ThS. Nguyễn Thùy Trinh
ThS. Phạm Thị Khánh Hòa
Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam
(Quanlynhanuoc.vn) – Trong bối cảnh ngân hàng số và giao dịch trực tuyến ngày càng phổ biến, bảo mật thông tin khách hàng trở thành yếu tố sống còn với mọi tổ chức tài chính. Đây không chỉ là trách nhiệm pháp lý mà còn là chìa khóa để duy trì uy tín, niềm tin và phát triển bền vững. Chính vì vậy, việc tuân thủ các quy định pháp luật và áp dụng các công nghệ hỗ trợ bảo mật sẽ là những giải pháp chính cho hoạt động bảo mật thông tin khách hàng trong thời gian tới.
Từ khóa: Công tác văn thư, lưu trữ, quản lý con dấu, bảo mật thông tin, hoạt động ngân hàng.
1. Quy định về công tác văn thư
1.1. Khái niệm và đặc điểm về công tác văn thư
Trong quá trình hoạt động của mỗi cơ quan, tổ chức đều có chức năng, nhiệm vụ riêng nhưng tất cả các công việc, từ chỉ đạo, quản lý, điều hành đến thực hiện giải quyết công việc đối với tất cả các lĩnh vực kết thúc đều gắn liền với văn bản, tài liệu và hồ sơ công việc. Chính vì vậy, công tác văn thư, lưu trữ có vị trí vai trò ý nghĩa quan trọng đối với mỗi cơ quan, tổ chức.
Để khẳng định tầm quan trọng của công tác văn thư, lưu trữ, ngày 03/01/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Thông đạt số 1-C/VP gửi các Bộ trưởng của Chính phủ Lâm thời nghiêm cấm những hành động hủy bỏ, bán các công văn và hồ sơ cũ bởi đó là hành động có tính chất phá hoại. Những công văn, hồ sơ cũ là những tài liệu có giá trị, ý nghĩa đặc biệt to lớn “về phương diện kiến thiết quốc gia”. Do đó, việc lưu trữ công văn, tài liệu là một công tác hết sức quan trọng”. Công tác văn thư là công việc hành chính quan trọng của công ty, doanh nghiệp có thể liên quan đến các quy định của pháp luật. Do đó, khi thực hiện công tác văn thư cần tuân thủ nguyên tắc thực hiện theo quy định của pháp luật.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, công tác văn thư đang được điều chỉnh bởi Nghị định số 30/2020/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 05/3/2020 quy định về công tác văn thư. Văn bản này đã bãi bỏ Nghị định số 110/2004/NĐ-CP của Chính phủ về công tác văn thư và Nghị định số 09/2010/NĐ-CP của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 110/2004/NĐ-CP.
Về đối tượng áp dụng, khác với Nghị định số 110/2004/NĐ-CP, Nghị định số 30/2020/NĐ-CP nêu rõ đối tượng áp dụng là “cơ quan, tổ chức nhà nước và doanh nghiệp nhà nước (sau đây gọi chung là cơ quan, tổ chức)”. Đối với các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, trước đây là đối tượng áp dụng của Nghị định số 110/2004/NĐ-CP, theo Nghị định số 30/2020/NĐ-CP, các tổ chức này không phải là đối tượng áp dụng của Nghị định nhưng được căn cứ trên các quy định của Nghị định số 30/2020/NĐ-CP và quy định pháp luật liên quan để áp dụng phù hợp. Việc thu hẹp phạm vi, đối tượng áp dụng giúp cho công tác quản lý nhà nước về văn thư được tăng cường, tập trung, bảo đảm tính thống nhất trong chỉ đạo. Đồng thời, cũng tạo điều kiện cho các tổ chức không mang tính hành chính Nhà nước được chủ động trong việc xây dựng các văn bản phù hợp với tính chất, đặc điểm của từng loại hình tổ chức. Trong hoạt động ngân hàng, tùy theo đối tượng làm việc, công tác văn thư có thể bắt buộc phải áp dụng hoặc áp dụng phù hợp với các quy định, quy chế chuyên hang hoặc nội bộ.
Về nội dung của công tác văn thư, Điều 1 Nghị định số 30/2020/NĐ-CP đã chỉ rõ công tác văn thư bao gồm các công việc sau: soạn thảo, ký và ban hành các văn bản; quản lý các văn bản; lập hồ sơ và nộp lưu hồ sơ, tài liệu vào lưu trữ của cơ quan; quản lý và sử dụng con dấu, thiết bị lưu khóa bí mật trong công tác văn thư.
