TS. Vũ Thị Minh Ngọc
PGS.TS. Bùi Thị Lý
Trường Đại học Ngoại thương
(Quanlynhanuoc.vn) – Việc triển khai chính sách tài khóa mở rộng trong nhiều năm đã góp phần giúp Việt Nam đạt được một số mục tiêu về phát triển bền vững. Nhất là trong giai đoạn Covid–19, chính sách tài khóa mở rộng đã giúp nền kinh tế Việt Nam giảm thiểu các tác động bất lợi từ đại dịch, góp phần phục hồi nền kinh tế. Tuy nhiên, vẫn còn khá nhiều thách thức đối với Chính phủ Việt Nam khi một số mục tiêu phát triển bền vững vẫn chưa đạt được tiến độ theo yêu cầu. Việc thực hiện các mục tiêu này cũng đang vấp phải nhiều khó khăn, thử thách, đòi hỏi cần có các kế hoạch triển khai cụ thể và hiệu quả chính sách tài khóa phù hợp với các mục tiêu phát triển bền vững.
Từ khóa: Chính sách tài khóa, Covid–19, mục tiêu phát triển bền vững, Việt Nam.
1. Đặt vấn đề
Đại dịch Covid-19 mặc dù vừa mới đi qua nhưng dư âm của nó vẫn còn ảnh hưởng đến nhiều chủ thể trong nền kinh tế. Những tác động tiêu cực dai dẳng của đại dịch Covid-19, xung đột leo thang, căng thẳng địa chính trị và tình trạng khí hậu biến đổi bất thường, cũng như bất ổn kinh tế ngày càng gia tăng đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến tiến độ thực hiện Mục tiêu Phát triển bền vững (SDG) (United Nations Department of Economic and Social Affairs, 2024). Theo báo cáo phát triển bền vững của Liên hiệp quốc cho thấy, các mục tiêu đã được thống nhất vào năm 2015 đang đi chệch hướng một cách nghiêm trọng (United Nations Department of Economic and Social Affairs, 2024). Báo cáo cũng cho thấy, chỉ có 17% mục tiêu SDG đang đi đúng hướng, gần ½ mục tiêu có tiến triển tối thiểu hoặc trung bình và hơn ⅓ mục tiêu đã bị đình trệ hoặc thậm chí thụt lùi. Các vấn đề về giáo dục, sức khỏe bị ảnh hưởng nặng nề nhất. Bên cạnh đó, đại dịch Covid-19 cũng đã kéo dài thêm khoảng cách về mặt tài chính để thực hiện các mục tiêu SDG, nhất là tại các nước đang phát triển, trong khi các nguồn đầu tư (kể cả đầu tư ODA và đầu tư tư nhân sụt giảm) nhưng nhu cầu chi tiêu cho an sinh xã hội, y tế và phục hồi kinh tế tăng cao (Arora và Sarker, 2022)
Bài viết đánh giá về chính sách tài khóa và các mục tiêu phát triển bền vững SDG trong giai đoạn từ năm 2015 – 2023, trong đó làm rõ mối quan hệ giữa chính sách tài khóa và việc thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững SDG của Việt Nam trong hai giai đoạn trước và trong Covid-19, trên cơ sở đó, đề xuất một số hàm ý chính sách.
2. Thực trạng thực thi chính sách tài khóa và thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững SDG của Việt Nam
2.1. Thực thi chính sách tài khóa của Việt Nam
Trong giai đoạn 2015 – 2024, Chính phủ Việt Nam đã thực thi nhiều chính sách tài khóa để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là trong bối cảnh Covid-19.

