Doanh nghiệp đồng bằng sông Cửu Long và vai trò trong phát triển kinh tế nông nghiệp

TS. Hoàng Thị Thu Huyền
Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ

(Quanlynhanuoc.vn) – Qua khái quát về hiện trạng doanh nghiệp vùng đồng bằng sông Cửu Long, kết quả cho thấy, số lượng doanh nghiệp của vùng khá ít và đầu tư vào nông nghiệp còn hạn chế, vai trò của doanh nghiệp đối với phát triển kinh tế nông nghiệp của vùng cũng còn hạn chế, từ đó nghiên cứu đề xuất một số khuyến nghị chính sách nhằm tạo điều kiện để doanh nghiệp phát huy tốt hơn vai trò của mình. Các khuyến nghị tập trung vào: đổi mới tư duy và nhận thức về việc chuyển từ sản xuất nông nghiệp sang kinh tế nông nghiệp; tăng cường đầu tư công cho vùng đồng bằng sông Cửu Long, nhất là cơ sở hạ tầng giao thông; quy hoạch vùng nguyên liệu, chuỗi cung ứng nông sản; đầu tư khoa học công nghệ, vào các mô hình mới trong nông nghiệp; xây dựng mối liên kết chặt chẽ giữa các chủ thể trong chuỗi nông sản.

Từ khóa: Đồng bằng sông Cửu Long, vai trò doanh nghiệp, hiện trạng doanh nghiệp, kinh tế nông nghiệp.

1. Đặt vấn đề

Nông nghiệp đồng bằng sông Cửu Long là ngành kinh tế quan trọng, đóng góp trên 33% GDP nông nghiệp cả nước, 30% GDP của vùng (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 2023) và góp phần không nhỏ để phát triển nhanh và bền vững cho vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Điều này được khẳng định ngày càng mạnh mẽ hơn trong các chủ chương, chính sách của Đảng và Chính phủ. Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 02/4/2022 của Bộ Chính trị về “phương hướng phát triển kinh tế – xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” đề ra mục tiêu đến năm 2030 “vùng đồng bằng sông Cửu Long là vùng sinh thái, văn minh và bền vững, mang đậm bản sắc văn hóa sông nước; là trung tâm kinh tế nông nghiệp bền vững, năng động và hiệu quả cao của quốc gia, khu vực và thế giới trên cơ sở phát triển hệ thống các trung tâm đầu mối về nông nghiệp”.

Nghị quyết số 78-NQ/CP ngày 22/6/2022 ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW của Bộ Chính trị cũng nêu nhiệm vụ, giải pháp phát triển đồng bằng sông Cửu Long, trong đó có nêu: phát triển từ sản xuất nông nghiệp sang kinh tế nông nghiệp, sinh thái, bền vững với các sản phẩm trọng tâm là thủy sản, trái cây và lúa gạo gắn với các cụm ngành nông, lâm, thủy sản, các trung tâm đầu mối; tập trung nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp, phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ và nông nghiệp sạch gắn với xây dựng nông thôn mới và tăng cường liên kết đô thị – nông thôn.

Trong bối cảnh nhiều chủ trương, chính sách hướng đến phát triển vùng đồng bằng sông Cửu Long và ngành nông nghiệp như trên thì doanh nghiệp vùng đồng bằng sông Cửu Long đang đứng ở đâu trong quá trình phát triển này. Qua thực tế và kết quả nghiên cứu thường niên về kinh tế nông nghiệp đồng bằng sông Cửu Long (Hoàng Thị Thu Huyền, 2023, 2024), cho thấy, ở đồng bằng sông Cửu Long, số lượng doanh nghiệp nói chung khá ít và tăng tưởng chậm. Năm 2021 tổng số doanh nghiệp đang hoạt động ở đồng bằng sông Cửu Long chiếm 7,2% cả nước thì năm 2022 cũng chỉ tăng lên 7,3%, năm 2023 là 7,4%. Tỷ lệ doanh nghiệp nông nghiệp trong tổng số doanh nghiệp của vùng là rất nhỏ, năm 2016 chiếm 1,06% và chỉ tăng lên 2,41% năm 2021, cho dù những năm gần đây, đồng bằng sông Cửu Long đã có các dự án khởi nghiệp của trí thức trẻ trong lĩnh vực nông nghiệp. Thêm vào đó, hầu hết các doanh nghiệp khu vực đồng bằng sông Cửu Long kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp có quy mô nhỏ và vừa rất dễ bị tổn thương trước áp lực cạnh tranh về vốn, đầu tư đổi mới công nghệ, quản trị bộ máy và nguồn nhân lực.

