TS. Hoàng Diệu Thảo
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
(Quanlynhanuoc.vn) – Trong hệ thống phong cách Hồ Chí Minh, phong cách làm việc quần chúng là một trong những nội dung đặc sắc nhất, là phong cách làm việc vì dân. Việc nghiên cứu, học tập và vận dụng phong cách làm việc quần chúng Hồ Chí Minh vào đổi mới lề lối làm việc, phương thức lãnh đạo và quản lý có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, giúp xây dựng đội ngũ cán bộ “vừa hồng, vừa chuyên”, có bản lĩnh, sáng tạo và trách nhiệm, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
Từ khóa: Chủ tịch Hồ Chí Minh; phong cách làm việc quần chúng; phong cách vì dân.
1. Quan niệm về phong cách làm việc quần chúng Hồ Chí Minh
Phong cách làm việc Hồ Chí Minh là hệ thống những phương thức, cách thức mang tính đặc trưng trong hoạt động cách mạng, trong lãnh đạo, quản lý của Người. Phong cách làm việc Hồ Chí Minh kết tinh những giá trị tư tưởng bền vững, giàu sức thuyết phục và lan tỏa, được hình thành không từ quyền lực mà từ sự giản dị, gần gũi, khoa học và nhân văn trong xử lý các mối quan hệ xã hội. Phong cách ấy vừa bảo đảm tính nguyên tắc, vừa có lý, có tình, vừa thấm đẫm tinh thần nhân ái, khoan dung, vì con người.
Nghiên cứu một cách sâu sắc phong cách làm việc Hồ Chí Minh giúp nhận thức đầy đủ và toàn diện hơn tầm vóc vĩ đại của Người với tư cách là một nhà tư tưởng lớn, nhà chiến lược thiên tài, nhà hoạt động thực tiễn xuất sắc và tấm gương mẫu mực trong hành động cách mạng. Học tập và làm theo phong cách làm việc Hồ Chí Minh giúp mỗi cán bộ, đảng viên không ngừng tự tu dưỡng, rèn luyện, hoàn thiện bản thân, xây dựng phẩm chất đạo đức và lối sống lành mạnh, bản lĩnh chính trị vững vàng, đời sống riêng tư trong sáng, phong cách làm việc khoa học, giản dị và hiệu quả.
Trong hệ thống phong cách làm việc Hồ Chí Minh có phong cách làm việc quần chúng; phong cách làm việc tập thể – dân chủ; phong cách làm việc khoa học; phong cách làm việc thiết thực, cụ thể; phong cách làm việc nêu gương.
Phong cách làm việc quần chúng Hồ Chí Minh là hệ thống những quan điểm, ứng xử và phương pháp làm việc nhất quán lấy nhân dân là mục tiêu tối thượng của mọi hoạt động cách mạng. Phong cách ấy được biểu hiện ở sự tôn trọng, tin tưởng và gắn bó mật thiết với Nhân dân, luôn sâu sát Nhân dân, lắng nghe, thấu hiểu nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của Nhân dân, mọi chủ trương, đường lối đều được hình thành từ thực tiễn quần chúng và quay trở lại phục vụ lợi ích của quần chúng theo nguyên tắc “từ trong quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng”. Đồng thời, phong cách làm việc quần chúng Hồ Chí Minh đề cao tính nêu gương, nói đi đôi với làm, thực hành dân chủ và kiên quyết đấu tranh chống quan liêu, hình thức, xa rời Nhân dân nhằm xây dựng và củng cố “mối quan hệ gắn bó máu thịt” giữa Đảng, Nhà nước và Nhân dân.
Trong hệ thống phong cách làm việc Hồ Chí Minh, phong cách làm việc quần chúng là một trong những nội dung đặc sắc nhất, là phong cách vì dân1.
2. Nguồn gốc phong cách làm việc quần chúng Hồ Chí Minh
Xuất phát từ triết lý “nước lấy dân làm gốc”, “chở thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân”, “khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc”…, từ tư tưởng trọng dân, thân dân trong nền văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi Nhân dân là gốc rễ, là nguồn sức mạnh vô tận của cách mạng. Bên cạnh đó, bắt nguồn từ sự vận dụng sáng tạo và phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử, Người coi cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, Nhân dân là lực lượng sản xuất của xã hội và cũng là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng.
