TS. Nguyễn Thanh Trang
ThS. Phùng Quang Thái
Trường Đại học Tiền Giang
(Quanlynhanuoc.vn) – Mô hình động lực “đẩy – kéo” đã được áp dụng rộng rãi trong phát triển kinh tế, đặc biệt là trong ngành Du lịch. Bài viết vận dụng mô hình lý thuyết này để phân tích thực trạng phát triển du lịch nội địa tại tỉnh Tiền Giang. Dựa trên dữ liệu thứ cấp, từ đánh giá những yếu tố thu hút và rào cản trong việc phát triển du lịch nội địa tại địa phương, kết quả nghiên cứu cho thấy, bên cạnh các động lực tự thân từ phía du khách (được gọi là động lực đẩy bao gồm: nhu cầu thư giãn, khám phá, trải nghiệm văn hóa,…) thì các yếu tố hấp dẫn tại điểm đến hay còn gọi là động lực kéo, như: cảnh quan, ẩm thực, giá cả, dịch vụ,… cũng đóng vai trò quyết định trong việc hình thành ý định của du khách. Bài viết đề xuất một số giải pháp nhằm tạo lực thu hút du khách đến với du lịch Tiền Giang.
Từ khóa: Du lịch nội địa; mô hình động lực “đẩy – kéo”; thu hút; phát triển du lịch; Tiền Giang.
1. Đặt vấn đề
Tỉnh Tiền Giang ở cửa ngõ của khu vực đồng bằng sông Cửu Long, có cơ hội thu hút được nhiều du khách nội địa đến tham quan, nghỉ dưỡng với những đặc trưng của vùng sông nước miệt vườn. Đặc biệt, Tiền Giang có vị trí địa lý thuận lợi, với trung tâm là thành phố Mỹ Tho chỉ cách TP. Hồ Chí Minh 70 km và cách thành phố Cần Thơ 100 km. Tuy nhiên, lượng khách nội địa đến với Tiền Giang vẫn chưa tương xứng với tiềm năng sẵn có. Trong báo cáo của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Tiền Giang cho thấy, về lĩnh vực du lịch, tỉnh đã đón 1,65 triệu lượt khách du lịch, tăng 17,8% so với cùng kỳ, với doanh thu từ hoạt động du lịch đạt 1.250 tỷ đồng, tăng 28,8% so với cùng kỳ, đạt 100% kế hoạch đề ra1 tăng so với năm trước nhưng vẫn thấp hơn mức trung bình của nhiều tỉnh trong khu vực, như: Bến Tre, Cần Thơ. Tình trạng này vẫn tiếp diễn, Tiền Giang vẫn xếp sau hai tỉnh lân cận cả về lượng khách lẫn doanh thu.
Trước thực tế này, việc nghiên cứu động lực du lịch để xác định nguyên nhân du khách chọn lựa điểm đến Tiền Giang rất cần thiết. Bài nghiên cứu áp dụng mô hình đẩy và kéo để phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi lựa chọn điểm đến của du khách nội địa; đồng thời, đề xuất các giải pháp khắc phục các tồn tại để nâng cao năng lực cạnh tranh của du lịch Tiền Giang.
2. Cơ sở lý thuyết và nghiên cứu liên quan
Học thuyết mô hình “đẩy – kéo” đầu tiên được nghiên cứu và giới thiệu vào năm 1966, khi khảo sát các yếu tố ảnh hưởng đến tình trạng di cư của con người (Lee, 1966)2. Cho đến nay, mô hình này được áp dụng rất rộng rãi, từ lĩnh vực giáo dục, kinh tế đến lĩnh vực du lịch, giải trí. Khi nghiên cứu về động cơ kéo và đẩy du khách nội địa đến Salatiga, Indonesia, Putlia (2019)3 đã kết luận có bốn yếu tố “đẩy”du khách đến với Salatiga, bao gồm: sự quan tâm đến giáo dục, không khí ở thành phố, không có nạn kẹt xe và động cơ cá nhân. Trong khi đó, có năm yếu tố “kéo”, bao gồm: không khí trong lành, yên tĩnh, mức chi phí thấp, an toàn và lòng khoan dung của những người theo đạo.