Như vậy, công tác văn thư là việc thực hiện các công việc chủ yếu liên quan đến văn bản, hồ sơ và tài liệu. Cần lưu ý là khái niệm văn bản được sử dụng ở đây là thông tin thành văn được truyền đạt bằng ngôn ngữ hoặc ký hiệu, hình thành trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức và được trình bày đúng thể thức, kỹ thuật theo quy định. Theo đó, văn bản được hiểu là các tài liệu, giấy tờ, hồ sơ được hình thành trong quá trình hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, các tổ chức kinh tế. Theo nghĩa này, các loại giấy tờ dùng để quản lý và điều hành các hoạt động của cơ quan, tổ chức như chỉ thị, thông tư, nghị quyết, quyết định, đề án công tác, báo cáo… đều được gọi là văn bản.
Nghị định số 30/2020/NĐ-CP quy định về 29 loại văn bản hành chính, bao gồm: “Nghị quyết (cá biệt), quyết định (cá biệt), chỉ thị, quy chế, quy định, thông cáo, thông báo, hướng dẫn, chương trình, kế hoạch, phương án, đề án, dự án, báo cáo, biên bản, tờ trình, hợp đồng, công văn, công điện, bản ghi nhớ, bản thỏa thuận, giấy uỷ quyền, giấy mời, giấy giới thiệu, giấy nghỉ phép, phiếu gửi, phiếu chuyển, phiếu báo, thư công”. Trong hoạt động ngân hàng, khái niệm văn bản bao gồm văn bản giấy và văn bản điện tử. “Văn bản điện tử” là văn bản dưới dạng thông điệp dữ liệu được tạo lập hoặc được số hóa từ văn bản giấy và trình bày đúng thể thức, kỹ thuật, định dạng theo quy định. Điều 5 Nghị định số 30 cũng quy định rõ văn bản điện tử có giá trị pháp lý như bản gốc văn bản giấy khi đáp ứng các điều kiện: (1) Được ký số bởi người có thẩm quyền và ký số của cơ quan tổ chức theo quy định pháp luật. (2) Chữ ký số trên văn bản điện tử phải đáp ứng đầy đủ các quy định của pháp luật.
Cùng với việc bổ sung quy định về văn bản điện tử, Nghị định số 30 cũng đã bổ sung các quy định tương ứng liên quan đến văn bản điện tử, như: việc quản lý văn bản đi, văn bản đến trên hệ thống, tiếp nhận, cấp số, trình, chuyển giao và lưu văn bản điện tử; các quy định về chữ ký số của người có thẩm quyền và chữ ký số của cơ quan, tổ chức trên văn bản điện tử; về quản lý thiết bị lưu khóa bí mật và chữ ký số … Đây là các quy định pháp lý có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện văn thư điện tử, quản lý và điều hành qua mạng, ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động công vụ, đẩy mạnh xây dựng Chính phủ điện tử và hội nhập quốc tế.
1.2. Yêu cầu quản lý đối với công tác văn thư
Công tác văn thư là hoạt động nghề nghiệp mang tính chất sự vụ, thường xuyên, liên tục vàcần được bảo đảm một số yêu cầu như: văn bản của cơ quan phải được soạn thảo, ban hành đúng trình tự, thẩm quyền, thủ tục với hình thức, thể thức trình bày theo quy định. Tất cả văn bản đi và đến của cơ quan, tổ chức phải được quản lý tại Văn thư cơ quan, trừ những loại văn bản được đăng ký riêng theo quy định. Văn bản đi và đến được đăng ký, phát hành hay chuyển giao ngày nào cần được thực hiện trong ngày hôm đó, chậm nhất là ngày làm việc tiếp theo. Văn Bản đến có các mức độ khẩn: “Hỏa tốc”, “Thượng khẩn” và “Khẩn” (gọi chung là văn bản khẩn) phải được đăng ký, trình và chuyển giao ngay sau khi nhận được. Văn bản phải được cập nhật trạng thái gửi, nhận, xử lý. Người được giao giải quyết, theo dõi công việc của cơ quan, tổ chức có trách nhiệm lập hồ sơ về công việc được giao và nộp lưu hồ sơ, tài liệu vào lưu trữ cơ quan. Con dấu, thiết bị lưu khóa bí mật của cơ quan, tổ chức phải được quản lý, sử dụng theo quy định của pháp luật.
