TS. Tạ Quang Tuấn
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
(Quanlynhanuoc.vn) – Việt Nam đang vươn mình mạnh mẽ trong bối cảnh phát triển của nền kinh tế số toàn cầu. Bối cảnh đó cần tiếp tục vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác vào phát triển thương mại. Điều này không chỉ giữ vững nền tảng tư tưởng lãnh đạo mà còn là chìa khóa để phát triển đúng hướng đối với con đường phát triển của đất nước; đó cũng là cách thức để thương mại Việt Nam vừa hòa nhập quốc tế, vừa gìn giữ chủ quyền, vừa phát triển kinh tế, vừa bảo đảm công bằng xã hội đúng với tinh thần đang chuyển mình vì tương lai phát triển bền vững và toàn diện. Bài viết phân tích về việc vận dụng lý luận tư bản kinh doanh hàng hóa và lợi nhuận thương nghiệp của C. Mác trong phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, góp phần khẳng định đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng ta trong phát triển kinh tế đất nước, góp phần phản bác các quan điểm sai trái, thù địch chống phá cách mạng nước ta hiện nay.
Từ khóa: Lý luận của C. Mác, tư bản kinh doanh hàng hóa, lợi nhuận thương nghiệp, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vận dụng.
1. Đặt vấn đề
Việt Nam đang bước vào một giai đoạn phát triển mới – “kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”, khi đất nước không chỉ phục hồi mạnh mẽ sau đại dịch Covid-19 mà còn khẳng định vị thế trong chuỗi cung ứng toàn cầu, mở rộng thương mại với các thị trường chiến lược. Trong bối cảnh đó, việc phát triển thương mại cần được soi chiếu và định hướng bằng nền tảng lý luận khoa học, đặc biệt là tư tưởng triết học của chủ nghĩa Mác.
Trong bối cảnh Việt Nam đang vươn mình mạnh mẽ, việc vận dụng chủ nghĩa Mác vào phát triển thương mại không chỉ là giữ vững nền tảng tư tưởng mà còn là chìa khóa để phát triển đúng hướng. Đó là cách để thương mại Việt Nam vừa hòa nhập quốc tế, vừa gìn giữ chủ quyền, vừa phát triển kinh tế, vừa bảo đảm công bằng xã hội – đúng với tinh thần của một quốc gia đang chuyển mình vì tương lai phát triển bền vững và toàn diện.
2. Bản chất lý luận về tư bản kinh doanh hàng hóa và lợi nhuận thương nghiệp của C.Mác
Khi bàn về nguồn gốc của tư bản thương nghiệp, chúng ta thấy rằng đây là một quá trình tất yếu khi mà tư bản công nghiệp phát triển và thống trị sẽ kéo theo sự hình thành và phát triển tư bản kinh doanh hàng hóa, hay tư bản thương nghiệp. C.Mác cho rằng: một khi chức năng này của số tư bản đang nằm trong quá trình lưu thông nói chung tách riêng thành một chức năng đặc biệt của một loại tư bản đặc biệt, cố định lại thành một chức năng do sự phân công xã hội mà thuộc về một loại nhà tư bản đặc biệt, thì như vậy tư bản – hàng hóa đã chuyển hóa thành tư bản kinh doanh hàng hóa, hay tư bản thương nghiệp1. Từ nền tảng này, giữa tư bản kinh doanh hàng hóa và tư bản – hàng hóa, với tư cách là một hình thái tồn tại của tư bản công nghiệp, có mối quan hệ hữu cơ dựa trên sự phát triển của phân công lao động xã hội.
