Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chống chủ nghĩa cá nhân và bệnh cục bộ địa phương nhằm xây dựng hệ thống chính trị cấp cơ sở trong sạch, vững mạnh

PGS.TS. Nguyễn Thái Sơn
Trường Đại học Vinh
Nguyễn Phương Dũng
Học viên K32 chuyên ngành Chính trị học, Trường Đại học Vinh

(Quanlynhanuoc.vn) – Tư tưởng Hồ Chí Minh về chống chủ nghĩa cá nhân và bệnh cục bộ địa phương là di sản quý báu. Trong công cuộc cải cách, đẩy mạnh xây dựng hệ thống chính quyền địa phương hai cấp như hiện nay cần vận dụng tư tưởng này nhằm xây dựng hệ thống chính trị cấp cơ sở trong sạch, vững mạnh. Cụ thể, cần vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trên bốn lĩnh vực then chốt: đạo đứccông tác cán bộ, quản lý nhà nước và xây dựng Đảng. Việc vận dụng thành công tư tưởng này là chìa khóa để củng cố niềm tin của Nhân dân và tạo sự đồng thuận xã hội.

Từ khóa: Tư tưởng Hồ Chí Minh; chủ nghĩa cá nhân; cục bộ địa phương; hệ thống chính trị.

1. Khái quát chung

Hiện nay, đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình một cách mạnh mẽ. Để đạt tới sự phát triển nhanh chóng, bền vững, một trong những nhiệm vụ cấp thiết đặt ra trước mắt là phải xây dựng được hệ thống chính trị cấp cơ sở trong sạch, vững mạnh, đủ sức đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Ngay từ những ngày đầu xây dựng chính quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định mục tiêu tối thượng của bộ máy nhà nước là: “Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”1. Do đó, việc vận dụng những tư tưởng quý báu của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào công cuộc cách mạng trong giai đoạn hiện nay lại càng có tính cấp thiết.

Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là người tìm đường, vạch lối mà còn là người đặt nền móng vững chắc cho công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng, về cần, kiệm, liêm, chính là di sản vô giá. Người từng nhấn mạnh vai trò quyết định của cán bộ: “Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém”2. Vì vậy, tư tưởng của Người trở thành kim chỉ nam cho mọi hoạt động của cán bộ, đảng viên.

Trong thực tiễn hiện nay, song hành với những thành tựu to lớn của đất nước, các căn bệnh nội tại, như: chủ nghĩa cá nhân và tư tưởng cục bộ địa phương vẫn tồn tại với tính chất dai dẳng và phức tạp. Người đã cảnh báo chủ nghĩa cá nhân là “kẻ địch bên trong”, là “vi trùng rất độc” làm tha hóa đạo đức, dẫn đến tham nhũng, lãng phí, quan liêu và làm xói mòn nghiêm trọng lòng tin của Nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Người chỉ rõ: “Chủ nghĩa cá nhân là việc gì cũng lo cho lợi ích riêng của mình, không lo cho lợi ích chung của tập thể. “Miễn là mình béo, mặc thiên hạ gầy”3. Đi liền với chủ nghĩa cá nhân chính là căn bệnh cục bộ địa phương. Bệnh cục bộ, với biểu hiện óc hẹp hòi, chỉ chăm lo lợi ích riêng của địa phương mà quên đi lợi ích chung của quốc gia, là mầm mống gây ra sự chia rẽ, mất đoàn kết trong nội bộ và cản trở sự phát triển đồng bộ của đất nước.

Trong bối cảnh đẩy mạnh phòng chống tham nhũng, tiêu cực, thực hiện tinh giản, sáp nhập các cấp hành chính, thực hiện chính quyền địa phương hai cấp hiện nay, cuộc đấu tranh chống lại hai căn bệnh này càng trở nên cấp thiết. Đặc biệt, hệ thống chính trị cấp cơ sở (cấp xã, phường, thị trấn) là nơi trực tiếp tiếp xúc, giải quyết công việc hằng ngày của người dân. Sự trong sạch, vững mạnh của cấp cơ sở quyết định hiệu lực, hiệu quả của chính quyền và niềm tin của quần chúng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng ví von rất hình tượng về tầm quan trọng của cấp cơ sở: “Gốc có vững cây mới bền, xây lầu thắng lợi trên nền Nhân dân”4. Do đó, việc nghiên cứu, vận dụng một cách triệt để, sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về chống chủ nghĩa cá nhân và bệnh cục bộ địa phương vào xây dựng hệ thống chính trị cấp cơ sở là nhiệm vụ có ý nghĩa then chốt.