1.3. Quản lý văn bản
a. Quản lý văn bản đi
Văn bản đi cần được quản lý theo trình từ nhất định bao gồm các hoạt động:
Cấp số, thời gian ban hành văn bản: số và thời gian ban hành văn bản được lấy theo thứ tự và trình tự thời gian ban hành văn bản của cơ quan, tổ chức trong năm (bắt đầu liên tiếp từ số 01 vào ngày 01 tháng 01 và kết thúc vào ngày 31 tháng 12 hằng năm). Số và ký hiệu văn bản của cơ quan, tổ chức là duy nhất trong một năm, thống nhất giữa văn bản giấy và văn bản điện tử. Việc cấp số văn bản được quy định tạo điều kiện chủ động cho các cơ quan tổ chức tạo lập các hệ thống số văn bản đi, trên cơ sở thực tế số loại văn bản và số lượng văn bản ban hành của từng loại văn bản trong hoạt động của đơn vị. Đối với văn bản giấy, việc cấp số, thời gian ban hành được thực hiện sau khi có chữ ký của người có thẩm quyền, chậm nhất là trong ngày làm việc tiếp theo. Văn bản mật được cấp hệ thống số riêng. Đối với văn bản điện tử, việc cấp số, thời gian ban hành được thực hiện bằng chức năng của Hệ thống.
Đăng ký văn bản đi: Văn bản được đăng ký bằng Sổ đăng ký văn bản đi hoặc bằng Hệ thống. Văn bản được đăng ký bằng Hệ thống phải được in ra giấy đầy đủ các trường thông tin theo mẫu Sổ đăng ký văn bản đi, đóng sổ để quản lý. Văn bản mật được đăng ký theo quy định của pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước.
Nhân bản, đóng dấu cơ quan, tổ chức, dấu chỉ độ mật, mức độ khẩn, (đối với văn bản giấy); ký số của cơ quan, tổ chức (đối với văn bản điện tử).
Phát hành và theo dõi việc chuyển phát văn bản đi: Văn bản đi phải hoàn thành và phát hành trong ngày văn bản đó được ký, chậm nhất là trong ngày làm việc tiếp theo. Văn bản khẩn phải được phát hành và gửi ngay sau khi ký văn bản. Khi phát hành văn bản giấy từ văn bản được ký số của người có thẩm quyền, văn thư cơ quan thực hiện in văn bản đã được ký số của người có thẩm quyền ra giấy, đóng dấu của cơ quan, tổ chức để tạo bản chính văn bản giấy và phát hành văn bản. Văn bản đã phát hành nhưng có sai sót về nội dung phải được sửa đổi, thay thế bằng văn bản có hình thức tương đương.
– Lưu văn bản đi: Đối với văn bản giấy, bản gốc văn bản được lưu tại Văn thư cơ quan và phải được đóng dấu ngay sau khi phát hành, sắp xếp theo thứ tự đăng ký. Bản chính văn bản lưu tại hồ sơ công việc. Đối với văn bản đi điện tử, bản gốc phải được lưu trên Hệ thống của cơ quan, tổ chức ban hành văn bản. Cơ quan, tổ chức có Hệ thống đáp ứng theo quy định của pháp luật thì sử dụng và lưu bản gốc văn bản điện tử trên Hệ thống thay cho văn bản giấy. Cơ quan, tổ chức có Hệ thống chưa đáp ứng theo quy định của pháp luật thì phải tạo bản chính văn bản giấy để lưu. Điều này bảo đảm an toàn cho việc lưu các văn bản do cơ quan ban hành đề phòng rủi ro an ninh mạng.