Giữa tư bản kinh doanh hàng hóa và tư bản công nghiệp sản xuất có mối quan hệ biện chứng. Tư bản kinh doanh hàng hóa phụ thuộc vào tư bản công nghiệp sản xuất, quyết định đến việc lưu thông, nhưng tư bản hàng hóa có tính độc lập tương đối của nó bởi thương mại cũng là một lĩnh vực đầu tư của tư bản để thu lợi nhuận. Tính độc lập này được thể hiện, như sau:
(1) Tư bản – hàng hóa thực hiện sự chuyển hóa cuối cùng của nó thành tiền trong tay người khác chứ không phải trong tay người sản xuất ra tư bản – hàng hóa đó. Đây là một hình thái đặc biệt của phân công lao động xã hội. Nhân viên đặc biệt của lưu thông, tức là thương nhân, đã đứng ra danh nghĩa đó mà ứng tư bản – tiền tệ ra;
(2) Nếu không có thương nhân thì bộ phận tư bản lưu thông tồn tại dưới hình thái tiền dự trữ nhất định phải lớn hơn bộ phận nằm dưới hình thái tư bản sản xuất, thành thử quy mô sản xuất sẽ bị thu hẹp lại. Người sản xuất sẽ tiết kiệm được thời gian bán hàng, để dùng thời gian đó vào việc trông coi quá trình sản xuất, còn thương nhân thì phải dùng toàn bộ thời gian của mình vào việc bán hàng;
(3) Nếu tư bản thương nhân không vượt qua được những tỷ lệ cần thiết thì: do sự phân công lao động, tư bản chuyên trách về việc mua bán (ngoài số tiền dùng để mua hàng hóa. ở đây còn phải tính thêm cả số tiền phải chi vào việc trả công lao động cần thiết cho hoạt động thương nghiệp và cho tư bản bất biến của thương nhân: kho, vận chuyển…) bây giờ đã trở nên nhỏ hơn khi nhà tư bản công nghiệp tự mình phụ trách lấy toàn bộ phần thương nghiệp của xí nghiệp mình; chính vì thương nhân phụ trách công việc đó, nên không những hàng hóa của người sản xuất sẽ được chuyển hóa thành tiền nhanh hơn mà cả tư bản – hàng hóa hơn nữa cũng sẽ thực hiện được sự biến hóa hình thái của nó nhanh hơn so với trước kia, khi ở trong tay người sản xuất; nếu ta xét toàn bộ tư bản thương nhân so với tư bản công nghiệp thì chỉ riêng một vòng chu chuyển của tư bản thương nhân cũng có thể không những biểu hiện những chu chuyển của một số lớn tư bản riêng trong một lĩnh vực sản xuất mà còn biểu hiện cả những chu chuyển của mấy tư bản liền trong các lĩnh vực sản xuất khác nhau.
Như vậy, với phân tích trên, có thể rút ra một số kết luận: Thứ nhất, sự phát triển của tư bản kinh doanh hàng hóa góp phần làm cho thời gian lưu thông rút ngắn lại, gián tiếp làm tăng giá trị thặng dư cho nhà tư bản công nghiệp sản xuất ra. Thứ hai, làm cho thị trường mở rộng và dẫn tới sự phân công của các nhà tư bản. Tức là làm cho tư bản có khả năng kinh doanh với quy mô lớn hơn, tạo điều kiện nâng cao năng suất của tư bản công nghiệp và giúp cho sự tích lũy của tư bản công nghiệp. Thứ ba, làm cho bộ phận tư bản phải nằm trong lĩnh vực lưu thông giảm đi, làm cho bộ phận tư bản tư bản trực tiếp dùng vào sản xuất tăng lên. Do đó, sự phát triển của tư bản kinh doanh hàng hóa góp phần làm cho tỷ suất lợi nhuận tăng lên2.
3. Thành tựu từ sự vận dụng sáng tạo lý luận của Mác trong phát triển kinh doanh hàng hóa và thương nghiệp ở nước ta hiện nay
Thứ nhất, về đổi mới trong nhận thức và tư duy.
Kinh doanh hàng hóa là quá trình tổ chức hoạt động mua – bán với mục đích thu lợi nhuận thông qua việc đưa sản phẩm hàng hóa vào lưu thông trên thị trường. Đây là hình thức phổ biến của hoạt động kinh tế trong nền kinh tế thị trường, nơi mà giá cả, cung cầu và cạnh tranh giữ vai trò định hướng hành vi kinh doanh. Kinh doanh hàng hóa không chỉ là hoạt động trao đổi vật chất, mà còn thể hiện sự vận động của các quy luật kinh tế trong đời sống xã hội hiện đại.
Khác với sản xuất chỉ đơn thuần tạo ra sản phẩm, kinh doanh hàng hóa đặt trọng tâm vào thực hiện giá trị của hàng hóa bằng cách chuyển đổi hàng hóa thành tiền tệ trên thị trường, từ đó tạo ra chênh lệch – tức lợi nhuận. Kinh doanh hàng hóa không tồn tại độc lập mà vận hành trong môi trường có quy luật giá trị, cung – cầu, và cạnh tranh. Sự biến động của thị trường đòi hỏi chủ thể kinh doanh phải năng động, thích ứng và sáng tạo. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, kinh doanh hàng hóa không chỉ do doanh nghiệp tư nhân thực hiện mà còn có sự tham gia của các doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã và các tổ chức kinh tế hỗn hợp… Điều này thể hiện tính đa dạng hóa chủ thể kinh doanh.