Trong năm 2023, đồng bằng sông Cửu Long thu hút khoảng 100 nghìn tỷ đồng vốn đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, tăng 15% so với năm 2022. Dù vậy quy mô vốn vẫn chưa tương xứng với tiềm năng cũng như dư địa phát triển nông nghiệp của vùng. Thực trạng này phản ánh vai trò của doanh nghiệp trong phát triển kinh tế đồng bằng sông Cửu Long đang bị hạn chế. Trong khi đó, nông nghiệp đồng bằng sông Cửu Long hiện đang đứng trước những bối cảnh mới đòi hỏi không thể trì hoãn sự thay đổi. Trong đó nổi bật là bối cảnh biến đổi khí hậu và nguồn nước thượng nguồn sông Mê Công và bối cảnh kinh tế xanh, kinh tế số. Để có thể tồn tại và phát triển trong bối cảnh mới này thì kinh tế nông nghiệp với chủ yếu là những nông hộ nhỏ lẻ, thiếu liên kết, thiếu nguồn lực sẽ rất khó khăn nếu không có vai trò liên kết và dẫn dắt của các doanh nghiệp.

Chính vì thế, đánh giá hiện trạng doanh nghiệp đồng bằng sông Cửu Long và nhận định về vai trò của doanh nghiệp đối với kinh tế nông nghiệp đồng bằng sông Cửu Long, khuyến nghị chính sách nhằm phát huy vai trò doanh nghiệp trong phát triển kinh tế nông nghiệp đồng bằng sông Cửu Long có ý nghĩa thiết thực, góp phần hướng tới tham vọng về một đồng bằng “cất cánh” trong tương lai.

2. Khái quát doanh nghiệp đồng bằng sông Cửu Long

Nhìn vào số liệu về doanh nghiệp đang hoạt động của cả nước và các vùng, có thể thấy tỷ trọng doanh nghiệp của vùng đồng bằng sông Cửu Long là khá khiêm tốn. Năm 2012, 2022, 2023 tỷ trọng doanh nghiệp đồng bằng sông Cửu Long trong tổng thể lần lượt là 7,2%, 7,3%, 7,4% (Tổng cục Thống kê, 2021, 2022, 2023), chỉ cao hơn vùng Trung du và miền núi phía Bắc và vùng Tây Nguyên. Xét về mật độ doanh nghiệp trên một ngàn dân ở đồng bằng sông Cửu Long, năm 2021 là 3,5 doanh nghiệp, năm 2022 là 3,7 doanh nghiệp, năm 2023 là 3,9, thấp hơn nhiều so với trung bình cả nước (9,2) và chỉ cao hơn vùng Trung du và Miền núi phía Bắc.

Về doanh nghiệp thành lập mới giai đoạn 2019-2023, hầu hết các năm có tăng (trừ năm 2021 giai đoạn dịch Covid-19). Riêng năm 2023, vùng đồng bằng sông Cửu Long có số doanh nghiệp thành lập mới là 11.381 doanh nghiệp, với tổng số vốn đăng ký là 99.162 tỷ đồng, tạo ra việc làm cho 72.002 lao động. đồng bằng sông Cửu Long xếp thứ 4/6 vùng kinh tế về số doanh nghiệp thành lập mới (chiếm khoảng 7%) và xếp thứ 5 về số vốn đăng ký (chiếm trên 7%). Tuy nhiên, cũng trong năm 2023, ghi nhận 10.514 doanh nghiệp rời khỏi thị trường của vùng đồng bằng sông Cửu Long (bao gồm: doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, doanh nghiệp giải thể), chiếm 13% tỷ trọng của cả nước và tăng gần 20% số doanh nghiệp so với cùng kỳ. Bình quân một tháng có 876 doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường (Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2025).

Do vừa có doanh nghiệp thành lập mới và doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường, tính chung trong giai đoạn 2020 – 2024, số doanh nghiệp thực tăng hằng năm của vùng đồng bằng sông Cửu Long không được duy trì ổn định. Năm 2020 ghi nhận số doanh nghiệp tăng thực trong vùng là 4.231 doanh nghiệp, gấp đôi so với cùng kỳ. Nhưng đến năm 2021 giảm hơn 33% xuống còn 2.810 doanh nghiệp. Năm 2022, có sự cải thiện với 3.160 doanh nghiệp thực tăng thêm, tăng 12% so với cùng kỳ. Đặc biệt, năm 2023 có sự sụt giảm mạnh khi chỉ có 191 doanh nghiệp thực tăng thêm, tương đương chỉ khoảng 6% số doanh nghiệp ở năm 2022. Năm 2024 có sự phục hồi với 2400 doanh nghiệp thực tăng, nhưng cũng chỉ bằng khoảng ½ con số này của năm 2020 (trước đại dịch Covid-19 bùng phát).

