Phạm Đăng Khánh
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng
(Quanlynhanuoc.vn) – Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy sức mạnh tinh thần trong củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc là nền tảng lý luận quan trọng, góp phần tạo nên sức mạnh vô song của dân tộc Việt Nam trong mọi thời kỳ. Bài viết phân tích giá trị tư tưởng đó; đồng thời, chỉ ra những định hướng vận dụng phù hợp với yêu cầu củng cố quốc phòng hiện nay nhằm khơi dậy ý chí tự cường, sức mạnh đại đoàn kết và khát vọng phát triển của toàn dân tộc.
Từ khóa: Tư tưởng Hồ Chí Minh; sức mạnh tinh thần; quốc phòng toàn dân; bảo vệ Tổ quốc; đại đoàn kết dân tộc.
1. Đặt vấn đề
Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy sức mạnh tinh thần trong củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc khẳng định vai trò quyết định của ý chí, lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết và niềm tin vào chính nghĩa đối với sự nghiệp bảo vệ đất nước. Đây là giá trị xuyên suốt trong di sản tư tưởng của Người, được hình thành từ truyền thống dựng nước, giữ nước của dân tộc và được soi sáng bởi chủ nghĩa Mác – Lênin. Trong bối cảnh tình hình thế giới biến động nhanh, các thách thức an ninh truyền thống và phi truyền thống đan xen, chiến tranh thông tin, chiến tranh mạng ngày càng phức tạp, sức mạnh tinh thần tiếp tục là nguồn lực nội sinh quan trọng bảo đảm cho sự ổn định quốc gia. Việc nghiên cứu và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay không chỉ có ý nghĩa lý luận mà còn mang giá trị thực tiễn sâu sắc, góp phần xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
2. Vai trò và mục đích phát huy sức mạnh tinh thần trong củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc
Sức mạnh tinh thần luôn giữ vị trí quyết định trong toàn bộ tiến trình dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Trong truyền thống quân sự nhân loại, nhiều nhà kinh điển đã khẳng định vai trò đặc biệt của nhân tố tinh thần trong chiến tranh. Lênin nhấn mạnh: “Trong mọi cuộc chiến tranh, rốt cuộc thắng lợi đều tùy thuộc vào tinh thần của quần chúng đang đổ máu trên chiến trường. Lòng tin vào cuộc chiến tranh chính nghĩa, sự giác ngộ rằng cần phải hy sinh đời mình cho hạnh phúc của những người anh em là yếu tố nâng cao tinh thần của binh sĩ và làm cho họ chịu đựng được những khó khăn chưa từng thấy”1. Ý kiến sâu sắc này đặt cơ sở lý luận cho việc nhìn nhận nhân tố tinh thần như một dạng “sức mạnh đặc biệt”, có khả năng chi phối, dẫn dắt và chuyển hóa nguồn lực vật chất.
Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển tư tưởng đó, khẳng định rõ ràng vị trí trung tâm của nhân tố tinh thần trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Ngay trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Người khẳng định: “ta dùng sức mạnh tinh thần mà đánh thắng sức mạnh vật chất của địch”2. Các luận điểm cho thấy, sức mạnh tinh thần không chỉ là động lực mà còn là nhân tố mang tính quyết định đối với thắng lợi của cách mạng.
Sức mạnh tinh thần là nguồn nội lực tạo nên bản lĩnh, ý chí chiến đấu, niềm tin vào chính nghĩa và khát vọng độc lập tự do của dân tộc. Tinh thần yêu nước nồng nàn, ý chí quật cường, sự đoàn kết bền chặt của Nhân dân chính là điểm tựa cốt lõi tạo nên sức mạnh quốc phòng của đất nước. Trong mọi hoàn cảnh lịch sử, khi niềm tin được khơi dậy, khi lòng dân đồng thuận và đoàn kết, thì mọi khó khăn, thách thức đều có thể vượt qua. Do đó, phát huy sức mạnh tinh thần trước hết là bồi đắp lòng tin, củng cố ý chí, nâng cao bản lĩnh chính trị và tinh thần trách nhiệm của toàn xã hội đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, mục đích cao nhất của việc phát huy sức mạnh tinh thần là khơi dậy và quy tụ ý chí, niềm tin và khát vọng độc lập, tự do của toàn dân tộc, từ đó, tạo nên sức mạnh tổng hợp để bảo vệ Tổ quốc. Người chỉ rõ: “Động viên tinh thần là phải tập trung hết thảy lực lượng tinh thần, ý chí, tư tưởng của từng cá nhân và của toàn quốc dân đều hướng về một chiều để cùng đi tới một mục đích kháng chiến”3.