Kinh doanh hàng hóa ở Việt Nam phải tuân thủ khuôn khổ pháp lý do Nhà nước ban hành. Bên cạnh đó, định hướng phát triển kinh tế – xã hội do Đảng đề ra cũng định hình các ưu tiên trong sản xuất, phân phối và tiêu dùng hàng hóa. Sự phát triển của kinh doanh hàng hóa tạo ra việc làm, phân phối lại thu nhập và hình thành các mối quan hệ kinh tế – xã hội mới, từ đó ảnh hưởng đến đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân.
Thương nghiệp là ngành kinh tế đảm nhận chức năng luân chuyển hàng hóa từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng thông qua các hình thức mua bán. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thương nghiệp không đơn thuần là hoạt động kiếm lời mà còn có vai trò gắn kết các vùng kinh tế, hỗ trợ phát triển cân đối giữa các ngành, bảo đảm hàng hóa được phân phối công bằng và hợp lý.
Thương nghiệp làm nhiệm vụ đưa sản phẩm từ nhà sản xuất đến tay người tiêu dùng cuối cùng. Nó góp phần giải phóng hàng hóa khỏi ứ đọng, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ở những khu vực khác nhau và giữ cho nền kinh tế vận hành thông suốt. Thương nghiệp gắn chặt với sự phát triển của thị trường. Nó vận hành trên cơ sở tự do mua bán, song vẫn phải tuân thủ những quy định pháp lý và định hướng phát triển bền vững của quốc gia. Ở Việt Nam, thương nghiệp không chỉ phục vụ mục tiêu lợi nhuận mà còn thực hiện các chức năng xã hội như: cung ứng hàng hóa thiết yếu cho vùng sâu, vùng xa; bình ổn giá trong thời kỳ khủng hoảng; đảm bảo cân bằng cung – cầu trong xã hội. Thương nghiệp hiện nay phát triển theo hướng đa dạng: từ doanh nghiệp nhà nước, tư nhân, nước ngoài đến hợp tác xã; từ hệ thống chợ truyền thống đến siêu thị, trung tâm thương mại và các sàn giao dịch thương mại điện tử. Sự gia tăng kết nối toàn cầu đòi hỏi thương nghiệp phải thay đổi phương thức hoạt động. Các mô hình thương mại điện tử, logistics thông minh, quản trị chuỗi cung ứng, và dịch vụ hậu cần kỹ thuật cao ngày càng trở thành trụ cột trong phát triển thương nghiệp hiện đại.
Trong mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta xác định phát triển kinh tế là trung tâm, trong đó kinh doanh hàng hóa và thương nghiệp đóng vai trò cầu nối giữa sản xuất và đời sống, là phương tiện phân phối lại của cải một cách hợp lý, công bằng và hiệu quả. Thông qua thương nghiệp, Nhà nước có thể can thiệp gián tiếp vào thị trường để điều chỉnh sản xuất, đảm bảo an sinh xã hội, và tạo lập môi trường kinh doanh lành mạnh, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát và nâng cao đời sống nhân dân.
Thứ hai, về đổi mới trong cơ cấu ngành nghề.
Về cơ cấu ngành thương nghiệp ở Việt nam hiện nay, cho thấy, trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng và chuyển đổi số mạnh mẽ, cơ cấu ngành thương nghiệp ở Việt Nam đang phát triển theo hướng đa ngành, đa dạng hình thức hoạt động, gắn với nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao và phong phú của xã hội. Cơ cấu này có thể được phân tích qua các lĩnh vực chủ yếu sau:
Thương mại nội địa – nền tảng phát triển ổn định: thị trường trong nước đóng vai trò trung tâm trong tổng thể hoạt động thương nghiệp, với hệ thống phân phối ngày càng hiện đại và đa dạng. Từ các chợ truyền thống ở nông thôn như chợ quê tại Đồng Tháp, đến các siêu thị lớn như Co.opmart hay WinMart ở thành phố, thương mại nội địa ngày càng chuyên nghiệp hóa. Mô hình “đưa hàng Việt về nông thôn” cũng là ví dụ sinh động về việc thương nghiệp nội địa gắn kết sản xuất và tiêu dùng trong nước, đồng thời tăng khả năng tiếp cận hàng hóa chất lượng cho người dân vùng sâu, vùng xa.
