ở trong nước và nước ngoài, tham gia xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, phục vụ dân tộc, góp phần xây dựng hòa bình, an lạc cho thế giới. Giáo hội Công giáo Việt Nam lựa chọn đường hướng “Sống phúc âm giữa lòng dân tộc để phục vụ hạnh phúc cho đồng bào”. Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc) lựa chọn đường hướng “Kính Chúa và yêu nước”; Tổng hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam) hoạt động theo đường hướng “Sống phúc âm, phụng sự Thiên Chúa, phục vụ Tổ quốc và dân tộc”. Các Hội thánh Cao Đài trong cả nước cũng thể hiện tinh thần phục vụ Tổ quốc, dân tộc qua các đường hướng: “nước vinh đạo sáng”.

Thứ hai, các giá trị đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo góp phần gìn giữ các giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp.

Bất kỳ tôn giáo nào cũng xây dựng cho mình một hệ thống các giá trị, chuẩn mực đạo đức để điều chỉnh hành vi của tín đồ, hướng họ đến những giá trị chuẩn mực chung. Các chuẩn mực đạo đức đó được thể hiện trong giáo lý, giáo luật của các tôn giáo. Và, những tôn giáo chân chính đều hướng đến những giá trị đạo đức chung của nhân loại, hướng đến “chân – thiện – mỹ”, nhằm hướng con người đến những giá trị tốt đẹp: Phật giáo khuyên răn con người sống từ bi, hỷ xả, vô ngã, vị tha,… với mong muốn tột cùng là giải thoát con người khỏi những khổ đau, khỏi sự vô minh, làm sáng bừng trí huệ, sáng tỏ, khơi dậy “tính Phật” trong mỗi chúng sinh, để ai ai cũng được hạnh phúc tròn đầy. Những chuẩn mực đạo đức của Công giáo được gói gọn trong 10 điều răn của Chúa, hướng con người đến hai giá trị cơ bản “kính Chúa, yêu người” giúp tín đồ luôn ý thức được trách nhiệm của mình trong đời sống đạo và đời. Phật giáo Hòa Hảo – tôn giáo nội sinh của Việt Nam cũng xây dựng một hệ thống chuẩn mực đạo đức với tôn chỉ “học Phật, tu nhân”. Điều đặc biệt, các giáo lý, giáo luật, quy chuẩn đạo đức của các tôn giáo thu hút sự học tập, thực hành, tu dưỡng của các tín đồ một cách tự nguyện, vì vậy tác dụng điều chỉnh hành vi rất lớn.

Hiện nay, trong nhiều nỗi lo đạo đức, vấn đề xã hội đang trượt dốc bởi chữ tâm, chữ đức, lòng nhân ái, tình thương, tấm lòng bao dung, nhân hậu đang có phần yếu đi trước sức mạnh của đồng tiền, của tính tham lam vị kỷ, của những động cơ làm điều xấu và gây tội ác cho xã hội. Thái độ dửng dưng trước những con người có hoàn cảnh khổ đau, sự thiếu vắng niềm chia sẻ, sự cảm thông sâu sắc… là thái độ vô tình, nhẫn tâm, do thói ích kỷ cực đoan gây nên. Đó là bệnh lãnh cảm xã hội, quay lưng với nỗi đau đồng loại, chỉ biết nghĩ đến bản thân của riêng mình.

Theo thống kê của Ban Tôn giáo Chính phủ, tính đến ngày 31/12/2021, Việt Nam có trên 26,5 triệu tín đồ tôn giáo (chiếm khoảng 27% dân số cả nước), hơn 54 nghìn chức sắc, 135 nghìn chức việc9. Chính vì thế, số người chịu ảnh hưởng, thực hành theo giáo lý, giáo luật, quy chuẩn đạo đức các tôn giáo rất lớn. Các tín đồ của các tôn giáo, ngoài việc thực hiện theo đúng pháp luật thì còn sống và thực hiện theo đúng những quy chuẩn đạo đức của tín ngưỡng, tôn giáo của mình. Ở khía cạnh này, tôn giáo thể hiện rõ nét “chức năng điều chỉnh”, một trong những chức năng quan trọng của tôn giáo.