Về tỷ trọng, chi tiêu công trong GDP trong giai đoạn 2015 – 2024 có xu hướng giảm xuống, song có thể thấy, trong giai đoạn Covid-19, khi tốc độ tăng trưởng GDP giảm sâu nhưng tỷ lệ chi tiêu công trên GDP lại tăng cao. Điều này cho thấy, Chính phủ Việt Nam đã dồn toàn lực vào việc phòng, chống dịch bệnh, qua đó góp phần vào tăng trưởng kinh tế vượt bậc của Việt Nam trong năm 2022. Mặc dù sang năm 2023, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam giảm xuống do chịu tác động từ Covid-19 nhưng nhờ hiệu quả của các chính sách quản lý kinh tế, trong đó có chính sách tài khóa nên tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam năm 2024 đã tăng lên gần mức trước giai đoạn Covid-19, tạo đà cho tăng trưởng kinh tế hai con số của Việt Nam giai đoạn 2026 – 2030. Bên cạnh đó, hậu sau Covid-19, Chính phủ đã tăng tỷ lệ chi tiêu công để thực hiện các mục tiêu mới, thay vì chỉ tập trung cho các mục tiêu về phòng, chống Covid-19 như trong giai đoạn 2020 – 2022.
2.2. Mức độ đạt được các mục tiêu SDG của Việt Nam
Theo Báo cáo Phát triển bền vững năm 2024 của Sachs và cộng sự (2024) được xuất bản bởi SDSN (Sustainable Development Solutions Network) và Dublin University Press, Việt Nam đứng thứ 54/167 quốc gia về chỉ số thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững SDG. Báo cáo này thu thập dữ liệu từ nhiều nguồn dữ liệu chính thống của các tổ chức quốc tế, như: World Bank (WDI), UN và dữ liệu từ một số nguồn khác như WHO, UNESCO,…
Đây có thể coi là một trong những thành công trong nỗ lực của Chính phủ Việt Nam nhằm hướng tới mục tiêu tăng trưởng nhanh nhưng phải bền vững trong tương lai. Tuy nhiên, nhìn vào hiệu suất SDG của Việt Nam cho thấy, tiến độ không đồng đều trong việc đạt đến 17 mục tiêu phát triển bền vững. Một số chỉ tiêu đã đi đúng hướng nhưng nhiều chỉ tiêu khác lại đang gặp nhiều thách thức lớn.


Cụ thể, với các mục tiêu về xóa nghèo (SDG1), chất lượng giáo dục (SDG4) là hai trong số 17 mục tiêu về phát triển bền vững đạt được theo như Việt Nam đã cam kết. Thậm chí về mức xóa nghèo, Việt Nam đang có xu hướng làm tốt hơn theo thời gian. Về chỉ tiêu bình đẳng giới (SDG5), mặc dù còn nhiều thách thức ở phía trước, nhưng Việt Nam vẫn đang làm tốt theo các mục tiêu đã đặt ra. Với 4 mục tiêu về xóa đói (SDG2), chỉ số sức khỏe và hạnh phúc (SDG3), bảo tồn hệ sinh thái biển (SDG14), bảo tồn hệ sinh thái trên đất liền (SDG15), thực hiện công lý, hòa bình và bảo đảm thể chế mạnh mẽ (SDG16) hiện nay là những thách thức rất lớn đối với chính phủ Việt Nam. Làm thế nào để có thể đảm bảo được các vấn đề về môi trường cũng như Với các chỉ tiêu còn lại, Việt Nam vẫn đang trong quá trình hiện thực hóa các cam kết mặc dù vẫn còn nhiều thử thách ở phía trước.
2.3. Ảnh hưởng của chính sách tài khóa đến việc thực hiện mục tiêu SDG
Một là, phân bổ tài khóa có liên quan chặt chẽ đến tốc độ thực hiện SDG.
Tiến độ thực hiện các mục tiêu như SDG 6, SDG7, SDG 8, SDG 9, SDG 10, SDG 11, SDG 12, SDG 13 và SDG 17 vẫn ở mức vừa phải hoặc không đồng đều. Các mục tiêu này thường giao thoa với các mục tiêu phát triển cạnh tranh và đòi hỏi phải có sự đánh đổi phức tạp trong việc phân bổ ngân sách. Ví dụ, SDG 8 đòi hỏi phải cải thiện đồng thời việc làm và năng suất kinh tế, trong khi SDG 7 đòi hỏi phải mở rộng năng lượng tái tạo mà không ảnh hưởng đến khả năng chi trả. Mặc dù Việt Nam đã có những bước tiến rõ rệt trong các lĩnh vực này nhưng những hạn chế về cơ sở hạ tầng, đặc biệt là trong truyền tải năng lượng và nhu cầu đầu tư phối hợp vẫn tiếp tục đặt ra những thách thức đối với Chính phủ Việt Nam.