2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chống chủ nghĩa cá nhân và bệnh cục bộ địa phương

Tư tưởng Hồ Chí Minh về chống chủ nghĩa cá nhân và cục bộ địa phương là một bộ phận quan trọng, xuyên suốt trong hệ thống quan điểm của Người về đạo đức cách mạng và xây dựng Đảng. Người coi đây là những căn bệnh nội sinh, nguy hiểm, có khả năng làm tha hóa đội ngũ cán bộ, đảng viên và làm suy yếu uy tín của Đảng và của hệ thống chính trị nói chung.

Trước hết, nói về chủ nghĩa cá nhân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phân tích và chỉ ra bản chất của chủ nghĩa cá nhân một cách sâu sắc, coi nó là căn nguyên của mọi thói hư tật xấu. Người nhấn mạnh: “Chủ nghĩa cá nhân là một thứ vi trùng rất độc; do nó mà sinh ra các bệnh quan liêu, mệnh lệnh, bè phái, chủ quan, tham ô, lãng phí. Nó trói buộc, bịt mắt những kẻ mắc bệnh, những người này suốt đời chỉ nghĩ đến mình mà không muốn, không dám nghĩ đến Đảng, đến Nhân dân”5. Rõ ràng bản chất của chủ nghĩa cá nhân có tính đối lập với đạo đức cách mạng. Chủ nghĩa cá nhân đối lập hoàn toàn với chí công vô tư, với lợi ích chung của tập thể, của đất nước. Đạo đức cách mạng là hy sinh cái riêng, đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc lên trên hết, còn chủ nghĩa cá nhân chỉ biết đến lợi ích riêng của bản thân.

Như vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ chủ nghĩa cá nhân chính là kẻ địch bên trong của sự nghiệp cách mạng. Người khẳng định chủ nghĩa cá nhân không phải là kẻ địch từ bên ngoài mà là “kẻ địch hung ác” ẩn nấp bên trong mỗi con người, có khả năng bào mòn ý chí và biến cán bộ, đảng viên thành những người tầm thường, ích kỷ. Người cảnh tỉnh: “Chủ nghĩa cá nhân là một kẻ địch hung ác của chủ nghĩa xã hội. Người cách mạng phải tiêu diệt nó”6.

Trong đời sống thực tiễn hằng ngày, chủ nghĩa cá nhân có những biểu hiện và tác hại hết sức rõ ràng. Chủ nghĩa cá nhân len lỏi vào mọi lĩnh vực của đời sống và được Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra với những biểu hiện cụ thể, dễ nhận biết. Đó là các biểu hiện, như: tham lam, vụ lợi, lo vun vén cá nhân, gia đình, lợi dụng chức quyền để chiếm đoạt tài sản công hoặc đòi hỏi đặc quyền, đặc lợi. Bên cạnh đó là sự quan liêu, xa rời quần chúng, coi thường Nhân dân, không lắng nghe ý kiến nhân dân, không đi sâu sát cơ sở, giải quyết công việc theo cảm tính cá nhân, gây khó khăn cho dân.

Những người chạy theo chủ nghĩa cá nhân cũng thường xuyên khoe khoang, kiêu ngạo, tự cao tự đại, coi mình là hơn hết, không muốn học hỏi người khác và không chịu tự phê bình và phê bình một cách thành khẩn, tự giác. Họ thường sợ khó, sợ khổ, tránh né nhiệm vụ khó khăn, gian khổ, chỉ tìm nơi nhàn hạ, dễ kiếm lợi.

Tác hại lớn nhất của chủ nghĩa cá nhân là phá hoại đoàn kết nội bộ, làm suy giảm uy tín và sức chiến đấu của Đảng, cuối cùng là làm nhân dân mất lòng tin vào sự lãnh đạo của Đảng và chính quyền. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân là một cuộc chiến đấu lâu dài, gian khổ và phải được tiến hành đồng bộ, trong đó chú trọng phòng ngừa, giáo dục. Để đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, mọi cán bộ, đảng viên phải thường xuyên học tập, rèn luyện đạo đức cách mạng, thực hành cần, kiệm, liêm, chính. Phải luôn đặt mình trong tập thể, tự giác tu dưỡng để cho chủ nghĩa cá nhân không có chỗ ẩn nấp.

Đồng thời, với phòng ngừa, giáo dục, cần phải tiến hành trị bệnh, tức là thực hành tự phê bình và phê bình, coi tự phê bình và phê bình là “thang thuốc tốt nhất” để tẩy rửa chủ nghĩa cá nhân. Việc phê bình phải chân thành, nghiêm túc, có tính xây dựng, nhằm giúp đỡ đồng chí cùng tiến bộ. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”7.