Thương mại quốc tế – động lực tăng trưởng xuất khẩu: hoạt động xuất nhập khẩu tiếp tục là điểm sáng trong bức tranh kinh tế thương mại. Nhiều mặt hàng như cà phê, thủy sản, điện thoại và linh kiện điện tử của Việt Nam đã có mặt tại các thị trường khó tính như châu Âu và Bắc Mỹ. Chẳng hạn, việc doanh nghiệp Vinamilk xuất khẩu sữa sang Trung Quốc và Hàn Quốc thể hiện khả năng cạnh tranh ngày càng cao của thương hiệu Việt. Các hiệp định thương mại tự do như Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA)3 hay Hiệp định đối tác kinh tế toàn khu vực (RCEP)4 đã mở rộng thị trường và nâng cao tiêu chuẩn hoạt động thương mại quốc tế.
Thương mại điện tử – xu hướng phát triển mới: cùng với sự bùng nổ của internet và công nghệ số, thương mại điện tử đang dần chiếm tỷ trọng lớn trong thương nghiệp hiện đại. Nền tảng Shopee, Tiki, Lazada… cho phép người dân từ thành thị đến nông thôn dễ dàng mua sắm, đồng thời tạo kênh tiêu thụ hiệu quả cho hàng hóa địa phương. Một ví dụ điển hình là sàn “Postmart” của Bưu điện Việt Nam, giúp tiêu thụ đặc sản như vải thiều Bắc Giang hay cam Cao Phong bằng hình thức trực tuyến, kể cả trong mùa dịch Covid-19.
Logistics và chuỗi cung ứng – yếu tố hỗ trợ thiết yếu: hạ tầng logistics ngày càng được chú trọng để hỗ trợ thương nghiệp, nhất là trong xuất khẩu và thương mại điện tử. Các trung tâm logistics như tại Hải Phòng hay Cái Mép – Thị Vải (Bà Rịa – Vũng Tàu) giúp tăng khả năng kết nối giữa các vùng kinh tế. Tuy nhiên, chi phí logistics vẫn cao hơn mức trung bình khu vực ASEAN, cho thấy cần tiếp tục cải cách và đầu tư đồng bộ vào hệ thống giao thông, kho bãi và công nghệ quản lý hàng hóa.
Thương mại hàng nông sản – trụ cột vùng nông thôn: ngành thương mại hàng nông sản giữ vai trò quan trọng trong việc tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp và ổn định thu nhập cho hàng triệu hộ dân. Ví dụ, hệ thống siêu thị đã liên kết trực tiếp với hợp tác xã trồng rau VietGAP ở Lâm Đồng để tiêu thụ rau sạch, giảm bớt khâu trung gian và bảo đảm an toàn thực phẩm. Tuy nhiên, việc bảo quản, chế biến sau thu hoạch và xây dựng thương hiệu vẫn là điểm yếu, làm giảm giá trị thương phẩm trong nhiều trường hợp.
Thương mại dịch vụ – mở rộng theo hướng chất lượng cao: bên cạnh hàng hóa hữu hình, thương mại dịch vụ đang phát triển mạnh, nhất là các lĩnh vực như du lịch, y tế, giáo dục và tài chính. Chẳng hạn, ngành du lịch nội địa bùng nổ với các tour trải nghiệm miền núi Tây Bắc, trong khi du lịch quốc tế đang phục hồi nhanh nhờ chính sách miễn thị thực và tăng tần suất chuyến bay quốc tế. Điều này không chỉ thúc đẩy tiêu dùng mà còn gia tăng giá trị dịch vụ trong tổng thể thương mại quốc gia.
Như vậy, cơ cấu ngành thương nghiệp ở Việt Nam đang vận động theo hướng hiện đại, linh hoạt và toàn diện hơn, phản ánh sự thích ứng với yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Để tiếp tục duy trì đà tăng trưởng và nâng cao hiệu quả thương nghiệp, Việt Nam cần chú trọng phát triển đồng bộ giữa thương mại nội địa và quốc tế, tăng cường ứng dụng công nghệ số, và xây dựng hệ thống phân phối hiệu quả, minh bạch và bền vững.