Ngoài số lượng doanh nghiệp khiêm tốn, thì một trong những vấn đề lớn của đồng bằng sông Cửu Long là lượng vốn đầu tư của doanh nghiệp vào vùng. VICC (2023) trong Báo cáo thường niên kinh tế đồng bằng sông Cửu Long năm 2022 đã khuyến cáo “Nếu không có những nỗ lực cải thiện đúng mức, đồng bằng sông Cửu Long vốn đã bất lợi sẽ càng trở nên thất thế trong nỗ lực thu hút đầu tư và phát triển doanh nghiệp. Tăng trưởng đầu tư của đồng bằng sông Cửu Long tuy duy trì được sự ổn định, song vẫn thấp hơn so với cả nước, khiến tỷ trọng đầu tư của Vùng so với cả nước giảm từ 18,7% năm 2017 xuống còn 14,9% năm 2022. Trong giai đoạn 2017 – 2022, tốc độ tăng trưởng đầu tư thực trung bình của Vùng đạt 5,2%“.  

Đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): Về lượng vốn đầu tư FDI chảy vào đồng bằng sông Cửu Long thời gian qua không những không khởi sắc mà còn có xu hướng sụt giảm liên tục. Năm 2014-2015, tỷ trọng vốn đầu tư FDI của đồng bằng sông Cửu Long so với cả nước tăng từ 4,55% lên 15,17%, nhưng từ năm 2015 lại giảm liên tục đến năm 2019. Sau đó, đến năm 2020, mặc dù tỷ trọng tăng lên 19,69% so với mức 5,39% vào năm 2019, nhưng từ năm 2021 trở đi, tỷ trọng này lại tiếp tục giảm đến năm 2023 chỉ còn khoảng 3,18%.

Về số dự án, kết quả thống kê cho thấy, ngoài Long An do vị trí thuận lợi giáp với TP. Hồ Chí Minh và vùng Đông Nam Bộ, 12 tỉnh, thành phố còn lại của đồng bằng sông Cửu Long thu hút đầu tư kém hiệu quả, các dự án thu hút luôn dưới 10 dự án, có địa phương nhiều năm chỉ thu hút được 1-2 dự án, thậm chí có năm không thu hút được dự án nào. Đơn cử như năm 2023, đồng bằng sông Cửu Long thu hút được 142 dự án nhưng Long An chiếm đến 122 dự án (chiếm đến 84,7% tổng số dự án), còn lại hai tỉnh là Đồng Tháp và An Giang không thu hút được dự án nào (Đinh Tấn Phong, 2023).

Riêng đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, tỷ trọng đầu tư tư nhân vào nông nghiệp 10 năm qua của đồng bằng sông Cửu Long so với cả nước đang giảm dần. Nếu năm 2014, tỷ trọng đầu tư tư nhân vào nông nghiệp của vùng từ 34,7% thì sau 10 năm giảm xuống chỉ còn 27,9%, là một trong ba vùng có sự sụt giảm.

Cùng với đó, đầu tư FDI vào nông nghiệp đồng bằng sông Cửu Long không có xu hướng tăng trưởng rõ ràng, làm cho tỷ trọng đầu tư FDI vào nông nghiệp của đồng bằng sông Cửu Long trong tổng số cả nước từ 23,7% năm 2014 xuống còn 10,6% năm 2023 (VCCI, 2025). Thực trạng đầu tư tư nhân và FDI nói chung và ngành nông nghiệp nói riêng có xu hướng giảm sút, cho thấy có một mối liên hệ đến việc tiếp cận tín dụng của doanh nghiệp vùng đồng bằng sông Cửu Long gặp khó khăn, theo khảo sát của VCCI thì năm 2023 tỷ lệ doanh nghiệp gặp khó khăn trong tiếp cận tín dụng vùng đồng bằng sông Cửu Long có tỷ lệ 59%, cao thứ hai trong số 6 vùng (VCCI, 2024b). Như vậy, từ bức tranh tổng thể cho thấy, bên cạnh những đóng góp tích cực thì chính hiện trạng còn hạn chế như trên cũng là một trong những nguyên nhân làm giới hạn vai trò, đóng góp của doanh nghiệp đối với phát triển kinh tế nông nghiệp nói riêng và kinh tế cả vùng nói chung.