Theo Người, sức mạnh tinh thần kết tinh trong lòng yêu nước, lòng tin vào chính nghĩa và ý chí quyết chiến, quyết thắng. Mục đích phát huy sức mạnh tinh thần không chỉ là cổ vũ tinh thần chiến đấu, mà quan trọng hơn là tạo sự thống nhất ý chí và hành động trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, hình thành nên “bức tường đồng” của tinh thần đoàn kết dân tộc. Người nêu rõ: “Toàn dân Việt Nam chỉ có một lòng: quyết không làm nô lệ; chỉ có một chí: quyết không chịu mất nước; chỉ có một mục đích: quyết kháng chiến để tranh thủ thống nhất và độc lập cho Tổ quốc”4.
Như vậy, phát huy sức mạnh tinh thần vừa là yêu cầu chiến lược, vừa là mục tiêu xuyên suốt nhằm tạo ra nguồn lực tinh thần vô địch, bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong mọi tình huống.
3. Nội dung phát huy sức mạnh tinh thần trong củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, phát huy sức mạnh tinh thần là một hệ thống nội dung toàn diện, gắn kết từ xây dựng niềm tin, lý tưởng, đạo đức đến khơi dậy trách nhiệm, đoàn kết và huy động sức mạnh Nhân dân. Mỗi nội dung đều hướng tới mục tiêu tăng cường nội lực tinh thần của dân tộc, tạo nền tảng vững chắc cho quốc phòng toàn dân và chiến tranh Nhân dân.
Thứ nhất, xây dựng niềm tin vững chắc vào đường lối cách mạng, vào sự lãnh đạo của Đảng và vào chính nghĩa của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Niềm tin là điểm quy tụ mọi nguồn lực tinh thần. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh: “Không quân đội nào, không khí giới nào có thể đánh ngã được tinh thần hy sinh của toàn thể một dân tộc”5. Vì vậy, nội dung quan trọng nhất trong phát huy sức mạnh tinh thần là củng cố niềm tin của Nhân dân vào chủ trương đúng đắn của Đảng, vào thắng lợi của con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Niềm tin ấy phải được nuôi dưỡng bằng giáo dục lý luận chính trị, thông tin chính xác, minh bạch và gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Thứ hai, giáo dục lòng yêu nước, truyền thống dân tộc và ý thức bảo vệ Tổ quốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”6. Đây là cơ sở để khẳng định, giáo dục truyền thống chính là con đường bồi đắp lòng tự hào, ý thức chủ quyền và tinh thần sẵn sàng chiến đấu trong mọi tầng lớp nhân dân. Lòng yêu nước không phải khái niệm trừu tượng, được hình thành từ sự hiểu biết về lịch sử dân tộc, từ nhận thức về trách nhiệm đối với tương lai đất nước và từ niềm tin vào sự trường tồn của Tổ quốc. Do đó, việc phát huy sức mạnh tinh thần phải gắn liền với giáo dục lịch sử, giáo dục quốc phòng – an ninh, lan tỏa gương hy sinh, dũng cảm của các thế hệ đi trước và khơi dậy khát vọng cống hiến trong thế hệ trẻ.
Thứ ba, bồi dưỡng đạo đức cách mạng, bản lĩnh và lối sống trong sạch, kiên cường cho cán bộ, đảng viên và Nhân dân. Đạo đức là “cái gốc” làm nên phẩm chất và sức mạnh tinh thần của người chiến sĩ. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Tuy khí giới ta còn kém, kinh nghiệm ta còn ít, nhưng lòng kiên quyết, chí hy sinh của tướng sĩ ta đã lập những chiến công oanh liệt, vẻ vang có thể nói là kinh trời động đất”7. Đạo đức cách mạng, tinh thần hy sinh, kiên cường chính là động lực tạo nên quyết tâm và sức bền trong bảo vệ Tổ quốc. Nội dung này đòi hỏi xây dựng lối sống giản dị, trung thực, nghĩa tình, kỷ luật; đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, biểu hiện thực dụng, vô cảm; đồng thời coi trọng nêu gương trong đội ngũ cán bộ, bởi sức mạnh tinh thần của quần chúng chỉ bền vững khi được dẫn dắt bởi tấm gương trong sạch, mẫu mực của người lãnh đạo.