Thứ ba, về đổi mới trong chủ thể quản lý nhà nước.
Về tổ chức quản lý thương nghiệp ở Việt Nam, cơ quan chủ trì quản lý nhà nước về hoạt động thương nghiệp là Bộ Công Thương, cơ quan thuộc Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước trong các lĩnh vực công nghiệp và thương mại trên phạm vi cả nước.
Theo Nghị định số 40/2025/NĐ-CP ngày 01/3/2025 của Chính phủ, Bộ Công Thương có chức năng quản lý nhà nước về công nghiệp và thương mại, bao gồm các lĩnh vực như: thương mại trong nước, xuất nhập khẩu, thương mại biên giới, dịch vụ logistics, phát triển thị trường ngoài nước, quản lý thị trường, xúc tiến thương mại, thương mại điện tử, dịch vụ thương mại, hội nhập kinh tế quốc tế, cạnh tranh, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, phòng vệ thương mại, và các dịch vụ công trong các ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ
Bộ Công Thương có cơ cấu tổ chức bao gồm các đơn vị chuyên môn và đơn vị sự nghiệp, trong đó có các đơn vị trực tiếp tham mưu và thực hiện chức năng quản lý nhà nước về thương nghiệp như: Cục Quản lý và Phát triển thị trường trong nước; Cục Xúc tiến thương mại; Cục Thương mại điện tử và Kinh tế số; Cục Xuất nhập khẩu; Cục Phòng vệ thương mại; Cục Quản lý thị trường…
Về phân cấp quản lý, bên cạnh Bộ Công Thương, theo quy định tại Điều 8 Luật Thương mại năm 2005, Ủy ban nhân dân các cấp cũng thực hiện chức năng quản lý nhà nước về hoạt động thương mại tại địa phương theo sự phân cấp của Chính phủ. Các sở Công Thương tại địa phương là cơ quan chuyên môn giúp Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công nghiệp và thương mại trên địa bàn.
Về cơ quan kiểm tra giám sát thương nghiệp ở Việt Nam cho thấy từ ngày 01/3/2025, theo Nghị định số 40/2025/NĐ-CP của Chính phủ, mô hình Tổng cục Quản lý thị trường trực thuộc Bộ Công Thương đã chính thức chấm dứt hoạt động. Thay vào đó, chức năng kiểm tra, giám sát hoạt động thương nghiệp được chuyển giao cho Cục Quản lý và Phát triển thị trường trong nước, đơn vị mới thành lập thuộc Bộ Công Thương
Thứ tư, về đổi mới trong hợp tác quốc tế.
Bối cảnh lưu thông thương mại toàn cầu năm 2025 đang đối mặt với nhiều thách thức nghiêm trọng, ảnh hưởng sâu rộng đến tăng trưởng kinh tế, chuỗi cung ứng và ổn định tài chính toàn cầu. Cụ thể là suy giảm thương mại toàn cầu. Nguyên nhân chủ yếu là do căng thẳng thương mại leo thang và các biện pháp thuế quan mới từ Hoa Kỳ và Trung Quốc. Trong kịch bản xấu nhất, thương mại toàn cầu có thể giảm thấp nếu các biện pháp bảo hộ tiếp tục gia tăng.
Tác động từ chính sách thuế quan của Hoa Kỳ của Chính quyền Tổng thống Donald Trump đã áp dụng các mức thuế cao đối với hàng nhập khẩu từ nhiều quốc gia, đặc biệt là Trung Quốc, với mức thuế lên tới 145%. Điều này đã dẫn đến các biện pháp trả đũa từ các đối tác thương mại, gây ra sự gián đoạn trong chuỗi cung ứng và làm tăng chi phí cho doanh nghiệp và người tiêu dùng. Bất ổn địa chính trị và chuỗi cung ứng do các xung đột tại Ukraine và Trung Đông đã làm gián đoạn nguồn cung năng lượng và lương thực, gây áp lực lên giá cả và lạm phát toàn cầu.