Tại Việt Nam, Trương và cộng sự (2019)4 cũng đã khảo sát ảnh hưởng của nhân tố kéo và đẩy đến lòng trung thành của du khách khi đến tham quan Hội An như một di sản văn hóa. Kết quả nghiên cứu cho thấy, du khách có nhu cầu được tìm hiểu lịch sử, đến thăm những điểm tham quan di sản – văn hóa, gặp gỡ những con người mới và giao lưu với cộng đồng địa phương. Khi khảo sát động cơ lựa chọn điểm đến của khách du lịch Hàn Quốc đến miền Trung, Việt Nam, nhóm tác giả Nguyễn và Phạm (2021)5 cũng đã kết luận du khách Hàn Quốc lựa chọn điểm đến do nhiều yếu tố thuộc về động cơ đẩy và động cơ kéo. Trong đó, kiến thức và khám phá, văn hóa và tôn giáo, giải trí và thư giãn, thông tin điểm đến, lịch trình chuyến đi hợp lý và thuận tiện, hình ảnh điểm đến… là những yếu tố được du khách quan tâm và có sự khác biệt rõ rệt theo lứa tuổi và nghề nghiệp khi so sánh yếu tố về động cơ “đẩy” và động cơ “kéo”.
Chính vì thế, nghiên cứu năng lực cạnh tranh điểm đến du lịch tỉnh Tiền Giang (Nguyễn, 2015)6cho thấy, năng lực cạnh tranh điểm đến của tỉnh ở mức khá. Du khách bị lôi cuốn do tài nguyên du lịch phong phú, nổi bật là du lịch sinh thái sông nước miệt vườn, cảnh quan trong lành, con người thân thiện, chính trị ổn định, an toàn, vị trí thuận lợi, giá cả phù hợp. Tuy nhiên, sản phẩm du lịch Tiền Giang chưa tạo được thương hiệu, chưa đa dạng, dịch vụ vui chơi giải trí cũng kém hấp dẫn, việc sử dụng tài nguyên chưa được khai thác, sử dụng hợp lý. Trần (2018)7 khẳng định có sáu nhân tố bao gồm cơ sở hạ tầng và dịch vụ hỗ trợ, giá cả hợp lý, chất lượng nguồn nhân lực, an ninh trật tự và an toàn, cơ sở vật chất kỹ thuật và môi trường tự nhiên ảnh hưởng đến sự phát triển du lịch của tỉnh.
Nhìn chung, các nghiên cứu về du lịch Tiền Giang hướng đến việc phát triển du lịch tại tỉnh hay tại các điểm tham quan, du lịch cụ thể mà chưa đề cập đến yếu tố khách du lịch và động cơ nào để làm cho du khách đến Tiền Giang. Từ tổng quan lý thuyết và các nghiên cứu liên quan, có thể khẳng định rằng,mô hình “đẩy – kéo” cung cấp một nền tảng lý luận chặt chẽ để phân tích hành vi du khách nội địa đến các điểm ở Tiền Giang. Việc vận dụng mô hình này trong bối cảnh thực tiễn sẽ giúp xác định rõ ràng hơn các ưu tiên chiến lược nhằm nâng cao năng lực thu hút khách du lịch và phát triển sản phẩm địa phương.
3. Phân tích thực trạng phát triển du lịch nội địa tại Tiền Giang
Tiền Giang có hệ thống sông ngòi dày đặc, khí hậu ôn hòa và đất đai màu mỡ, là nơi có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển du lịch sinh thái và du lịch trải nghiệm gắn với nông nghiệp. Tuy nhiên, trên thực tế, ngành Du lịch ở Tiền Giang vẫn đang đối mặt với nhiều rào cản để khai thác hiệu quả tiềm năng hiện có, đặc biệt trong phân khúc khách du lịch nội địa.
Theo báo cáo của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Tiền Giang (2023), phần lớn du khách là khách đi về trong ngày, thời gian lưu trú trung bình chỉ đạt khoảng 1,2 ngày/người, thấp hơn mức trung bình của vùng đồng bằng sông Cửu Long (1,7 ngày).
Một trong những nguyên nhân chính khiến Tiền Giang chưa tận dụng được tiềm năng là do thiếu một hệ thống sản phẩm du lịch được tổ chức chuyên nghiệp. Hầu hết các điểm tham quan như cù lao Thới Sơn, chợ nổi Cái Bè hay làng cổ Đông Hòa Hiệp vẫn chỉ khai thác theo hình thức tự phát, thiếu tính kết nối và chưa tạo được chuỗi trải nghiệm liền mạch cho du khách. Ngoài ra, cơ sở hạ tầng hỗ trợ du lịch, như: bãi đỗ xe, nhà vệ sinh công cộng, biển báo hướng dẫn… còn hạn chế, ảnh hưởng trực tiếp đến cảm nhận và sự hài lòng của du khách.