Hai là, vẫn còn những hạn chế trong đầu tư công cho các mục tiêu về môi trường và khí hậu.
Mặc dù có sự quan tâm về chính sách, chi tiêu công cho bảo vệ môi trường và hành động vì khí hậu vẫn chưa đủ. Các mục tiêu như SDG 13 (hành động vì khí hậu) và SDG 14-15 (sự sống dưới nước và trên cạn) phải đối mặt với tình trạng thiếu hụt tài chính nghiêm trọng. Những hạn chế về ngân sách và các chiến lược đầu tư dài hạn không nhất quán, thường bị trầm trọng hơn do nguồn tài chính quốc tế không thể đoán trước, cản trở việc thực hiện hiệu quả. Việc ưu tiên tăng trưởng kinh tế hơn bảo tồn sinh thái đã dẫn đến các vấn đề dai dẳng như nạn phá rừng, mất đa dạng sinh học và ô nhiễm biển. Mặc dù các chính sách tài khóa để giảm thiểu rủi ro khí hậu đã được đưa ra nhưng chúng vẫn đang trong giai đoạn sơ bộ và gặp phải những trở ngại trong việc giải ngân và triển khai dự án.
Ba là, các chương trình tài khóa đã có tác động tích cực đến thực hiện thành công một số mục tiêu SDG.
Chính sách tài khóa đã mang lại những kết quả đáng kể trong việc xóa đói, giảm nghèo thông qua các chương trình quốc gia mục tiêu. Các sáng kiến của Chính phủ, như: chính sách trợ giúp xã hội theo Nghị định số 20/2021/NĐ-CP và Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững đã củng cố mạng lưới an sinh xã hội, đặc biệt là ở các vùng nông thôn và vùng khó khăn. Việc đầu tư vào cơ sở hạ tầng nông thôn như hệ thống đường sá, trường học, trạm y tế, hệ thống thủy lợi đã góp phần hỗ trợ phát triển cộng đồng. Gói phục hồi kinh tế sau đại dịch (2022 – 2025) với quy mô gần 350 nghìn tỷ đồng, cùng với các dự án quốc tế (đến từ các tổ chức như Ngân hàng Thế giới (WB) và UNDP) đã góp phần vào khả năng phục hồi kinh tế – xã hội và đạt được các Mục tiêu phát triển bền vững liên quan đến xóa đói, giảm nghèo, giáo dục và bình đẳng giới.
Trong giáo dục (SDG 4), Việt Nam đã đạt được những kết quả mạnh mẽ nhờ đầu tư công bền vững. Tỷ lệ chi tiêu công trung bình cho giáo dục chiếm khoảng 5% GDP và chiếm khoảng 20% tổng chi tiêu của chính phủ. Các chính sách về cải cách lương cho giáo viên, cũng như các kế hoạch phục hồi sau Covid-19 của ngành giáo dục như vấn đề về thúc đẩy số hóa trong giáo dục, hỗ trợ các học sinh ở vùng sâu, vùng xã góp phần tạo ra tiếp cận công bằng cho tất cả mọi người với giáo dục, theo mục tiêu học tập suốt đời và giáo dục hòa nhập. Các chính sách tài khóa mở rộng đã góp phần giúp Việt Nam đạt được các mục tiêu về phát triển nguồn nhân lực.
Bốn là, tiến độ thực hiện các mục tiêu SDG không đồng đều, mặc dù có cam kết chính sách đầu tư công.
Chính phủ đã có nhiều nỗ lực trong việc đầu tư cho các dự án nhằm hướng tới thực hiện các mục tiêu tăng trưởng bền vững đã cam kết, nhưng kết quả cho thấy, sự không đồng đều trong việc thực hiện các cam kết này. Ví dụ, kết quả về mục tiêu bình đẳng giới (SDG 5) cho thấy, sự cải thiện về trình độ biết chữ và sự tham gia của lực lượng lao động nữ nhưng vẫn tồn tại sự chênh lệch về giới trong tỷ lệ nữ giới tham gia công tác lãnh đạo, về tiền lương và an ninh việc làm.