b. Quản lý văn bản đến
Văn bản đến cần được quản lý theo trình từ nhất định bao gồm các hoạt động:
Tiếp nhận văn bản đến: Đối với văn bản giấy, bộ phận tiếp nhận phải kiểm tra số lượng, tình trạng bì, dấu niêm phong (nếu có), nơi gửi. Tất cả văn bản giấy đến (bao gồm cả văn bản có dấu chỉ độ mật) gửi cơ quan, tổ chức thuộc diện đăng ký tại bộ phận tiếp nhận của cơ quan phải được bóc bì, đóng dấu “ĐẾN”. Đối với văn bản gửi đích danh cá nhân hoặc tổ chức đoàn thể trong cơ quan, tổ chức thì chuyển cho nơi nhận (không bóc bì). Những bì văn bản gửi đích danh cá nhân, nếu là văn bản liên quan đến công việc chung của cơ quan, tổ chức thì cá nhân nhận văn bản có trách nhiệm chuyển lại cho Văn thư cơ quan để đăng ký. Đối với văn bản điện tử, bộ phận tiếp nhận phải kiểm tra tính xác thực và toàn vẹn của văn bản điện tử và thực hiện tiếp nhận trên Hệ thống. Bộ phận tiếp nhận văn bản có trách nhiệm thông báo ngay trong ngày cho cơ quan, tổ chức gửi về việc đã nhận văn bản bằng chức năng của Hệ thống.
Đăng ký văn bản đến: Văn bản được đăng ký bằng sổ hoặc bằng Hệ thống. Những văn bản đến không được đăng ký thì đơn vị, cá nhân không có trách nhiệm giải quyết, trừ những loại văn bản đến được đăng ký riêng theo quy định của pháp luật. Có hai hình thức đăng ký là: Đăng ký văn bản đến vào Sổ đăng ký văn bản đến hoặc Đăng ký văn bản đến bằng Hệ thống. Văn bản mật được đăng ký theo quy định của pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước.
Trình, chuyển giao văn bản đến: Văn bản phải được trình trong ngày, chậm nhất là trong ngày làm việc tiếp theo đến người có thẩm quyền chỉ đạo giải quyết và chuyển giao cho đơn vị hoặc cá nhân được giao xử lý. Trường hợp đã xác định rõ đơn vị hoặc cá nhân được giao xử lý, bộ phận tiếp nhận chuyển văn bản đến đơn vị, cá nhân xử lý theo quy chế công tác văn thư của cơ quan, tổ chức. Văn bản đến có dấu chỉ các mức độ khẩn phải được trình và chuyển giao ngay sau khi nhận được. Việc chuyển giao văn bản phải bảo đảm chính xác và giữ bí mật nội dung văn bản.
Giải quyết và theo dõi, đôn đốc việc giải quyết văn bản đến: Người đứng đầu cơ quan, tổ chức có trách nhiệm chỉ đạo giải quyết kịp thời văn bản đến và giao người có trách nhiệm theo dõi, đôn đốc việc giải quyết văn bản đến. Khi nhận được văn bản đến, đơn vị hoặc cá nhân có trách nhiệm nghiên cứu, giải quyết văn bản đến theo thời hạn quy định tại quy chế làm việc của cơ quan, tổ chức. Những văn bản đến có dấu chỉ các mức độ khẩn phải được giải quyết ngay.
c. Sao văn bản
Nghị định số 30/2020/NĐ-CP đã bổ sung các quy định về bản sao từ giấy sang điện tử và từ điện tử sang giấy, cách thức sao văn bản và thẩm quyền sao văn bản. Cụ thể:
Các hình thức và các bản sao (Điều 25):
+ Sao y từ văn bản điện tử sang văn bản giấy được thực hiện bằng việc in từ bản gốc văn bản điện tử ra giấy; sao y từ văn bản giấy sang văn bản điện tử được thực hiện bằng việc số hóa văn bản giấy và ký số của cơ quan, tổ chức;
+ Sao lục từ văn bản giấy sang văn bản điện tử; sao lục từ văn bản điện tử sang văn bản giấy và được thực hiện bằng việc in, chụp từ bản sao;
+ Trích sao từ văn bản giấy sang văn bản giấy; trích sao từ văn bản giấy sang văn bản điện tử; trích sao từ văn bản điện tử sang văn bản điện tử; trích sao từ văn bản điện tử sang văn bản giấy.
Thẩm quyền sao văn bản: Người đứng đầu cơ quan, tổ chức quyết định việc sao văn bản do cơ quan, tổ chức ban hành, văn bản do các cơ quan, tổ chức khác gửi đến và quy định thẩm quyền ký các bản sao văn bản.