Đi liền với chủ nghĩa cá nhân là căn bệnh cục bộ địa phương. Xét về bản chất và biểu hiện, bệnh cục bộ địa phương là một dạng của chủ nghĩa cá nhân mở rộng, nó chính là sự chuyển biến từ lợi ích cá nhân sang lợi ích của một nhóm nhỏ, một đơn vị hoặc một địa phương. Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc (tháng 10/1947) Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ biểu hiện của bệnh cục bộ địa phương: “Trước khi làm, không xin chỉ thị. Khi làm rồi, không gửi báo cáo. Nhiều địa phương mắc phải cái bệnh ấy. Họ không hiểu rằng thế là – vô kỷ luật, vô chính phủ, địa phương chủ nghĩa…”8.

Bệnh cục bộ địa phương biểu hiện rõ nét ở sự hẹp hòi, chỉ biết có mình, có gia đình mình mà không biết đến nước, đến dân. Người từng phê phán gay gắt thói dùng người dựa trên cục bộ: “Ham dùng người bà con, anh em quen biết, bầu bạn, cho họ là chắc chắn hơn người ngoài. Ham dùng những kẻ khéo nịnh hót mình, chán ghét những người chính trực. Ham dùng những người tính tình hợp với mình mà tránh những người tính tình không hợp với mình”9. Đó là một thứ bệnh rất nguy hiểm. Bệnh cục bộ địa phương biểu hiện rõ nét ở tình trạng chia rẽ nội bộ, kéo bè, kéo cánh, chỉ tin dùng người trong vùng, trong cơ quan mình, tìm cách dìm người ngoài hoặc người có ý kiến khác.

Một biểu hiện khác của bệnh cục bộ địa phương là tình trạng coi thường tổ chức, tùy tiện vi phạm kỷ luật, không chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chính sách của Trung ương. Địa phương tìm cách lách luật, đối phó hoặc chỉ thực hiện những gì có lợi cho mình. Người chỉ ra rằng, chủ nghĩa địa phương là một trong những hệ quả nguy hiểm của “bệnh hẹp hòi” trong cán bộ, đảng viên.

Bệnh cục bộ địa phương xuất phát từ tầm nhìn hạn hẹp, chỉ chú trọng lợi ích trước mắt, lợi ích bộ phận mà bỏ qua lợi ích chiến lược, lâu dài của toàn dân tộc. Căn bệnh này gây ra vô vàn tác hại nghiêm trọng, tiêu biểu, như: mất đoàn kết, làm suy yếu sức mạnh chung, dẫn đến tình trạng “trống đánh xuôi kèn thổi ngược”. Để đấu tranh với căn bệnh này, Người chỉ rõ, trước hết phải kiên quyết giữ vững tính Đảng, đặt lợi ích của Đảng và Nhân dân lên trên hết. Người dạy: “Đoàn kết là một lực lượng vô địch của chúng ta để khắc phục khó khăn, giành lấy thắng lợi”10. Cần tăng cường sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của trung ương và bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ, trong đó địa phương phải phục tùng Trung ương, thiểu số phục tùng đa số.

3. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh chống chủ nghĩa cá nhân và bệnh cục bộ địa phương

Trong hệ thống chính trị của nước ta hiện nay, cấp cơ sở giữ vị trí là bộ phận nền tảng, có vai trò quyết định trong việc triển khai và hiện thực hóa các chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã định nghĩa rất rõ về bản chất dân chủ của chính quyền: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân… Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra”11. Cấp ủy, chính quyền xã, phường, đặc khu là “cầu nối” trực tiếp, thường xuyên và cụ thể nhất giữa Đảng, Nhà nước với Nhân dân. Mọi hiệu lực, hiệu quả và tính đúng đắn của hệ thống chính trị đều được thể hiện rõ ràng và đánh giá trực tiếp tại đây.

Hiện nay ở cấp cơ sở, chủ nghĩa cá nhân thể hiện dưới hình thức tham nhũng vặt, thể hiện ở sự nhũng nhiễu, gây khó khăn, làm chậm trễ cho người dân khi giải quyết các thủ tục hành chính. Ngoài ra căn bệnh này còn thể hiện ở hành vi tư lợi trong quản lý các nguồn lực công, như: cấp đất đai, quy hoạch xây dựng, gây thiệt hại trực tiếp đến quyền lợi chính đáng của người dân.