Tại Việt Nam, tỷ lệ phụ nữ Việt Nam có tỷ lệ tham gia lực lượng lao động gần ngang bằng nam giới (với 72% nữ giới so với 82% của nam giới) (UN Women, 2021), tỷ lệ phụ nữ nắm giữ các vị trí lãnh đạo hiện là 33% (Grant Thornton Vietnam, 2024). Các kết quả trên là do Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản pháp luật liên quan đến bình đẳng giới. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều thách thức cần đạt được trong mục tiêu này, đó là các vấn đề về tỷ lệ lãnh đạo nữ, sự phân biệt trong thu nhập và việc làm giữa phụ nữ và nam giới (nữ giới trong khu vực phi chính thức có mức lương trung bình thấp hơn 50% so với nam giới), các định kiến xã hội và vấn đề bạo lực đối với phụ nữ (UN Women, 2021). Trong khi đó, việc phân bổ ngân sách nhà nước cho các chương trình bình đẳng giới đang bị thu hẹp do nhiều nhà tài trợ cắt giảm các khoản tài trợ, các quy trình lập kế hoạch và ngân sách có tính đến giới đang còn thiếu, dẫn tới thiếu các dữ liệu về việc theo dõi các khoản chi liên quan đến mục đích bình đẳng giới (Minh Vu. 2022; UN Women, 2021). Chính vì vậy, việc cần làm tiếp theo là tiếp tục thực hiện phân bổ tối ưu và lập các kế hoạch tài chính cho các chương trình và chính sách liên quan đến giới.
Tương tự như vậy, các Mục tiêu phát triển bền vững (SDG 8), đổi mới sáng tạo (SDG 9) và các thành phố bền vững (SDG 11) cho thấy, sự chênh lệch giữa thành thị và nông thôn và có sự phân mảnh về chính sách. Với mục tiêu xóa đói (SDG2), mặc dù nền kinh tế đạt được mức tăng trưởng cao, Việt Nam cũng đã đạt được tiến độ về mục tiêu giảm nghèo, xong vấn đề an ninh lương thực tại các khu vực nông thôn vẫn đòi hỏi cần có giải pháp phòng tránh những tổn thương đối với khu vực này. các chương trình về dinh dưỡng hoặc là chưa được thực hiện một cách đầy đủ hoặc chưa rõ ràng về mục tiêu. Các mục tiêu liên quan đến sức khỏe cũng bị hạn chế bởi sự chênh lệch giữa các vùng về chất lượng dịch vụ và đội ngũ nhân viên y tế, đặc biệt là ở các vùng nông thôn.
Những nỗ lực hướng tới cải cách quản trị và hiệu quả hành chính (SDG 16) đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ, nhưng hỗ trợ tài chính cho cải cách thể chế và các sáng kiến chống tham nhũng vẫn còn hạn chế. Trong khi đó, các chính sách kích thích tài chính trong thời gian Covid-19 đã hỗ trợ phục hồi việc làm nhưng gặp phải trở ngại trong việc thúc đẩy điều kiện làm việc an toàn và công bằng.
Năm là, chưa khai thác được các tiềm năng của khu vực tư nhân và quan hệ đối tác quốc tế trong việc thực hiện các mục tiêu tăng trưởng bền vững.
Việt Nam vẫn chưa tận dụng hết tiềm năng của khu vực tư nhân và hợp tác quốc tế trong việc tài trợ cho các sáng kiến SDG. Mặc dù các khuôn khổ cho quan hệ đối tác công tư (PPP) và hợp tác hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) đã được cải thiện nhưng việc triển khai các nguồn vốn hợp tác từ bên ngoài vẫn còn hạn chế về quy mô và tác động. Việc sử dụng chưa hết tiềm năng này cản trở sự mở rộng trong các lĩnh vực chính như năng lượng xanh (SDG 7), đổi mới sáng tạo (SDG 9) và cơ sở hạ tầng đô thị (SDG 11). Trong tương lai, cần xây dựng các chiến lược để huy động tài chính hỗn hợp và kết hợp hiệu quả vốn trong nước và nước ngoài cho phát triển bền vững.