Ngoài ra, các rủi ro như tấn công mạng và biến đổi khí hậu cũng đang đe dọa tính ổn định của chuỗi cung ứng toàn cầu. Bên cạnh đó, những biến động trong chuỗi cung ứng và chi phí vận tải như sự thiếu hụt nguyên liệu thô, tắc nghẽn tại các cảng và chi phí vận tải tăng cao đã làm gián đoạn chuỗi cung ứng toàn cầu. Ví dụ, chi phí vận chuyển hàng không từ Trung Quốc đến Hoa Kỳ đã giảm mạnh vào đầu năm 2025 nhưng sau đó tăng trở lại do biến động thị trường. Các nền kinh tế đang phát triển, đặc biệt là các nước kém phát triển, đang chịu tác động nặng nề từ sự suy giảm thương mại toàn cầu. Sự phụ thuộc vào xuất khẩu và nhập khẩu khiến các quốc gia này dễ bị tổn thương trước các biến động kinh tế và chính sách thương mại của các nước lớn.
Bối cảnh thương mại toàn cầu năm 2025 đang đối mặt với nhiều thách thức phức tạp, từ chính sách bảo hộ đến bất ổn địa chính trị và gián đoạn chuỗi cung ứng. Để ứng phó, các quốc gia cần tăng cường hợp tác đa phương, cải thiện cơ sở hạ tầng thương mại và xây dựng các chuỗi cung ứng linh hoạt và bền vững.
Tính đến tháng 10 năm 2024, Việt Nam đã ký kết và thực thi tổng cộng 19 Hiệp định Thương mại Tự do (FTA), trong đó có 17 FTA đã có hiệu lực và 2 FTA đang trong quá trình đàm phán5.
Việc ký kết và thực thi các FTA đã giúp Việt Nam mở rộng thị trường xuất khẩu, thu hút đầu tư nước ngoài và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Doanh nghiệp Việt ngày càng tận dụng tốt các cơ hội từ FTA. Việc ký kết và thực thi các FTA đã và đang mở ra nhiều cơ hội cho nền kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, để tận dụng tối đa lợi ích từ các FTA, Việt Nam cần tiếp tục cải cách thể chế, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và đẩy mạnh đổi mới sáng tạo.
Tham gia thương mại toàn cầu mang lại cho Việt Nam nhiều lợi thế chiến lược, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội và nâng cao vị thế quốc tế. Cụ thể:
Một là, Hội nhập thương mại giúp Việt Nam mở rộng thị trường xuất khẩu, tạo điều kiện thuận lợi cho hàng hóa trong nước tiếp cận nhiều khách hàng quốc tế, đồng thời tăng khả năng cạnh tranh trên trường quốc tế. Các Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) mà Việt Nam ký kết như EVFTA, CPTPP đã giúp giảm thuế quan và rào cản kỹ thuật, tạo lợi thế lớn cho các ngành xuất khẩu chủ lực như dệt may, thủy sản, nông sản và điện tử. Theo báo cáo của WTO (2023), các quốc gia có nền kinh tế mở cửa và tham gia sâu rộng vào thương mại toàn cầu thường có tốc độ tăng trưởng GDP cao hơn 1,5 – 2 lần so với mức trung bình toàn cầu6.
Hai là, thương mại toàn cầu tạo điều kiện cho chuyển giao công nghệ và nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp. Các doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia chuỗi giá trị toàn cầu phải đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế, từ đó thúc đẩy đổi mới sáng tạo, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm. Đây là cơ sở quan trọng để Việt Nam nâng cao sức cạnh tranh bền vững trên thị trường quốc tế.
Ba là, việc hội nhập tạo ra môi trường thuận lợi thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Việt Nam là điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tư nước ngoài nhờ chính sách mở cửa, vị trí địa lý thuận lợi và lực lượng lao động trẻ, chi phí cạnh tranh. FDI đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy công nghiệp hỗ trợ, phát triển hạ tầng, và tạo công ăn việc làm cho người lao động.
Bốn là, tham gia thương mại toàn cầu giúp Việt Nam đa dạng hóa nguồn cung nguyên liệu và sản phẩm, giảm thiểu rủi ro phụ thuộc vào một vài thị trường truyền thống, đồng thời nâng cao khả năng ứng phó với biến động kinh tế thế giới.
Như vậy, thương mại toàn cầu là đòn bẩy quan trọng để Việt Nam mở rộng thị trường, nâng cao năng lực cạnh tranh, thu hút đầu tư và duy trì ổn định kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, để phát huy tối đa lợi thế này, Việt Nam cần tiếp tục cải cách thể chế, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và phát triển cơ sở hạ tầng hiện đại, đồng thời thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong doanh nghiệp.
Thứ năm, về đổi mới sự lãnh đạo của Đảng.