Về nhân lực, mặc dù tỉnh có tiềm năng phát triển du lịch cộng đồng nhưng đa số người dân địa phương chưa được đào tạo bài bản về kỹ năng giao tiếp, hướng dẫn, hay nghiệp vụ du lịch. Điều này dẫn đến tình trạng phục vụ thiếu chuyên nghiệp, khó tạo dựng ấn tượng tích cực cho khách lần đầu đến.
Thêm vào đó, công tác quảng bá và định vị hình ảnh du lịch Tiền Giang chưa được chú trọng đúng mức. Các kênh truyền thông chính thống ít có sự hiện diện thường xuyên của hình ảnh điểm đến, trong khi trên các nền tảng số như mạng xã hội, lượng nội dung về du lịch Tiền Giang còn rất hạn chế so với các địa phương lân cận. Điều này khiến cho Tiền Giang khó thu hút được nhóm khách trẻ, vốn là phân khúc nhạy cảm với hình ảnh truyền thông và xu hướng trải nghiệm.
Tuy nhiên, Tiền Giang vẫn sở hữu những tiềm năng lớn để thu hút du khách. Đặc biệt, có các vùng nông nghiệp với nhiều loại trái cây đặc sản như xoài cát Hòa Lộc, vú sữa lò rèn Vĩnh Kim, sầu riêng Ngũ Hiệp, khóm Tân Phước, sơ ri Gò Công, thanh long Chợ Gạo,.. Ngoài ra, Tiền Giang còn có nhiều món ăn nổi tiếng, đặc biệt là hủ tiếu Mỹ Tho, bánh canh bột xắt Cai Lậy, bún suông Gò Công,… Hơn thế nữa, Tiền Giang còn có nhiều cồn trên sông Tiền, phù hợp cho khai thác du lịch cộng đồng, du lịch nghỉ dưỡng,.. Đặc biệt, Tiền Giang còn có địa thế giáp biển, cụ thể là biển Tân Thành ở Gò Công. Điểm nổi bật ở Tiền Giang còn có Trại rắn Đồng Tâm, là khu vực duy nhất ở miền Nam mà du khách có thể tham quan khu vực nuôi và chế biến các sản phẩm từ rắn. Ngoài ra, Viện Cây ăn quả miền Nam và Thiền viện Trúc Lâm Chánh Giác cũng là một trong những điểm đến tiềm năng. Những yếu tố này, nếu được khai thác hiệu quả, sẽ trở thành những yếu tố kéo mạnh mẽ đối với khách du lịch.
4. Thảo luận và đề xuất
Mô hình động lực “đẩy – kéo” được sử dụng trong nghiên cứu này như một công cụ phân tích hành vi du khách nội địa đến Tiền Giang. Việc áp dụng mô hình này thể hiện rõ các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn điểm đến Tiền Giang. Bên cạnh đó, từ sự phân tích nêu trên sẽ giúp nhận diện rõ hơn những yếu tố mà các nhà quản lý du lịch địa phương cần chú trọng để gia tăng năng lực cạnh tranh.
Về phía động lực “đẩy”, nhu cầu thoát khỏi môi trường đô thị áp lực, tìm kiếm không gian yên bình, trải nghiệm văn hóa bản địa, kết nối với thiên nhiên và tìm hiểu những điều mới mẻ là các động lực Đẩy du khách tiềm năng thực hiện ý định đi du lịch. Tuy nhiên, theo nhận xét của nhiều du khách thì sản phẩm du lịch của Tiền Giang không thay đổi nhiều so với những năm trước. Do đó, để phát triển hơn nữa, Tiền Giang cần có những sản phẩm mới để hấp dẫn khách quay trở lại. Đây cũng là nhân tố Kéo du khách đến Tiền Giang. Nếu chỉ giữ nguyên sản phẩm du lịch sẵn có thì chỉ đáp ứng việc đáp ứng nhu cầu thoát ly của du khách mà chưa đáp ứng nhu cầu nâng cao kiến thức của khách du lịch. Thực tế, để du lịch phát triển thì điểm đến không thể can thiệp vào các động lực “đẩy”. Tuy nhiên, hiểu rõ các yếu tố có liên quan đến động lực “đẩy” sẽ giúp cho chiến lược “kéo” có hiệu quả hơn.