1.4. Lập hồ sơ và lưu hồ sơ, tài liệu
Theo Nghị định số 30/2020/NĐ-CP, hồ sơ được hiểu là tập hợp các văn bản, tài liệu có liên quan với nhau về một vấn đề, một sự việc, một đối tượng cụ thể hoặc có đặc điểm chung, hình thành trong quá trình theo dõi, giải quyết công việc thuộc phạm vi, chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Việc lập hồ sơ là việc tập hợp, sắp xếp văn bản, tài liệu hình thành trong quá trình theo dõi, giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, cá nhân theo những nguyên tắc và phương pháp nhất định.
Theo đó, trong quy trình làm việc của mình, mỗi cơ quan, tổ chức thường xây dựng danh mục hồ sơ ứng với các hoạt động, công việc nhất định. Về nguyên tắc, danh mục hồ sơ do người đứng đầu cơ quan, tổ chức phê duyệt, được ban hành vào đầu năm và gửi các đơn vị, cá nhân liên quan làm căn cứ để lập hồ sơ. Các văn bản, tài liệu trong một hồ sơ phải có sự liên quan chặt chẽ với nhau và được sắp xếp đúng trình tự diễn biến của sự việc hoặc trình tự giải quyết công việc.
Người được giao nhiệm vụ có trách nhiệm thu thập, cập nhật tất cả văn bản, tài liệu hình thành trong quá trình theo dõi, giải quyết công việc vào hồ sơ đã mở, bao gồm tài liệu phim, ảnh, ghi âm (nếu có) bảo đảm sự toàn vẹn, đầy đủ của hồ sơ, tránh bị thất lạc. Người lập hồ sơ có trách nhiệm: rà soát lại toàn bộ văn bản, tài liệu có trong hồ sơ; loại ra khỏi hồ sơ bản trùng, bản nháp; xác định lại thời hạn bảo quản của hồ sơ; chỉnh sửa tiêu đề, số và ký hiệu hồ sơ cho phù hợp; hoàn thiện, kết thúc hồ sơ.
Đối với hồ sơ giấy: Người lập hồ sơ thực hiện đánh số tờ đối với hồ sơ có thời hạn bảo quản từ 5 năm trở lên và viết Mục lục văn bản đối với hồ sơ có thời hạn bảo quản vĩnh viễn; viết chứng từ kết thúc đối với tất cả hồ sơ.
Đối với hồ sơ điện tử: Người lập hồ sơ có trách nhiệm cập nhật vào Hệ thống các thông tin còn thiếu. Việc biên mục văn bản trong hồ sơ được thực hiện bằng chức năng của Hệ thống.
Hồ sơ, tài liệu nộp lưu vào Lưu trữ cơ quan phải đủ thành phần, đúng thời hạn và thực hiện theo trình tự, thủ tục quy định.
2. Quy định về lưu trữ
2.1. Khái niệm và đặc điểm về lưu trữ
Theo Luật Lưu trữ năm 2011, hoạt động lưu trữ là hoạt động thu thập, chỉnh lý, xác định giá trị, bảo quản, thống kê, sử dụng tài liệu lưu trữ. Người được giao giải quyết, theo dõi công việc của cơ quan, tổ chức có trách nhiệm lập hồ sơ về công việc được giao và nộp lưu hồ sơ, tài liệu vào lưu trữ cơ quan; trước khi nghỉ hưu, thôi việc hoặc chuyển công tác khác thì phải bàn giao đầy đủ hồ sơ, tài liệu cho người có trách nhiệm của cơ quan, tổ chức. Người đứng đầu cơ quan, tổ chức có trách nhiệm quản lý tài liệu lưu trữ của cơ quan, tổ chức; chỉ đạo, kiểm tra, hướng dẫn việc lập hồ sơ và nộp lưu hồ sơ, tài liệu vào lưu trữ cơ quan.
Người đứng đầu đơn vị của cơ quan, tổ chức có trách nhiệm tổ chức thực hiện việc lập hồ sơ, bảo quản và nộp lưu hồ sơ, tài liệu của đơn vị vào lưu trữ cơ quan. Trong đó, Tài liệu là vật mang tin được hình thành trong quá trình hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Tài liệu bao gồm văn bản, dự án, bản vẽ thiết kế, bản đồ, công trình nghiên cứu, sổ sách, biểu thống kê; âm bản, dương bản phim, ảnh, vi phim; băng, đĩa ghi âm, ghi hình; tài liệu điện tử; bản thảo tác phẩm văn học, nghệ thuật; sổ công tác, nhật ký, hồi ký, bút tích, tài liệu viết tay; tranh vẽ hoặc in; ấn phẩm và các vật mang tin khác. Tài liệu lưu trữ bao gồm bản gốc, bản chính; trong trường hợp không còn bản gốc, bản chính thì được thay thế bằng bản sao hợp pháp.