Thứ tư, khơi dậy tinh thần tự lực, tự cường và ý thức trách nhiệm của mỗi công dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh trong lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến: “Dù đau khổ đến đâu mặc lòng, ai cũng phải trổ hết tài năng, làm hết nhiệm vụ…”8. Đây là sự kết tinh của tinh thần tự lực, tự cường – yếu tố cốt lõi giúp dân tộc ta vượt qua muôn vàn gian khó trong lịch sử. Trong quốc phòng hiện nay, tinh thần tự lực, tự cường thể hiện ở việc chủ động học tập, rèn luyện; làm chủ vũ khí trang bị; làm chủ công nghệ mới; sẵn sàng hy sinh vì chủ quyền, an ninh Tổ quốc. Ý thức trách nhiệm của mỗi người dân, mỗi người lính dù ở vị trí nào đều tạo thành “sợi dây liên kết vô hình” giúp Nhân dân và lực lượng vũ trang đồng lòng trước thử thách.
Thứ năm, phát huy sức mạnh Nhân dân, xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đây là nội dung xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Người viết: “Sự đồng tâm của đồng bào ta đúc thành một bức tường đồng xung quanh Tổ quốc”9. Đó là hình ảnh cô đọng nhất về sức mạnh tinh thần của Nhân dân khi được tổ chức và phát huy đúng hướng. Nội dung phát huy sức mạnh tinh thần, phải gắn liền với công tác dân vận, xây dựng niềm tin xã hội, giữ vững đoàn kết giữa Đảng – Nhà nước – Nhân dân – Lực lượng vũ trang; chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân; củng cố khối đại đoàn kết, từ đó, tạo ra “thế trận lòng dân” bền vững – nền tảng quyết định của quốc phòng toàn dân.
4. Phương thức phát huy sức mạnh tinh thần trong củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, phương thức phát huy sức mạnh tinh thần là hệ thống các biện pháp tổng hợp nhằm chuyển hóa tinh thần yêu nước, ý chí quyết thắng và sức mạnh đoàn kết của toàn dân tộc thành lực lượng thực tế trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân và bảo vệ Tổ quốc. Những phương thức này vừa mang tính chiến lược lâu dài, vừa có ý nghĩa trực tiếp trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ quốc phòng – an ninh.
Một là, phát huy sức mạnh tinh thần phải được thực hiện thông qua tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng và củng cố hệ thống chính trị vững mạnh từ cơ sở. Hồ Chí Minh yêu cầu: “Phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong quân đội, phải tăng cường giáo dục chính trị để nâng cao giác ngộ xã hội chủ nghĩa cho toàn quân”10. Do vậy, phương thức hàng đầu để phát huy sức mạnh tinh thần là củng cố nền tảng chính trị – tư tưởng, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội và sự nghiệp quốc phòng. Khi vai trò lãnh đạo được tăng cường, sức mạnh tinh thần của cán bộ, chiến sĩ và Nhân dân mới được định hướng đúng đắn, thống nhất.
Hai là, phát huy truyền thống đoàn kết dân tộc, kết hợp đoàn kết trong nước với đoàn kết quốc tế, tạo nên thế trận lòng dân vững chắc. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định tính quyết định của đoàn kết: “Với sức mạnh vô địch là lực lượng đoàn kết của dân tộc ta… kháng chiến năm tới sẽ tiến bộ nhiều hơn và thắng lợi to hơn”11. Điều này cho thấy, đoàn kết không chỉ là tình cảm, mà là một phương thức tổ chức sức mạnh, giúp kết nối ý chí, hành động của toàn dân tộc và mở rộng hậu thuẫn quốc tế cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Phương thức này hiện nay có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong xây dựng thế trận lòng dân, tạo sự đồng thuận xã hội và phát huy vai trò của Nhân dân trong nền quốc phòng toàn dân.
Ba là, đẩy mạnh và tổ chức hiệu quả các phong trào thi đua yêu nước. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, thi đua là phương thức mạnh mẽ để “động viên tinh thần và vật chất” của Nhân dân vào nhiệm vụ kháng chiến và xây dựng đất nước. Người nhấn mạnh: “Chúng ta càng phải động viên toàn thể lực lượng tinh thần và vật chất để đẩy tới công việc kháng chiến, và để xây đắp nền tảng cho công việc kháng chiến. Chúng ta động viên bằng cách Thi đua ái quốc. Mỗi một người công dân Việt Nam đều phải hăng hái tham gia… Bằng cách thi đua, chúng ta sẽ đập tan mọi âm mưu quân sự và chính trị của bọn thực dân và hoàn thành thống nhất và độc lập thật sự”12. Thi đua không chỉ nhằm nâng cao năng suất lao động hay chất lượng công tác mà còn hướng tới cổ vũ tinh thần tự giác, tận tụy, sáng tạo, tạo nên khí thế và động lực tinh thần mạnh mẽ trong toàn xã hội.