Nghị quyết số 68 – NQ/TW ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân7 đã đề ra những định hướng và giải pháp quan trọng nhằm thúc đẩy sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân, qua đó tạo động lực mạnh mẽ cho sự phát triển thương mại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng. Cụ thể: Nghị quyết khẳng định kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế quốc gia, đóng vai trò tiên phong trong phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam có 2 triệu doanh nghiệp, ít nhất 20 doanh nghiệp lớn tham gia chuỗi giá trị toàn cầu, đóng góp khoảng 55 – 58% GDP và 35 – 40% tổng thu ngân sách nhà nước.
Nghị quyết đề ra các giải pháp cải cách thể chế, hoàn thiện pháp luật để bảo đảm quyền sở hữu, quyền tự do kinh doanh và quyền cạnh tranh bình đẳng của kinh tế tư nhân. Cụ thể, phấn đấu đến năm 2028, môi trường đầu tư kinh doanh của Việt Nam thuộc nhóm 3 quốc gia hàng đầu ASEAN và nhóm 30 quốc gia hàng đầu thế giới. Nghị quyết khuyến khích doanh nghiệp hình thành các chuỗi giá trị, chuỗi cung ứng; tăng cường liên kết giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) để tận dụng các lợi thế mà khu vực FDI mang lại cho nền kinh tế. Nghị quyết đề ra các cơ chế, chính sách nhằm khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nghiên cứu và phát triển (R&D), đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Doanh nghiệp được phép trích tối đa 20% lợi nhuận trước thuế để thành lập quỹ phát triển khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo. Nghị quyết đề ra các giải pháp hỗ trợ hộ kinh doanh cá thể chuyển đổi thành doanh nghiệp, như tối giản hóa các quy định về tài chính, kế toán cho các hộ kinh doanh; cung cấp các dịch vụ tư vấn, hỗ trợ pháp lý; cung cấp các nền tảng số miễn phí để họ ứng dụng công nghệ.
Việc thực hiện Nghị quyết số 68-NQ/TW sẽ tạo ra một môi trường kinh doanh thuận lợi, khuyến khích sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân, từ đó thúc đẩy sự phát triển thương mại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng.
4. Kết luận
Vận dụng triết học Mác trong phát triển thương mại ở Việt Nam hiện nay là hết sức cần thiết. Triết học Mác, với tư cách là nền tảng tư tưởng, phương pháp luận của chủ nghĩa xã hội khoa học, có ý nghĩa to lớn trong định hướng và phát triển các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có thương mại. Vận dụng triết học Mác vào thực tiễn thương mại ở Việt Nam không chỉ mang tính lý luận mà còn góp phần tạo ra những chuyển biến thực chất trong hoạch định chính sách, tổ chức hoạt động kinh tế và điều tiết thị trường trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng.
Chú thích:
1. C.Mác và Ph. Ăngghen toàn tập (1994). Tập 25 (Phần 1). H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 407.
2. Các tác phẩm kinh điển của C.Mác và Ph. Ăngghen. Tài liệu bồi dưỡng kiến thức kinh điển Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, NXB Lý luận Chính trị. Tr 261 – 263.
3. Hiệp định đối tác kinh tế toàn khu vực. https://trungtamwto.vn; truy cập ngày 06/6/2025.
4. Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU. https://trungtamwto.vn; truy cập ngày 06/6/2025;
5. Tổng hợp các FTA của Việt Nam tính đến tháng 10/2024. https://trungtamwto.vn; truy cập ngày 06/6/2025.
6. OECD (2023). Global Trade and Supply Chain Resilience. Paris: Organisation for Economic Co-operation and Development.
7. Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 về phát triển kinh tế tư nhân.
Tài liệu tham khảo:
1. Bộ Công Thương (2023). Báo cáo tổng quan về hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. H. NXB Công Thương.
2. Bộ Công Thương (2024). Báo cáo thực trạng nguồn nhân lực ngành thương mại. H. NXB Công Thương.
3. Bộ Công Thương (2024). Chiến lược phát triển thương mại bền vững đến năm 2030. H. NXB Công Thương.
4. Bộ Công Thương (2025). Quyết định số 516/QĐ-BCT ngày 28/2/2025 của Bộ trưởng về việc quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Quản lý và Phát triển thị trường trong nước.
5. Chính phủ (2025). Nghị định số 40/2025/NĐ-CP ngày 26/2/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Công Thương.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I, Tập II. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.