3. Khuyến nghị và giải pháp chính sách
Thứ nhất, tăng cường phân bổ ngân sách cho các SDG hiện nay đang thiếu kinh phí triển khai, nhất là các mục tiêu về khả năng phục hồi khí hậu (SDG 13), bảo tồn và mở rộng hệ sinh thái biển và trên cạn (SDG 14, 15) và tăng cường phát triển năng lượng sạch (SDG 7). Để thực hiện được giải pháp này, Nhà nước cần xây dựng kế hoạch và lộ trình thực hiện kế hoạch phân bổ ngân sách cho từng lĩnh vực cụ thể; đồng thời có thể tăng các nguồn kinh phí ưu đãi hoặc các dự án đầu tư tư nhân hoặc đầu tư ODA cho các dự án về đa dạng sinh học, bảo tồn và năng lượng tái tạo trong các kế hoạch đầu tư trung hạn (MTIP).
Thứ hai,tăng cường thực hiện lồng ghép các mục tiêu bình đẳng giới vào quy trình lập kế hoạch ngân sách. Trong đó, chính phủ có thể yêu cầu các bộ, ngành khi xây dựng và thống kê, phân tích các chỉ tiêu về giới trong các báo cáo. Ngoài ra, cần thực hiện theo dõi việc thực hiện và công khai các báo cáo chi tiêu công cho các chương trình mang các đặc trưng về giới.
Thứ ba, mở rộng các chương trình hỗ trợ và thể chế hóa các cơ chế bảo vệ xã hội cho các nhóm dân số dễ bị tổn thương. Cần tăng cường cường tính công khai và minh bạch trong các chương trình hỗ trợ thông qua việc sử dụng các nền tảng kỹ thuật số, qua đó giảm các thất thoát trong quá trình triển khai. Bên cạnh đó, các công cụ kỹ thuật số cũng có thể giúp tạo ra tính linh hoạt trong việc ứng phó với các cú sốc như Covid-19 hoặc các cú sốc từ kinh tế vĩ mô.
Thứ tư, tạo môi trường thuận lợi để thu hút quan hệ đối tác công tư (PPP) và viện trợ phát triển nước ngoài phù hợp với các mục tiêu SDG. Thông qua việc tạo ra các nguồn ưu đãi thuế hoặc trái phiếu xanh, nhà nước có thể thu hút khu vực tư nhân tham gia vào các dự án liên quan đến phát triển cơ sở hạ tầng và chống biến đổi khí hậu hoặc bảo tồn tài nguyên thiên nhiên. Tuy nhiên, cũng cần phải tạo ra hành lang pháp lý và cơ chế chia sẻ rủi ro để đảm bảo sự an tâm cho các doanh nghiệp tư nhân khi đầu tư vào các lĩnh vực trên.
Thứ năm, cải thiện sự phối hợp liên ngành và liên chính phủ thông qua việc thống nhất các kế hoạch tài chính quốc gia và việc thực hiện các mục tiêu SDG ở cấp tỉnh. Các kế hoạch về ngân sách dành cho từng mục tiêu SDG cần phải được thống nhất để các cấp quản lý có thể dễ thống kê, tổng hợp và phân tích, qua đó để điều chỉnh các hoạt động triển khai hiệu quả và phù hợp cũng như đồng bộ giữa các cấp.
Thứ sáu, thúc đẩy tính minh bạch và ra quyết định về đầu tư công dựa trên dữ liệu. Để thực hiện được giải pháp này, nhà nước cần thiết lập một hệ thống giám sát tài chính thực hiện mục tiêu SDG toàn diện, trong đó tích hợp dữ liệu về tài chính với các dữ liệu theo dõi tiến độ SDG. Bên cạnh đó, cần tăng cường khả năng tiếp cận dữ liệu cho các bên liên quan, cũng như tăng cường năng lực khai thác và quản lý dữ liệu cho nhân sự tại các cơ quan bộ, ngành và chính quyền ở địa phương.
Thứ bảy, thực hiện lồng ghép về đánh giá rủi ro về khí hậu và biến đổi môi trường vào quá trình lập ngân sách và đánh giá các hoạt động đầu tư. Nhà nước cần tiến hành đánh giá định kỳ các quy định thể chế và chi tiêu công về phòng chống biến đổi khí hậu và môi trường; đồng thời, xây dựng các hướng dẫn đánh giá các hoạt động đầu tư công trong các dự án nhưng không ảnh hưởng đến môi trường.