Ở cấp cơ sở, căn bệnh cục bộ thường biểu hiện qua việc bênh vực, bao che sai phạm cho cán bộ, đảng viên thuộc quyền quản lý hoặc thuộc khu vực địa phương; ưu tiên giải quyết các vấn đề nhằm thỏa mãn lợi ích nhóm nhỏ (như: dòng họ, bè phái) mà không đặt lợi ích chung của toàn xã/phường lên hàng đầu. Cục bộ làm suy yếu đoàn kết nội bộ, tạo ra sự bất công và phá vỡ tính thống nhất trong chỉ đạo, điều hành.

Xuất phát từ thực trạng trên, việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh để giải quyết căn bệnh này trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết; cần được triển khai đồng bộ trên các lĩnh vực then chốt sau: 

Thứ nhất, về rèn luyện đạo đức cách mạng. Để chống chủ nghĩa cá nhân và cục bộ địa phương, cần siết chặt kỷ luật phát ngôn và hành động của cán bộ cơ sở. Đưa việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trở thành việc làm thường xuyên, tự giác, biến lý thuyết thành hành động. Phải quán triệt lời dạy của Người: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”12.

Thứ hai, về công tác cán bộ. Trước mắt, cần đẩy mạnh hơn nữa việc áp dụng cơ chế kiểm soát quyền lực và luân chuyển cán bộ chủ chốt, đặc biệt là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền. Luân chuyển là biện pháp hiệu quả để loại trừ tình trạng cán bộ “đóng rễ,” hình thành “rào chắn” bảo vệ lợi ích cá nhân, cục bộ. Trong thời gian tới, luân chuyển cán bộ chủ chốt có thể không chỉ dừng ở cấp tỉnh mà rất cần thiết phải mở rộng xuống tận xã, phường. Về nguyên tắc “dùng người” cần chú trọng, đẩy mạnh dùng người có đức, có tài, không vì bệnh hẹp hòi mà bỏ sót người tốt, thực hiện đúng phương châm: “Phải khéo tùy tài mà dùng người… Phải biết dạy cán bộ và dùng cán bộ”13.

Thứ ba, về quản lý nhà nước. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính theo hướng điện tử hóa, “một cửa, liên thông”. Thực hiện công khai, minh bạch mọi quy trình và quyết định ở cấp cơ sở (nhất là tài chính, thu chi, đất đai). Cần phát huy vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc và Nhân dân dựa trên nguyên tắc dân chủ, chống bệnh quan liêu. Thực sự chú trọng, đề cao vai trò của Nhân dân, dân là chủ, dân giám sát để chống lại tệ quan liêu và xa dân.

Thứ tư, về xây dựng Đảng. Để chống chủ nghĩa cá nhân và bệnh cục bộ địa phương, trước mắt cần thực hiện nghiêm túc quy định về tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt chi bộ, lấy đó là vũ khí để phòng và chống mầm mống cục bộ. Xử lý nghiêm minh, không khoan nhượng các sai phạm liên quan đến lợi ích nhóm để giữ vững kỷ luật Đảng. Thực hiện đúng lời Bác dạy, phê bình giúp nhằm làm cho phần tốt trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân.

4. Kết luận

Tư tưởng Hồ Chí Minh về chống chủ nghĩa cá nhân và cục bộ địa phương là một giá trị bền vững, mang tính thời đại. Việc vận dụng thành công tư tưởng này ở cấp cơ sở đã góp phần quan trọng để xây dựng Đảng và chính quyền thực sự “gần dân, hiểu dân, vì dân”. Từ đó, củng cố vững chắc niềm tin của Nhân dân, tạo ra sự đồng thuận xã hội cao nhất trong công cuộc phát triển đất nước. Trong thời gian tới, cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện các cơ chế, chính sách cụ thể, thể chế hóa tư tưởng của Người thành luật pháp và quy định thực tiễn để góp phần tích cực tạo ra một hệ thống chính trị cơ sở liêm chính, kiến tạo, phục vụ Nhân dân.

Chú thích:

1. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 4. H. NXB. Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 51.

2, 4, 7, 9, 11, 13. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 5. H. NXB. Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 280, 502, 301, 297, 273, 319.

3, 6, 12. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 11. H. NXB. Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 602, 611, 612.

5. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 15. H. NXB. Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 546.

8. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 9. H. NXB. Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 199 – 200.

10. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 10. H. NXB. Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 376.

Tài liệu tham khảo:

1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I, II.H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.

2. Nguyễn Phú Trọng (2021). Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.

3. Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1996). Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và Mặt trận dân tộc thống nhất. H. NXB Chính trị quốc gia.

4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ chế đảm bảo và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân ở Việt Nam hiện nay. https://www.quanlynhanuoc.vn/2025/12/02/tu-tuong-ho-chi-minh-ve-co-che-bao-dam-va-phat-huy-quyen-lam-chu-cua-nhan-dan-o-viet-nam-hien-nay/