Xét nhân tố “kéo”, những lợi thế của Tiền Giang về địa lý, về tự nhiên (cảnh quan sông nước, vườn trái cây và ẩm thực truyền thống) vẫn chưa được khai thác một cách có hiệu quả. Những lợi thế đó chưa được tổ chức thành sản phẩm du lịch hoàn chỉnh để cho thấy sự khác biệt so với các tỉnh lân cận như Bến Tre hay Vĩnh Long. Việc thiếu hệ sinh thái dịch vụ hoàn chỉnh, tình trạng manh mún trong phát triển sản phẩm và hạn chế trong hoạt động truyền thông đã khiến Tiền Giang chưa tạo dựng được hình ảnh rõ ràng trong tâm trí du khách. Để giải quyết vấn đề này, du lịch Tiền Giang cần được quy hoạch lại hoàn chỉnh có hệ thống với các đặc trưng riêng biệt và các sản phẩm du lịch đặc thù. Đây là yếu tố kéo quan trọng, là điểm đến mục tiêu mà du khách hướng đến khi đã xác định nhu cầu phù hợp với đặc trưng của tỉnh.
Một điểm đáng chú ý là lượng khách nội địa đến Tiền Giang chủ yếu là khách đi về trong ngày, tỷ lệ khách lưu trú qua đêm còn thấp, kéo theo doanh thu từ du lịch không tương xứng với lượng khách. Đây là minh chứng cho sự thiếu hấp dẫn của các yếu tố kéo trong việc giữ chân du khách. Kết quả này phù hợp với nhận định của Yoon và Uysal (2005)8 về mối liên hệ giữa sự hài lòng, động lực và lòng trung thành của khách du lịch. Như vậy, Tiền Giang cần xây dựng thêm các sản phẩm du lịch đặc sắc, đặc biệt là sản phẩm du lịch về đêm nhằm tăng cường hoạt động cho du khách. Từ đó, du khách có thể lưu trú tại Tiền Giang và gia tăng doanh thu từ các hoạt động du lịch.
Bên cạnh đó, việc Tiền Giang chưa có chiến lược định vị hình ảnh rõ ràng cũng là một nguyên nhân khiến sức hút của tỉnh chưa đạt kỳ vọng. Trong khi các địa phương, như: Đà Lạt định vị rõ là “thành phố mộng mơ” hay Huế là “thành phố di sản”, Đồng Tháp ‘Thuần khiết như hồn sen’ hay Bến Tre với thương hiệu “Xứ dừa” thì Tiền Giang vẫn chưa định hình được bản sắc riêng độc đáo trong tâm trí du khách nội địa. Mặc dù gần đây, Tiền Giang có tổ chức lễ hội Văn hóa – Thể thao và Du lịch với chủ đề “Tiền Giang – Nơi cuối nguồn Mekong” (Phương Thanh, 2025)9. Đây là một bước tiến mới, tuy nhiên, điều này không giúp cho việc nhận diện thương hiệu du lịch Tiền Giang tốt hơn vì chưa thể hiện điểm mạnh, ưu thế của Tiền Giang so với các địa phương khác. Vì vậy, việc phát triển du lịch nội địa tại Tiền Giang cần được nhìn nhận như một tiến trình chiến lược lâu dài, đòi hỏi sự phối hợp giữa nhiều bên liên quan và phải được đặt trên nền tảng nghiên cứu khoa học về hành vi du khách.
5. Kết luận
Tiền Giang là một địa phương sở hữu nhiều lợi thế để phát triển du lịch nội địa, đặc biệt là trong bối cảnh nhu cầu du lịch ngắn ngày, du lịch sinh thái và trải nghiệm văn hóa đang ngày càng gia tăng trong xã hội hiện đại ngày nay. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, tỉnh vẫn chưa tận dụng hết tiềm năng sẵn có do thiếu sự đầu tư bài bản về hạ tầng, sản phẩm du lịch và chiến lược truyền thông. Việc tiếp cận vấn đề từ góc độ hành vi du khách thông qua mô hình “đẩy – kéo” đã giúp bài viết này chỉ ra những nguyên nhân quan trọng ảnh hưởng đến sự lựa chọn điểm đến của du khách nội địa.