3. Vai trò của doanh nghiệp đồng bằng sông Cửu Long trong phát triển kinh tế nông nghiệp

Nông nghiệp đồng bằng sông Cửu Long giữ vị thế quan trọng đối với cả nước, là vùng cung cấp nguồn lương thực, thực phẩm lớn nhất, góp phần lớn đảm bảo an ninh lương thực quốc gia. Trong tăng trưởng của vùng có sự đóng góp của ngành nông nghiệp nhiều hơn các vùng khác. Năm 2024, sản lượng lúa đạt 24,2 triệu tấn chiếm 55,4% sản lượng lúa cả nước; Sản lượng trái cây 4,3 triệu tấn, chiếm 60% cả nước; sản lượng thủy sản khoảng 4,79 triệu tấn, chiếm 55,7% sản lượng thủy sản của cả nước. (Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2025). Nông nghiệp đồng bằng sông Cửu Long đóng góp khoảng 31% vào GDP nông nghiệp cả nước (An Nhiên, 2024). Trong đó, có vai trò tích cực của doanh nghiệp thể hiện trên nhiều khía cạnh.

(1) Doanh nghiệp trực tiếp và gián tiếp đóng góp vào tăng trưởng kinh tế vùng đồng bằng sông Cửu Long. Trước tiên là các doanh nghiệp có mã ngành nông nghiệp, bao gồm các ngành trực tiếp sản xuất nông nghiệp (trồng trọt, chăn nuôi (nuôi trồng thủy sản…) và dịch vụ nông nghiệp và các doanh nghiệp sản xuất, chế biến nông sản (lương thực, thực phẩm). Ngoài ra còn có các doanh nghiệp có các hoạt động sản xuất kinh doanh phục vụ nông nghiệp khác như sản xuất phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, thức ăn chăn nuôi, máy móc, công cụ sản xuất nông nghiệp… Doanh nghiệp còn đóng góp vào việc tạo việc làm, thu nhập trong khu vực nông nghiệp.

(2) Doanh nghiệp góp phần chuyển đổi cơ cấu sản xuất, mô hình sản xuất nông nghiệp phù hợp xu hướng và bối cảnh. Có thể nói doanh nghiệp là chủ thể nắm bắt thị trường, nhu cầu, xu hướng bối cảnh nhanh nhạy nhất. Trong bối cảnh biến đổi khí hậu của vùng đồng bằng sông Cửu Long, cùng với xu hướng chuyển đổi sản xuất nông nghiệp trên thế giới theo hướng bền vững, xanh, hữu cơ, tuần hoàn, doanh nghiệp đã tham gia trực tiếp và gián tiếp vào việc chuyển đổi cây trồng, vật nuôi và các mô hình nông nghiệp mới phù hợp.

(3) Doanh nghiệp góp phần phát triển khoa học công nghệ sản xuất, chế biến nông sản. Với lợi thế về nguồn vốn đầu tư, doanh nghiệp có điều kiện phát triển, nâng cấp công nghệ vào sản xuất, chế biến nông sản.Trong qua trình đó, các ứng dụng khoa học công nghệ, kỹ thuật, quy trình công nghệ cũng được tập huấn, chuyển giao các hợp tác xã, tổ hợp tác, nông dân, giúp sản xuất nông nghiệp đạt hiệu quả cao hơn và đáp ứng các yêu cầu ngày càng cao về môi trường, chất lượng, an toàn. Nhiều công nghệ, kỹ thuật trong sản xuất, chế biến nông sản mới, hiện đại đã và đang được áp dụng khá phổ biến ở đồng bằng sông Cửu Long.

(4) Doanh nghiệp giúp tạo giá trị gia tăng cho nông sản và xây dựng thương hiệu nông sản. Trong ngành nông nghiệp cả nước nói chung và đồng bằng sông Cửu Long nói riêng, sản xuất và bán nông sản thô vẫn khá phổ biến. Các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp chế biến xuất khẩu là nơi tạo ra giá trị gia tăng cho nông sản. Đặc biệt, doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng thương hiệu cho nông sản của đồng bằng sông Cửu Long bằng việc làm cầu nối quan trọng trong việc bảo đảm chất lượng sản phẩm nông nghiệp theo các tiêu chuẩn trong nước và quốc tế, thực hiện chiến lược xây dựng thương hiệu, đăng ký chỉ dẫn địa lý, xác nhận quyền sở hữu đối với thương hiệu…

(5) Doanh nghiệp góp phần phát triển thị trường trong nước và mở rộng xuất khẩu cho nông sản. Doanh nghiệp là chủ thể quan trọng trong chế biến và tiêu thụ nông sản, đồng thời kết nối thị trường với người sản xuất. Từ nhiều năm qua, rất nhiều mặt hàng nông sản đồng bằng sông Cửu Long có mặt trên thị trường quốc tế, đạt kinh ngach xuất khẩu cao thông qua marketing và xuất khẩu của các doanh nghiệp.