Bốn là, nêu gương người tốt, việc tốt, xem đó là công cụ giáo dục chính trị – tư tưởng sinh động và hiệu quả nhất. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nêu gương là một phương thức đặc biệt quan trọng để xây dựng đạo đức cách mạng và khơi dậy tinh thần phấn đấu của Nhân dân. Người chỉ rõ: “Cán bộ phải học tập, phê bình và tự phê bình nghiêm chỉnh để cho mình tiến bộ và làm gương cho chiến sĩ”13. Triết lý nêu gương ở đây trở thành phương thức lan tỏa tinh thần tích cực, tạo hiệu ứng thuyết phục mạnh hơn lời nói, góp phần nâng cao ý thức trách nhiệm và tinh thần cống hiến của cán bộ, đảng viên, chiến sĩ và Nhân dân.
Năm là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, văn hóa, văn nghệ, báo chí để cổ vũ, nâng cao tinh thần yêu nước, ý chí chiến đấu. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ vai trò của lực lượng văn hóa trong sự nghiệp kháng chiến: Văn nghệ sĩ sáng tác để động viên tinh thần dân tộc và để tuyên truyền kháng chiến ra nước ngoài14. Điều này chứng minh văn hóa – văn nghệ không phải hoạt động phụ trợ mà là phương thức quan trọng để bồi dưỡng tinh thần, khơi dậy lòng yêu nước, củng cố bản lĩnh chính trị và đưa hình ảnh chính nghĩa của Việt Nam đến bạn bè quốc tế. Trong bối cảnh hiện nay, phương thức này càng có ý nghĩa lớn trong đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, nhất là trên không gian mạng.
5. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy sức mạnh tinh thần trong củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc hiện nay
Trong bối cảnh đất nước đang bước vào giai đoạn phát triển mới, với cả thời cơ và thách thức đan xen, việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy sức mạnh tinh thần trở thành yêu cầu chiến lược, có ý nghĩa quyết định đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Đảng ta nhiều lần khẳng định, sức mạnh tinh thần chính là yếu tố “quy tụ, khơi dậy và chuyển hóa” truyền thống yêu nước, ý chí tự cường và khát vọng vươn lên của dân tộc thành sức mạnh tổng hợp quốc gia. Vì vậy, những định hướng cần được triển khai toàn diện, đồng bộ, phù hợp với yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Thứ nhất, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quốc phòng – an ninh và lực lượng vũ trang. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Tiếp tục giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng; sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với quốc phòng, an ninh và lực lượng vũ trang”15. Đây là điều kiện then chốt bảo đảm sự thống nhất chính trị – tư tưởng, tạo niềm tin và ý chí cho toàn quân, toàn dân. Nhất là trong Quân đội, yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ vững vàng, gương mẫu, có phẩm chất đạo đức cách mạng, có tinh thần trách nhiệm cao được thể hiện rõ trong Thư Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ XII gửi cán bộ, chiến sĩ toàn quân: “Mỗi cán bộ, đảng viên trong Quân đội phải tuyệt đối trung thành, kiên định mục tiêu, lý tưởng của Đảng; luôn đặt lợi ích của Tổ quốc, của Nhân dân lên trên hết; nêu cao ý chí, bản lĩnh, giữ vững kỷ luật, đoàn kết, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao”16.
Thứ hai, đẩy mạnh và đổi mới mạnh mẽ công tác giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống, nhất là đối với thế hệ trẻ. Chỉ thị số 42-CT/TW ngày 24/3/2015 của Ban Bí thư khẳng định phải “tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa cho thế hệ trẻ giai đoạn 2015 – 2030”17 nhằm hình thành lớp công dân có bản lĩnh, có trí tuệ, có trách nhiệm chính trị. Trong bối cảnh các thông tin sai trái, độc hại lan nhanh trên không gian mạng, nhiệm vụ này càng trở nên cấp bách. Việc đổi mới giáo dục lý tưởng cần gắn với thực tiễn sinh động, nhiều hình thức, nhiều không gian, sử dụng hiệu quả nền tảng số và phát huy vai trò của gia đình, nhà trường, xã hội trong bồi dưỡng niềm tin, lý tưởng và ý chí phấn đấu cho thế hệ trẻ.