Về mặt động lực “đẩy”, du khách ngày càng có nhu cầu thoát ly khỏi áp lực đô thị, tìm kiếm không gian xanh, sự yên tĩnh và các giá trị văn hóa địa phương. Những yếu tố này, trong điều kiện hiện nay, đều hiện diện tại Tiền Giang. Tuy nhiên, điều kiện cần là những yếu tố kéo đủ mạnh từ phía địa phương để thu hút và giữ chân du khách. Cần đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến du lịch, như: Famtrip, quảng bá sản phẩm du lịch qua các sự kiện lớn cũng như việc phát triển du lịch thông minh và số hóa các điểm đến, góp phần nâng cao chất lượng và thu hút khách du lịch.
Từ việc phân tích mô hình lý thuyết kết hợp với thực trạng phát triển du lịch tại Tiền Giang, bài viết đề xuất một số định hướng quan trọng. Trọng tâm là cần phát triển các sản phẩm du lịch mang tính đặc trưng địa phương, nâng cao chất lượng trải nghiệm của du khách thông qua cải thiện dịch vụ và hạ tầng; đồng thời, triển khai chiến lược truyền thông số hiệu quả để định vị lại hình ảnh du lịch của tỉnh. Nếu được thực hiện đồng bộ, các giải pháp này sẽ không chỉ gia tăng lượng khách du lịch nội địa đến Tiền Giang mà còn góp phần nâng cao giá trị kinh tế – xã hội từ ngành Du lịch, hướng tới sự phát triển bền vững trong tương lai.
Chú thích:
1. Tiền Giang: hoạt động văn hoá thể thao và du lịch với nhiều khởi sắc.https://tiengiang.gov.vn/chi-tiet-tin?/tien-giang-hoat-ong-van-hoa-the-thao-va-du-lich-voi-nhieu-khoi-sac/57671579
2. Lee E. S. (1966). A theory of migration, Demography, 3, 47-57.
3. Putlia, G. (2019). An Analysis of Push and Pull Travel Motivations of Local Tourists to Salatiga: A Case Study, In Proceedings of the 7th International Conference on Entrepreneurship and Business Management (ICEBM Untar 2018) pages 175-179.
4. Trương, T.T.H và cộng sự (2019). Ảnh hưởng của nhân tố đẩy và kéo đến lòng trung thành của du khách đối với điểm đến Hội An. Tạp chí Khoa học Đại học Huế: Kinh tế và Phát triển, 128 (5A), 147-167.
5. Nguyễn, T. L., & Phạm, H. M (2021). Đánh giá hành vi lựa chọn điểm đến của du khách nội địa.Tạp chí Du lịch Việt Nam, (21), 65–70.
6. Nguyễn, T.N.T. (2015). Nghiên cứu năng lực cạnh tranh điểm đến du lịch tỉnh Tiền Giang. Luận văn Thạc sĩ Du lịch, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
7. Trần, T.M.H. (2018). Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển du lịch sinh thái tỉnh Tiền Giang, Luận văn Thạc sĩ Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh.
8. Yoon, Y., & Uysal, M. (2005). An examination of the effects of motivation and satisfaction on destination loyalty. Tourism Management, 26(1), 45–56. https://doi.org/10.1016/j.tourman.2003.08.016.
9. Lễ hội Văn hóa – Thể thao và Du lịch tỉnh Tiền Giang lần thứ 2 năm 2025 với nhiều hoạt động phong phú, đa dạng. https://tiengiang.gov.vn/chi-tiet-tin?/le-hoi-van-hoa-the-thao-va-du-lich-tinh-tien-giang-lan-thu-2-nam-2025-voi-nhieu-hoat-ong-phong-phu-a-dang/58351309.
Tài liệu tham khảo:
1. Sở Văn hóa – Thể thao và Du lịch Tiền Giang (2023). Báo cáo tình hình phát triển du lịch năm 2022 và định hướng năm 2023.
2. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Tiền Giang (2025). Hội nghị tổng kết công tác năm 2024 và triển khai phương hướng, nhiệm vụ năm 2025 của ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
3. Dann G. M. (1977). Anomie, ego-enhancement and tourism. Annals of tourism research, 4(4), 184-194.