Hơn nữa, trong thực tiễn, thấy rõ vai trò của Nhân dân, xuất phát từ niềm tin sâu sắc vào Nhân dân, tin vào khả năng sáng tạo của Nhân dân, luôn xem họ là người chủ thực sự nên Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm khẳng định: “Lực lượng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động là rất to lớn, là vô cùng vô tận”2; tất cả những thắng lợi to lớn của cách mạng không phải là công lao riêng của Đảng, “Đó là công lao chung của toàn thể đồng bào ta trong cả nước. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, chứ không phải là sự nghiệp của cá nhân anh hùng nào”3.
Trong bối cảnh Đảng cầm quyền, để thực hiện quan điểm quần chúng, phát huy sức mạnh Nhân dân, Người căn dặn phải ra sức thực hành dân chủ, phải học hỏi quần chúng, nghiêm túc thực hiện tự phê bình và phê bình trước quần chúng, kiên quyết chống tệ quan liêu, chống tư tưởng “làm quan cách mạng”. Tức là, mỗi cán bộ đảng viên phải: “xứng đáng là người lãnh đạo, người đày tớ thật trung thành của Nhân dân”4, “tuyệt đối trung thành với lợi ích của giai cấp, của Nhân dân”5.
Xuất phát từ tình yêu thương đối với con người, Người luôn gần gũi, sẵn sàng đồng cam cộng khổ với Nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên thể hiện tình cảm, sự quan tâm của mình đối với các tầng lớp nhân dân qua những bức thư gửi cho mọi người.
Hiện nay, chưa có thống kê cụ thể Người đã viết bao nhiêu bức thư và viết cho những đối tượng nào nhưng hầu như ngành nghề nào và giai tầng nào cũng đã từng được Người gửi thư. Thậm chí, có những ngành nghề được Người gửi thư động viên đến 2-3 lần. Sau này, rất nhiều ngành nghề, tầng lớp nhân dân trong xã hội đã lấy ngày Người viết thư cho mình làm ngày truyền thống. Nghệ An là địa phương được Người gửi nhiều thư nhất. Từ khi ra đi tìm đường cứu nước cho đến khi qua đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ có 2 lần về thăm quê nhưng Người đã viết hơn 30 lá thư gửi Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân tỉnh Nghệ An, ngoài ra, còn có những bài báo, bài nói chuyện và điện tín. Với đối tượng nào, Người cũng có cách viết phù hợp làm cho ai đọc thư của Người cũng cảm nhận được tình cảm chân thành, gần gũi, sự quan tâm, chia sẻ, động viên của Người dành cho họ, cũng tự thấy được vai trò, giá trị của họ trong xã hội, từ đó không ngừng phấn đấu, đóng góp cho sự nghiệp giải phóng và phát triển đất nước.
Dù đã ở những cương vị lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước nhưng cuối mỗi bức thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh, dù gửi cho đối tượng nào, cho cá nhân hay tập thể, Người cũng thường xuyên đề tên: “Hồ Chí Minh” hoặc “Bác Hồ” mà không hề có chức danh, chức vụ gì. Điều đó càng nói lên sự giản dị, gần gũi và vĩ đại ở Người. Người không muốn đứng ở trên cao nói chuyện mà Người chỉ muốn đứng cạnh Nhân dân, hòa vào Nhân dân. Người không dùng uy quyền để ra lệnh, Người dùng tình cảm, sự chân thành để chia sẻ và thấu hiểu. Người không muốn đồng bào xem mình là lãnh tụ xa cách mà muốn mình là một người bạn, một người đồng chí và một người thân của mỗi người, mỗi gia đình Việt Nam.
3. Nội dung phong cách làm việc quần chúng Hồ Chí Minh
(1) Trong công tác cũng như trong đời sống, luôn yêu thương Nhân dân, luôn phấn đấu vì tự do, ấm no, hạnh phúc của Nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh có phong cách làm việc quần chúng, tự nhiên, chân thành do Người luôn sống gần gũi, gắn bó với Nhân dân, đồng cảm với những nỗi khổ của Nhân dân. Dù xuất thân trong gia đình nhà Nho có ông ngoại là thầy giáo dạy chữ Hán trong làng, cha đỗ Phó bảng, 24 năm giữ cương vị cao nhất trong Đảng và Nhà nước nhưng Người không bao giờ đứng trên Nhân dân, xa cách Nhân dân. Người luôn yêu thương, kính trọng, tin tưởng Nhân dân.