Vấn đề trung tâm của Phật giáo là “diệt khổ” để hướng đến giải thoát, chứng được Niết bàn. Muốn đạt được điều đó, con người không chỉ cần có niềm tin tôn giáo, mà còn cần cả sự phấn đấu nỗ lực của bản thân bằng cách thực hành một đời sống đạo đức. Từ đó, Phật giáo đã đưa ra những chuẩn mực đạo đức rất cụ thể để con người tu tập, phấn đấu. Trong đó, phổ biến nhất là Ngũ giới (không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu) và Thập thiện (ba điều thuộc về thân: không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm; ba điều thuộc về ý thức: không tham lam, không thù hận, không si mê; bốn điều thuộc về khẩu: không nói dối, không nói thêu dệt, không nói hai chiều, không ác khẩu). Những chuẩn mực này, nếu lược bỏ màu sắc mang tính chất tôn giáo, sẽ là những nguyên tắc ứng xử phù hợp giữa người với người, rất có ích cho việc duy trì đạo đức xã hội.

Trong đạo đức Kitô giáo, giới răn yêu thương được xem là nền tảng. Con người, trước hết, phải yêu Thiên Chúa rồi yêu thương đến bản thân mình. Đây là cơ sở để thực hiện tình yêu tha nhân. Kinh thánh khuyên con người phải yêu chồng vợ, cha mẹ, con cái, anh em, làng xóm, cộng đồng… Những điều mà Kinh thánh răn cấm cũng rất cụ thể: không giết người, không lấy của người, không nói sai sự thật, không ham muốn chồng hoặc vợ của người, không làm chứng giả để hại người… Ngoài ý nghĩa đức tin vào cái siêu nhiên (Thượng đế, Chúa), những chuẩn mực, quy phạm đạo đức ấy là những quy phạm đạo đức rất cụ thể hướng con người đến điều thiện, tránh xa điều ác.

Những giáo lý, giáo luật tôn giáo đã hình thành cộng đồng tín đồ tôn giáo với tinh thần sống có lý tưởng, trách nhiệm, hướng thiện và đặc biệt giàu đức hy sinh vì cộng đồng. Từ khối cộng đồng này, thông qua các mối quan hệ xã hội, đạo đức tôn giáo có tác động, lan tỏa ra xã hội. Sự tác động của tôn giáo với đạo đức xã hội ở Việt Nam thể hiện rất rõ nét.

Tinh thần yêu nước: “Bất kỳ tín ngưỡng tôn giáo nào vào Việt Nam hay sinh ra ở Việt Nam, trước sau gì cũng bị khúc xạ qua Tổ quốc luận của Việt Nam mà thay đổi”10 và “Tinh thần nhập thế của các tôn giáo đều được hướng dẫn bởi chủ nghĩa yêu nước Việt Nam”, ví dụ như tinh thần “Nghiêng hai vai gánh nặng non sông, Vớt trăm họ lầm than bể khổ”11của Phật giáo Hoà Hảo; Phật giáo thì lựa chọn con đường hành đạo “Đạo pháp – Dân tộc – Chủ nghĩa xã hội; Công giáo với phương châm “Kính Chúa yêu nước”… Khi tổ quốc lâm nguy, tín đồ các tín ngưỡng, tôn giáo cùng nhau ra sức cùng nhân dân đứng lên cứu nước, hình ảnh các nhà sư “cởi áo cà sa, khoác chiến bào” đã nói lên điều đó…

Tinh thần cộng đồng, đoàn kết: Trải qua quá trình tích tụ của lịch sử trở thành giá trị truyền thống của người Việt, các tín ngưỡng, tôn giáo đã góp phần không nhỏ vào việc cố kết thêm tính cộng đồng, tinh thần đoàn kết đó. Lễ hội của các tín ngưỡng, tôn giáo chính là môi trường thuận lợi để củng cố, nuôi dưỡng, phát triển tinh thần đó.

Thứ ba, giá trị đạo đức tôn giáo đã được cụ thể hóa bằng những hoạt động cụ thể, đóng góp trực tiếp vào đời sống xã hội ở Việt Nam.