Thứ ba, phát huy mạnh mẽ sức mạnh yêu nước, tinh thần tự cường và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Động lực và nguồn lực phát triển quan trọng của đất nước là khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”18. Tư tưởng ấy cần được cụ thể hóa thành hành động trong từng tổ chức, từng địa phương, từng lực lượng. Phát huy sức mạnh tinh thần phải bắt đầu từ việc bồi đắp lòng tự hào dân tộc, trách nhiệm công dân, ý thức bảo vệ độc lập chủ quyền trong mỗi người Việt Nam, từ cán bộ, đảng viên đến chiến sĩ, công nhân, nông dân, học sinh, sinh viên.
Thứ tư, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, coi đó là nền tảng tinh thần bền vững của quốc phòng toàn dân. Theo Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 09/6/2014 của Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, “văn hóa phải trở thành sức mạnh nội sinh quan trọng của đất nước”19, việc khơi dậy các giá trị văn hóa, đạo đức, lối sống tốt đẹp; tôn vinh người tốt, việc tốt cần được phát huy, lan tỏa; đồng thời, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước; phát huy vai trò của văn học nghệ thuật, báo chí – truyền thông trong xây dựng niềm tin, khí chất và tinh thần Việt Nam. Văn hóa là “lá chắn mềm”, giúp tăng cường khả năng đề kháng xã hội trước các tác động tiêu cực của thời đại số; đồng thời, cổ vũ quyết tâm và ý chí trong xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.
\Thứ năm, củng cố sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và xây dựng thế trận lòng dân vững chắc. Đại hội XIII xác định xây dựng khối đại đoàn kết là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu, là “nguồn sức mạnh và động lực to lớn” cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Do đó, trong vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, phải quan tâm hơn nữa đến công tác dân vận; bảo đảm công bằng xã hội; chăm lo chính sách với Nhân dân, gia đình có công, đồng bào dân tộc thiểu số, tôn giáo; nâng cao chất lượng đời sống vật chất, tinh thần cho Nhân dân. Khi lòng dân thuận, thế trận quốc phòng – an ninh mới bền vững; khi Nhân dân tin Đảng, đất nước mới có sức mạnh tinh thần vô song.
Thứ sáu, chủ động và kiên quyết đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch. Nghị quyết số 35-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Bộ Chính trị đã xác định rõ nhiệm vụ này mang ý nghĩa sống còn đối với Đảng và chế độ. Trong vận dụng hiện nay, cần tăng cường năng lực đấu tranh của các cơ quan báo chí, truyền thông, lực lượng chuyên trách; phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội trong bảo vệ không gian mạng lành mạnh; xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh, có tư duy phản biện, nhạy bén về chính trị; kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống”, giữa tuyên truyền tích cực và đấu tranh trực diện.
6. Kết luận
Phát huy sức mạnh tinh thần theo tư tưởng Hồ Chí Minh là yêu cầu chiến lược, tạo nền tảng để củng cố quốc phòng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong mọi tình huống. Trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, việc khơi dậy ý chí tự cường, tăng cường đoàn kết, xây dựng niềm tin, bồi dưỡng đạo đức và huy động sức mạnh Nhân dân càng có ý nghĩa quyết định. Vận dụng sáng tạo tư tưởng của Người sẽ góp phần tạo nên sức mạnh tổng hợp, kết hợp chặt chẽ trí tuệ, bản lĩnh và khát vọng dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa..
Chú thích:
1. Lênin toàn tập (2005). Tập 41. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 147.
2, 11, 14. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 6. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 509, 513, 59.
3, 5, 8. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 4. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 97, 89, 97.
4, 7, 9, 12. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 5. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 179, 179, 179, 602.
6. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 7. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 38.
10. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 11. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 365.
13. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 10. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 549.
15, 18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 67 – 68, 110.
16. Đảng bộ Quân đội (2025). Thư của Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ XII. Báo Quân đội nhân dân, số 23159, ngày 03/10/2025, tr. 1, 2.
17. Ban Bí thư (2015). Chỉ thị số 42-CT/TW ngày 24/3/2015 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa cho thế hệ trẻ giai đoạn 2015 – 2030.
19. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2014). Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 09/6/2014 về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.