Tình yêu thương của Người không giới hạn ở một đối tượng cụ thể, một tầng lớp, thành phần nào trong xã hội. Từ các cụ phụ lão, các cháu thanh thiếu niên, nhi đồng, phụ nữ đến các chiến sĩ ngoài mặt trận, các đoàn dân công… tất cả đều nhận được tình cảm ấm áp và sự quan tâm chu đáo của Người. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại vô vàn những câu chuyện cảm động về tình cảm, cách ứng xử chân thành, giản dị đối với Nhân dân, đặc biệt với những người thiệt thòi, yếu thế trong xã hội.
Trải qua bao hy sinh, mất mát, tranh đấu cho độc lập, tự do của Tổ quốc, Người vẫn tiếp tục nhấn mạnh: “Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”6. Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, mục tiêu chiến đấu trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Người, “ham muốn” đến tột bậc của Người là mang lại ấm no, hạnh phúc cho Nhân dân. Vì vậy, khi bắt tay vào thực hiện công cuộc kiến thiết đất nước, Người yêu cầu phải làm ngay:
“1. Làm cho dân có ăn.
2. Làm cho dân có mặc.
3. Làm cho dân có chỗ ở.
4. Làm cho dân có học hành”7.
Và, Người căn dặn:
“Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm.
Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh.
Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta”8.
(2) Sâu sát, gần dân, thấu hiểu nhân dân, mọi chủ trương, chính sách phải xuất phát từ tâm tư, nguyện vọng chính đáng của Nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên quan tâm, nhắc nhở các cán bộ, đảng viên cần chú ý tính thiết thực trong lãnh đạo phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân. Có nghĩa là, khi xây dựng đường lối, chủ trương mới phải xuất phát từ thực tiễn cách mạng sinh động của Nhân dân, phải tham khảo những cách làm hay, những ý kiến đóng góp tâm huyết của Nhân dân để chủ trương, đường lối của Đảng ngày càng sát hợp với thực tế, đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn đang đặt ra. Vì thế, Người nhấn mạnh: “Phải dùng cách “từ trong quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng”9.
Chủ tịch Hồ Chí Minh thường sắp xếp công việc xuống cơ sở, đến với người dân, lắng nghe, trò chuyện và tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của quần chúng nhân dân. Mọi vùng miền, mọi người dân đều mong Người đến thăm, mong được một lần đón tiếp Người.
Tuy chưa có số liệu nào thống kê chính thức về việc trong suốt cuộc đời, Người có bao nhiêu lần đi thăm, gặp gỡ các tầng lớp nhân dân, nhưng lần nào Người đến với dân cũng gần gũi, chân tình, thật lòng, không “quan cách”, ồn ào hay phô trương hình thức, mà xóa bỏ mọi sự cách biệt về cấp bậc, chức vụ. Về thăm và động viên bà con nông dân ở nhiều hợp tác xã nông nghiệp, Người sẵn sàng xắn quần lội xuống ruộng thử máy cày cải tiến, đạp guồng nước cùng dân, cầm dây gầu tát nước chống hạn với các xã viên, dạy bà con cách trồng giống lúa, hoa màu làm sao đạt năng suất cao.
Đến với công nhân các nhà máy, xí nghiệp, hầm mỏ; cán bộ, chiến sĩ các lực lượng vũ trang; về thăm các trường học, từ mẫu giáo đến đại học; ra hải đảo, lên miền núi…, Người chủ động xóa bỏ mọi nghi thức, không khoa trương hay tiền hô hậu ủng mà bình lặng như đến thăm người thân. Người luôn chủ động đến với Nhân dân, tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của Nhân dân, từ đó đi vào lòng dân bằng trái tim nhân hậu, bằng ứng xử chân tình, gần gũi, cho nên cả dân tộc tin yêu gọi Người là “Bác Hồ”.
(3) Kiên quyết chống bệnh quan liêu, hình thức, xa rời quần chúng nhân dân.
Trong điều kiện một đảng cầm quyền, Người đã cảnh báo: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”10. Bên cạnh đó, là người luôn yêu mến, kính trọng Nhân dân nên Hồ Chí Minh luôn bày tỏ Người ghét thói quan liêu, cửa quyền, lên mặt “làm quan cách mạng” với Nhân dân, các căn bệnh làm tổn hại đến quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với Nhân dân.