Với chuẩn mực đạo đức tốt đẹp, hướng thiện, cộng đồng tín đồ các tôn giáo ở Việt Nam hiện nay đang tích cực cụ thể hóa, đưa giáo lý tôn giáo mình vào phục vụ đời sống xã hội. Biểu hiện cụ thể là những hoạt động từ thiện xã hội, an sinh xã hội,… Tham gia vào các hoạt động giáo dục, y tế, từ thiện nhân đạo để giúp đỡ những con người có hoàn cảnh đặc biệt chính là nhằm thực hiện chức năng đối với xã hội của tôn giáo. Để thực hiện các chức năng đối với xã hội, các tôn giáo đều có những quy định và tổ chức ra bộ máy, phân công nhân sự tổ chức thực hiện. Tuy nhiên, mỗi tôn giáo thực hiện chức năng đó theo cách thức, mức độ khác nhau trên cơ sở quy định của pháp luật.

Hiện có hàng trăm cơ sở chăm sóc người già cô đơn, không nơi nương tựa, trẻ em mồ côi, cơ nhỡ, người tàn tật, bệnh nhân phong, tâm thần, người bị HIV/AIDS; hàng trăm sơ sở giáo dục mầm non, lớp học tình thương, cơ sở khám chữa bệnh nhân đạo do các cơ sở tôn giáo tổ chức. Có những nữ tu Công giáo trọn cả cuộc đời gắn với các trại phong cùi, cô nhi viện, sống cuộc đời tận hiến, phục vụ tha nhân không một sự tính toán, đòi hỏi cho bản thân. Mỗi khi đồng bào gặp hoạn nạn, thiên tai, các tổ chức, cá nhân tôn giáo luôn giang rộng vòng tay nhân ái, giúp đỡ, với tinh thần lá lánh đùm lá rách, giúp nhau qua cơn hoạn nạn.

5. Kết luận

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định công tác tôn giáo là yếu tố quan trọng trong công cuộc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, và trong sự nghiệp cách mạng ở Việt Nam. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề tôn giáo để phát huy nguồn lực tôn giáo, trong đó có các giá trị đạo đức của tôn giáo là việc làm cần thiết trong mọi giai đoạn. Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, đất nước đang bước vào kỷ nguyên vươn mình phát triển, cần phát huy mọi nguồn lực cho sự nghiệp phát triển đất nước.

 Chú thích:
1. Hồ Chí Minh Toàn tập (1995). Tập 6. H. NXB Chính trị Quốc gia, tr. 225.
2, 3. Hồ Chí Minh Toàn tập (1995). Tập 4. H. NXB Chính trị Quốc gia, tr. 490, 121.
4. Hồ Chí Minh Toàn tập (1995). Tập 5. H. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 197.
5. Hồ Chí Minh Toàn tập (1995). Tập 7. H. NXB Chính trị Quốc gia, tr. 197
6. Hồ Chí Minh Toàn tập (1995). Tập 11. H. NXB Chính trị Quốc gia, tr. 315.
7. Viện Nghiên cứu Tôn giáo và tín ngưỡng (2008).  Lý luận về tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam. H. NXB Tôn giáo, tr. 326.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr.171.
9. Ban Tôn giáo Chính phủ (2022). Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam. H. NXB Tôn giáo.
10. Phan Ngọc (1998). Bản sắc văn hóa Việt Nam. H. NXB Văn hóa Thông tin, tr. 47.
11. Ban trị sự Trung ương Phật giáo Hòa Hảo (2012). Thi văn giáo lý Phật giáo Hòa Hảo của Đức Huỳnh giáo chủ. H. NXB Tôn giáo, tr. 168.
Tài liệu tham khảo:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998). Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khóa VIII. H. NXB Chính trị quốc gia.
2. Đảng cộng sản Việt Nam (2006). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. H. NXB Chính trị quốc gia
3. Phan Ngọc (1998). Bản sắc văn hóa Việt Nam. H. NXB Văn hóa Thông tin.
4. Lê Hữu Nghĩa, Nguyễn Đức Lữ (2003). Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và công tác tôn giáo. H. NXB Tôn giáo.