(6) Liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị, hỗ trợ phát triển kinh tế hợp tác và kinh tế nông hộ. Kinh doanh theo chuỗi giá trị phổ biến trên thế giới và phù hợp với điều kiện sản xuất ở đồng bằng sông Cửu Long. Doanh nghiệp vừa là người dẫn dắt vừa là cầu mối liên kết với các chủ thể khác trong chuỗi như hợp tác xã, tổ hợp tác, nông hộ, tạo ra một chuỗi giá trị bền vững trong sản xuất nông nghiệp. Doanh nghiệp ở đồng bằng sông Cửu Long đóng vai trò then chốt trong việc xây dựng và phát triển các chuỗi giá trị nông nghiệp, từ khâu sản xuất, chế biến, đến phân phối và tiêu thụ sản phẩm. Trong đó, bao gồm cả các khâu trước sản xuất như vật tự, giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, trong sản xuất như hỗ trợ kỹ thuật, công nghệ, quy trình, sau sản xuất là các dịch vụ logistic, bảo đảm cho tiêu thụ sản phẩm. Các doanh nghiệp trong nông nghiệp vì thế còn hỗ trợ cho sự phát triển của kinh tế hợp tác và kinh tế nông hộ.

Tuy nhiên, vai trò của doanh nghiệp trong phát triển kinh tế nông nghiệp của vùng vẫn còn hạn chế, thể hiện trên một số khía cạnh: Đóng góp của doanh nghiệp vào tăng trưởng ngành nông nghiệp và tăng trưởng chung vùng chưa cao do đầu tư vào ngành còn nhỏ, tỷ trọng thấp. Trong chuỗi giá trị nông sản, vai trò chính trong khâu đầu ra của kinh doanh theo chuỗi giá trị là doanh nghiệp, tuy nhiên sự tham gia với tư cách chủ thể kinh doanh và với tư cách dẫn dắt chuỗi của doanh nghiệp đối với một số loại nông sản chính của vùng chưa đều. Nhìn chung thì kinh doanh theo chuỗi giá trị ở đồng bằng sông Cửu Long vẫn khiêm tốn, cả chuỗi gắn với tiêu thụ trong nước và xuất khẩu. Doanh nghiệp mới chủ yếu tham gia vào khâu thu gom, sơ chế và tiêu thụ, chưa quan tâm đến toàn bộ chuỗi giá trị. Trong cung cấp vật tư đầu vào nông nghiệp (giống, thuốc bảo vệ thực vật, phân bón, thức ăn chăn nuôi…) nguồn nhập khẩu vẫn là chủ yếu. Sự hạn chế của doanh nghiệp trong lĩnh vực này làm cho sản xuất nông nghiệp bị phụ thuộc vào giá cả thị trường thế giới, vào tỷ giá ngoại hối, thiếu sự chủ động, thiếu tính bền vững. Trong công nghiệp chế biến nông sản, các doanh nghiệp đồng bằng sông Cửu Long có sự tham gia của doanh nghiệp chế biến theo chiều rộng và cả chiều sâu nhưng tập trung vào một số nông sản trong ngành thủy sản, lúa gạo, vẫn còn nhiều nông sản khác chưa được chú trọng chế biến sâu, tăng giá trị. Trong công nghiệp chế tạo các sản phẩm cơ khí nông nghiệp, doanh nghiệp vùng còn thiếu vắng. Máy móc nông nghiệp hiện vẫn chủ yếu nhập khẩu, kể cả máy móc đã qua sử dụng từ nhiều nước. Trong xu hướng nông nghiệp xanh nông nghiệp sinh thái, hữu cơ, tuần hoàn, công nghệ cao là xu hướng chung của cả thế giới và biến đối khí hậu ngày càng nghiêm trọng hơn ở vùng đồng bằng sông Cửu Long thì doanh nghiệp cần đi đầu và thể hiện rõ hơn vai trò của mình ở khía cạnh này.