Trong nhiều bài nói, bài viết, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần phê bình và cảnh báo các biểu hiện của bệnh quan liêu ở nhiều cán bộ đảng viên, như: hiện tượng tổ chức, phân công làm việc lộn xộn, không đúng người, đúng việc, làm việc máy móc, thụ động, ỷ lại vào cấp trên, cậy quyền, cậy thế ngông nghênh với dân, kiêu ngạo, coi khinh nhân dân… Người nhiều lần nhấn mạnh, phải làm sao để mỗi cán bộ, đảng viên giữ gìn đạo đức cách mạng, không bị hư hỏng, tha hóa và rơi vào chủ nghĩa cá nhân. Muốn vậy phải lắng nghe và tiếp thu phê bình, sẵn sàng tiếp thu ý kiến của nhân dân để sửa chữa khuyết điểm.
Thực hiện phong cách làm việc quần chúng Hồ Chí Minh, mỗi cán bộ, đảng viên phải “óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm”, không đứng trên cao chỉ đạo suông. Thậm chí, như Người từng chỉ ra: “Chẳng những phải lãnh đạo quần chúng mà lại phải học hỏi quần chúng”11. Và Người chỉ dẫn cụ thể: “Lãnh đạo đúng nghĩa là thế nào? Cố nhiên, không phải cứ ngồi trong phòng giấy mà viết kế hoạch, ra mệnh lệnh. Lãnh đạo đúng nghĩa là: (1) Phải quyết định mọi vấn đề một cách cho đúng. Mà muốn thế thì nhất định phải so sánh kinh nghiệm của dân chúng. Vì dân chúng chính là những người chịu đựng cái kết quả của sự lãnh đạo của ta. (2) Phải tổ chức sự thi hành cho đúng. Mà muốn vậy, không có dân chúng giúp sức thì không xong. (3) Phải tổ chức sự kiểm soát, mà muốn kiểm soát đúng thì cũng phải có quần chúng giúp mới được”12. Như vậy, nếu lãnh đạo quan liêu, hình thức, xa rời quần chúng thì chắc chắn không thể là cách “lãnh đạo đúng” được.
Ngoài ra, muốn thực hiện được phong cách làm việc quần chúng Hồ Chí Minh, mỗi cán bộ, đảng viên phải chú trọng phương pháp nêu gương trong công việc và cả trong lối sống, nói đi đôi với làm để quần chúng noi theo. Vì: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn Nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”13.
4. Giá trị phong cách làm việc quần chúng Hồ Chí Minh
Một là, phong cách làm việc quần chúng Hồ Chí Minh góp phần củng cố niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, củng cố mối “quan hệ máu thịt” giữa Đảng với Nhân dân.
Phong cách làm việc quần chúng Hồ Chí Minh không chỉ thể hiện phẩm chất đạo đức cá nhân mà còn là minh chứng sinh động cho một thế giới quan khoa học, cách mạng và nhân văn trong cách nhìn nhận về con người, về Nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”14. Quán triệt tư tưởng “lấy con người làm trung tâm”, Người luôn kết hợp nhuần nhuyễn giữa tư tưởng và hành động, giữa lý tưởng cách mạng với chuẩn mực đời thường, được cụ thể hóa qua phong cách làm việc giản dị, gần gũi, gắn bó, tôn trọng Nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ yêu cầu cán bộ, đảng viên phải “làm cho dân tin, dân phục, dân yêu” mà bản thân Người luôn thực hiện làm gương gắn bó mật thiết với dân bằng những hành động giản dị và thiết thực. Chính sự nhất quán giữa lời nói và việc làm ấy đã làm cho tư tưởng cách mạng của Hồ Chí Minh trở nên thuyết phục, lan tỏa, khơi dậy niềm tin và tinh thần đấu tranh trong các tầng lớp nhân dân. Người luôn sống giản dị, đồng cảm và chia sẻ với những khó khăn của Nhân dân, coi việc phục vụ Nhân dân là mục đích cao nhất của cuộc đời mình. Người thường dùng những lời nói chân thành, mộc mạc, không hoa mỹ, hạn chế tối đa những từ ngữ phức tạp, lối ứng xử tự nhiên, không màu mè, không thể hiện mình là lãnh tụ, đứng trên người khác, sự khiêm tốn, biết mình biết người,… đã tạo nên sức hấp dẫn đặc biệt của phong cách làm việc quần chúng Hồ Chí Minh trong lòng Nhân dân Việt Nam, là một trong những “chất keo” gắn kết, phát huy sức mạnh đoàn kết dân tộc, phát huy và thắt chặt “mối quan hệ máu thịt” giữa Đảng, Nhà nước với Nhân dân.