4. Kết luận
Chính sách tài khóa có vai trò quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững SDG, nhất là trong giai đoạn nền kinh tế không ổn định do chịu tác động từ các cú sốc như Covid-19. Chính phủ Việt Nam đã thực hiện nhiều biện pháp tài khóa mở rộng nhằm giúp giảm thiểu các tác động tiêu cực của Covid-19 đối với nền kinh tế, đồng thời tạo điều kiện phục hồi kinh tế sau đại dịch. Việc thực thi nhiều chính sách tài khóa đã giúp Việt Nam đạt và đi đúng hướng với đa số các mục tiêu SDG. Mặc dù vậy, việc thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững vẫn còn nhiều thách thức đáng kể, trong đó tiến độ thực hiện một số mục tiêu như khả năng phục hồi khí hậu, bảo vệ môi trường, vấn đề về xóa đói cũng như một số vấn đề về thể chế chưa thực sự đáp ứng theo yêu cầu. Để đẩy nhanh tiến độ thực hiện các mục tiêu SDG một cách hiệu quả, Chính phủ Việt Nam cần thực hiện nhiều biện pháp áp dụng cách tiếp cận chính sách tài khóa theo hướng chiến lược và tích hợp hơn. Việc điều chỉnh các chính sách tài khóa gắn kết chặt chẽ hơn với các mục tiêu SDG sẽ giúp nền kinh tế phát triển một cách ổn định và toàn diện, tạo ra nền tảng bền vững trước những thách thức và biến động từ môi trường kinh tế – xã hội toàn cầu.
Tài liệu tham khảo:
1. Bài viết là sản phẩm của đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ: Vai trò của các chính sách ứng phó với Covid-19 đối với phát triển bền vững ở Việt Nam, mã số: B2023-NTH-08 NNS.
2. Arora, R. U., & Sarker, T. (2022). Financing for sustainable development goals (SDGs) in the era of Covid-19 and beyond. The European Journal of Development Research, 35(1), 1.
3. Cristóbal, J., Ehrenstein, M., Domínguez-Ramos, A., Galán-Martín, Á., Pozo, C., Margallo, M. & Guillén-Gosálbez, G. (2021). Unraveling the links between public spending and Sustainable Development Goals: Insights from data envelopment analysis. Science of the Total Environment, 786, 147459.
4. Grant Thornton Vietnam. (2024). Women in Business Report 2024
5. Kuo, Y. Y. (2021). Fiscal policy responses for sustainable post-Covid-19 recovery: Taiwan’s experience. Fulbright Review of Economics and Policy, 1(2), 158-169.
6. Liu, Z., Yin, T., SURYA PUTRA, A. R., & Sadiq, M. (2022). Public spending as a new determinate of sustainable development goal and green economic recovery: Policy perspective analysis in the Post-Covid ERA. Climate Change Economics, 13(03), 2240007.
7. Minh Vu. (2022). Vietnam needs financial resources to advance gender equality. Hanoitimes.vn.
8. Ozili, P. K. (2024). Economic policy for sustainable development: role of monetary policy, fiscal policy and regulatory policy. Circular Economy and Sustainability, 4(4), 2625-2656.
9. Sachs, J.D., Lafortune, G., Fuller, G. (2024). The SDGs and the UN Summit of the Future. Sustainable Development Report 2024. Paris: SDSN, Dublin: Dublin University Press. doi:10.25546/108572
10. Safitri, Y., Ningsih, R. D., Agustianingsih, D. P., Sukhwani, V., Kato, A., & Shaw, R. (2021). Covid-19 impact on sdgs and the fiscal measures: Case of Indonesia. International journal of environmental research and public health, 18(6), 2911.
11. UN Women (2021). Country Gender Equality Profile Viet Nam 2021.
12. United Nations Department of Economic and Social Affair (2024). The Sustainable Development Goals Report 2024. UN iLibrary
13. Zaman, K. A. U., & Sarker, T. (2022). Public finance and fiscal instruments for sustainable development. De Gruyter Handbook of Sustainable Development and Finance, 153-175.