Theo Quy chế công tác văn thư và lưu trữ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam được ban hành kèm theo Quyết định số 415/QĐ-NHNN ban hành ngày 29/3/2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định: “Công tác lưu trữ bao gồm các công việc về thu thập, chỉnh lý, xác định giá trị, bảo quản, thống kê, tiêu hủy hồ sơ, tài liệu hết giá trị bảo quản và sử dụng tài liệu lưu trữ hình thành trong quá trình hoạt động của các đơn vị thuộc Ngân hàng nhà nước”.
Theo Luật Lưu trữ năm 2024, lưu trữ là hoạt động lưu giữ tài liệu nhằm gìn giữ và phát huy các giá trị của tài liệu lưu trữ, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân.
Đối tượng của hoạt động lưu trữ là tài liệu. Trong đó, tài liệu là thông tin gắn liền với vật mang tin có nội dung và hình thức thể hiện không thay đổi khi chuyển đổi vật mang tin. Tài liệu bao gồm tài liệu giấy, tài liệu trên vật mang tin khác và tài liệu điện tử.
Tài liệu lưu trữ giấy có thể là tài liệu được chuyển đổi từ tài liệu lưu trữ số. Theo đó, tài liệu lưu trữ giấy được chuyển đổi từ tài liệu lưu trữ số có giá trị pháp lý như tài liệu lưu trữ số khi đáp ứng các yêu cầu sau đây: thông tin trong tài liệu lưu trữ giấy bảo đảm toàn vẹn như thông tin trong tài liệu lưu trữ số; có thông tin để xác định được hệ thống thông tin và chủ quản hệ thống thông tin lưu trữ tài liệu lưu trữ số; có dấu hiệu nhận biết đã được chuyển từ tài liệu lưu trữ số và có chữ ký, dấu của cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện việc chuyển đổi.
Tài liệu lưu trữ trên vật mang tin khác được chuyển đổi sang tài liệu lưu trữ số để thuận tiện cho quá trình quản lý, sử dụng và phát huy giá trị.
Tài liệu lưu trữ điện tửbao gồm tài liệu lưu trữ số và các tài liệu lưu trữ điện tử khác. Tài liệu lưu trữ số là tài liệu được tạo lập bằng phương pháp dùng tín hiệu số bao gồm: tài liệu lưu trữ tạo lập dạng số và bản số hóa tài liệu lưu trữ. Tài liệu lưu trữ điện tử khác là tài liệu được tạo lập, gửi, nhận và lưu trữ bằng các phương tiện hoạt động dựa trên công nghệ thông tin, công nghệ điện, điện tử, từ tính, truyền dẫn không dây, quang học, điện từ hoặc công nghệ khác tương tự, không bao gồm tài liệu được tạo lập bằng phương pháp dùng tín hiệu số.
Bản số hóa tài liệu lưu trữ có giá trị pháp lý như tài liệu lưu trữ được số hóa khi đáp ứng các yêu cầu sau đây: thông tin trong bản số hóa tài liệu lưu trữ bảo đảm toàn vẹn như thông tin trong tài liệu lưu trữ được số hóa; có khả năng truy cập và sử dụng; có dấu hiệu nhận biết do được số hóa và được cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xác thực.
Số hóa tài liệu là quá trình chuyển đổi các tài liệu giấy, hình ảnh hoặc các định dạng không số hóa khác thành dạng điện tử có thể được lưu trữ, xử lý và truyền tải thông qua các thiết bị điện tử và mạng máy tính. Quá trình này thường bao gồm việc sử dụng các công cụ và phần mềm để quét, chụp ảnh hoặc nhập liệu từ tài liệu giấy, sau đó chuyển đổi nội dung này thành các tập tin điện tử như PDF, văn bản, hình ảnh số, video hoặc các định dạng khác tùy thuộc vào loại tài liệu.