Hai là, phong cách làm việc quần chúng Hồ Chí Minh góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ “vừa hồng, vừa chuyên”, có bản lĩnh, sáng tạo và trách nhiệm.
Phong cách làm việc quần chúng Hồ Chí Minh có vai trò quan trọng trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ “vừa hồng, vừa chuyên”, bảo đảm sự thống nhất hài hòa giữa phẩm chất đạo đức cách mạng và năng lực chuyên môn, giữa bản lĩnh chính trị vững vàng với tinh thần đổi mới, sáng tạo và ý thức trách nhiệm trong thực thi công vụ. Thông qua việc lấy Nhân dân làm trung tâm, tôn trọng và phát huy vai trò của quần chúng, phong cách làm việc quần chúng Hồ Chí Minh góp phần hình thành đội ngũ cán bộ có thái độ làm việc tận tụy, sâu sát thực tiễn, có khả năng gắn kết lý luận với thực tiễn và đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp phát triển đất nước.
Phong cách làm việc quần chúng Hồ Chí Minh đồng thời là sự kết tinh sinh động của đạo đức cách mạng, thể hiện lòng trung thành tuyệt đối với Tổ quốc, với Đảng và Nhân dân, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, nhất quán đặt lợi ích quốc gia, dân tộc và lợi ích của Nhân dân lên trên lợi ích cá nhân. Đó là phong cách của lối sống trong sạch, liêm chính, không bị chi phối bởi những cám dỗ vật chất, sẵn sàng cống hiến trí tuệ, công sức và chấp nhận hy sinh vì sự nghiệp chung.
Việc học tập và vận dụng phong cách làm việc quần chúng Hồ Chí Minh có ý nghĩa thiết thực đối với mỗi cán bộ, đảng viên trong quá trình tu dưỡng, rèn luyện và hoàn thiện nhân cách. Đối với đội ngũ lãnh đạo, quản lý và người đứng đầu, việc không ngừng học tập, thực hành và nêu gương về phong cách làm việc quần chúng còn là yếu tố quan trọng nhằm củng cố khối đoàn kết nội bộ, lan tỏa các giá trị tích cực, khơi dậy động lực sáng tạo và phát huy dân chủ trong tổ chức, cơ quan, đơn vị.
Ba là, thực hiện theo phong cách làm việc quần chúng Hồ Chí Minh là giải pháp hữu hiệu để ngăn chặn sự suy thoái trong nội bộ Đảng, phát huy sức mạnh nhân dân, góp phần thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới.
Việc quán triệt và thực hiện phong cách làm việc quần chúng Hồ Chí Minh có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, có thể xem là một trong những giải pháp căn bản và lâu dài nhằm ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng quan liêu, xa dân, xa rời quan điểm quần chúng trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Cùng với việc thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân giám sát, dân kiểm tra, dân thụ hưởng” và việc củng cố mối quan hệ giữa “Đảng lãnh đạo – Nhà nước quản lý – Nhân dân làm chủ”, phong cách làm việc quần chúng Hồ Chí Minh góp phần tạo nền tảng vững chắc cho việc huy động, phát huy sức mạnh to lớn của Nhân dân trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
5. Kết luận
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi xa hơn nửa thế kỷ, song tư tưởng, đạo đức và phong cách của Người, đặc biệt là phong cách làm việc quần chúng vẫn giữ nguyên giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc. Những giá trị đó không chỉ mang tính thời sự trong việc hiện thực hóa mục tiêu xây dựng đất nước “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, phồn vinh, hạnh phúc” mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc hoàn thiện hệ chuẩn mực về phong cách ứng xử, phong cách làm việc của đội ngũ cán bộ, đảng viên và Nhân dân. Vì vậy, thực hiện theo phong cách làm việc quần chúng Hồ Chí Minh cần tiếp tục được xem là phương pháp góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh, bền vững đất nước trong kỷ nguyên mới.
Chú thích:
1. Phạm Ngọc Anh (2015). Phong cách làm việc Hồ Chí Minh – Giá trị lý luận và thực tiễn. H. NXB Công an nhân dân, tr. 103.
2. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 11. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 609.
3, 5. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 12. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 672, 416.
4, 10. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 15. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 612, 672.
6, 7, 8. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 4. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 175, 175, 65.
9, 11, 12. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 5. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 331, 325, 325.
13, 14. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 6. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 616, 234.