4. Một số khuyến nghị

Một là, đổi mới về mặt tư duy và nhận thức về việc chuyển từ sản xuất nông nghiệp sang kinh tế nông nghiệp, cũng như về vai trò đầu mối, dẫn dắt phát triển nông nghiệp nói chung và đồng bằng sông Cửu Long nói riêng của doanh nghiệp. Tư duy này phải nhất quán từ trung ương xuống các địa phương, từ chủ thể ban hành, thực thi chính sách đến đối tượng thụ hưởng chính sách.

Hai là, chính phủ cần tăng cường đầu tư công cho vùng đồng bằng sông Cửu Long, đặc biệt là đầu tư cho cơ sở hạ tầng giao thông nhằm tạo tác động lan tỏa, thúc đẩy đầu tư của khu vực tư nhân và FDI vào vùng

Ba là, chính quyền các địa phương vùng đồng bằng sông Cửu Long cần quy hoạch vùng nguyên liệu, chuỗi cung ứng nông sản để tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, chế biến nông sản và hỗ trợ doanh nghiệp tham gia chuỗi giá trị.

Bốn là, doanh nghiệp đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp và và các lĩnh vực liên quan đến nông nghiệp cần đa dạng hóa đầu tư và tập trung đầu tư vào khoa học công nghệ, vào các mô hình nông nghiệp mới theo xu hướng và yêu cầu thị trường trong nước và quốc tế.

Năm là, hợp tác xã, nông hộ, doanh nghiệp cùng là các chủ thể trong chuỗi giá trị, doanh nghiệp vừa dẫn dắt chuỗi giá trị, vừa phải dựa vào hợp tác xã, nông hộ như là nơi cung cấp nguyên liệu đầu vào lớn nhất cho hoạt động sản xuất – kinh doanh. Vì vậy, doanh nghiệp cần chú trọng xây dựng mối liên kết chặt chẽ với hợp tác xã và nông hộ, hỗ trợ các chủ thể này cùng phát triển. Ngược lại hợp tác xã, nông hộ cần thay đổi tư duy làm ăn nhỏ lẻ, tham gia vào các chuỗi giá trị, nâng cao hiệu quả sản xuất, tăng thu nhập.

Tài liệu tham khảo:
1. An Nhiên (2024). Phát huy thế mạnh của vùng Đồng bằng sông Cửu Long trong xuất khẩu nông sản thế mạnh. https://www.tuyengiao.vn/phat-huy-the-manh-cua-vung-dong-bang-song-cuu-long-trong-xuat-khau-nong-san-the-manh-
2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2025). Các địa phương trong vùng Đồng bằng sông Cửu Long đóng góp rất lớn vào phát triển kinh tế – xã hội cả nước. https://www.mpi.gov.vn/portal/Pages/2025-1-3/Cac-dia-phuong-trong-vung-Dong-bang-song-Cuu-Long-pww99c.aspx.
3. Đinh Tấn Phong (2025). Điểm nghẽn nào cần gỡ để đồng bằng sông Cửu Long ‘hút’ vốn FDI? https://thesaigontimes.vn/diem-nghen-nao-can-go-de-dbscl-hut-von-fdi.
4. Hoàng Thị Thu Huyền (2023). Báo cáo tổng hợp nhiệm vụ cấp bộ “Kinh tế cùng đồng bằng sông Cửu Long năm 2023: Phát triển nông nghiệp trong bối cảnh mới”. Viện KHXH vùng Nam Bộ chủ trì.
5. Hoàng Thị Thu Huyền (2024). Báo cáo tổng hợp nhiệm vụ cấp bộ “Phát triển hình thức kinh tế hợp tác trong nông nghiệp ở vùng đồng bằng sông Cửu Long”. Viện KHXH vùng Nam Bộ chủ trì.
6. Báo cáo tình hình kinh tế – xã hội vùng đồng bằng sông Cửu Long năm 2023. https://vccimekong.com.vn/vi/ban-tin-vcci-can-tho/bao-cao-tinh-hinh-kinh-te-xa-hoi-vung-dbscl-nam-2023.
7. VICC, 2024a. Báo cáo Kinh tế thường niên Đồng bằng sông Cửu Long 2023 – Các nút thắt thể chế, quản trị và liên kết vùng.
8. VCCI, 2025. Báo cáo kinh tế thường niên đồng bằng sông Cửu Long 2024: Huy động đầu tư cho phát triển bền vững.