Số hóa tài liệu lưu trữ đóng vai trò quan trọng trong doanh nghiệp với nhiều lợi ích đáng kể. Vai trò của quá trình số hóa tài liệu thể hiện như sau:
Tiết kiệm không gian và tài nguyên: số hóa tài liệu giúp giảm bớt việc sử dụng giấy và không gian lưu trữ vật lý, giúp tiết kiệm tài nguyên và giảm thiểu tác động đến môi trường.
Dễ dàng quản lý và truy cập: các tài liệu điện tử có thể được tổ chức, lưu trữ và quản lý dễ dàng hơn thông qua hệ thống máy tính. Người dùng có thể dễ dàng tìm kiếm và truy cập thông tin cần thiết.
Dễ dàng chia sẻ và truyền tải: tài liệu số có thể dễ dàng chia sẻ qua email, mạng xã hội, dịch vụ lưu trữ đám mây và các phương tiện truyền thông khác giúp tăng cường khả năng truyền tải thông tin.
Tích hợp và xử lý tự động: tài liệu số có thể được dễ dàng tích hợp vào các quy trình làm việc tự động và xử lý dữ liệu bằng phần mềm, giúp tối ưu hóa hiệu suất và nâng cao khả năng xử lý thông tin.
Nâng cao hiệu quả công việc: số hóa tài liệu cho phép truy cập thông tin mọi lúc, mọi nơi, làm việc từ xa, tăng cường tính linh hoạt và hiệu quả cho nhân viên.
Khám phá cơ hội mới: số hóa mở ra cơ hội cho việc đo lường, lưu trữ dữ liệu, cùng với việc phát triển các công nghệ mới, giải quyết những vấn đề mà trước đây không thể xử lý được.
Một số đặc điểm và yêu cầu cơ bản đối với hoạt động lưu trữ được thể hiện như sau: tài liệu được nộp là bản gốc, bản chính; trường hợp không còn bản gốc, bản chính thì được thay thế bằng bản sao hợp pháp; phản ánh đúng chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, đơn vị; bảo đảm đầy đủ tài liệu, có sự liên quan chặt chẽ và phản ánh đúng trình tự diễn biến của sự việc hoặc trình tự giải quyết công việc. Đối với hồ sơ giấy phải đáp ứng yêu cầu quy định, phải có tiêu đề hồ sơ, số và ký hiệu hồ sơ, thời hạn lưu trữ hồ sơ, người lập hồ sơ, thời gian bắt đầu, thời gian kết thúc; đánh số tờ; lập danh mục tài liệu đối với hồ sơ lưu trữ vĩnh viễn. Đối với hồ sơ, tài liệu điện tử phải được thu nộp theo quy trình, tiêu chuẩn, cấu trúc dữ liệu hồ sơ, tài liệu nộp được kiểm tra xác thực và truyền nhận trong môi trường điện tử an toàn. Thời hạn nộp hồ sơ, tài liệu vào lưu trữ hiện hành tối đa là 01 năm, tính từ năm kết thúc công việc.
2.2. Thời hạn lưu trữ hồ sơ, tài liệu
Tùy theo đặc điểm, hoạt động cụ thể của từng cơ quan, tổ chức, hồ sơ, tài liệu có thể bắt buộc phải lưu trữ trong một thời hạn nhất định theo quy định của pháp luật hoặc được lưu trữ trong thời hạn theo mục đích sử dụng riêng của cơ quan, tổ chức.
Về phân loại, thời hạn lưu trữ hồ sơ, tài liệu bao gồm lưu trữ vĩnh viễn và lưu trữ có thời hạn. Trong đó, hồ sơ, tài liệu lưu trữ vĩnh viễn bao gồm: tài liệu lưu trữ có giá trị đặc biệt; hồ sơ, tài liệu về đường lối, chủ trương, chính sách, cương lĩnh, chiến lược; chương trình mục tiêu quốc gia, đề án, dự án quan trọng, trọng điểm quốc gia; hồ sơ, tài liệu lưu trữ vĩnh viễn khác theo quy định của luật có liên quan và của cơ quan có thẩm quyền.
Hồ sơ, tài liệu lưu trữ có thời hạn là hồ sơ, tài liệu không thuộc trường hợp lưu trữ vĩnh viễn. Thời hạn lưu trữ hồ sơ, tài liệu được tính theo năm, tối thiểu là 2 năm và tối đa là 70 năm kể từ năm kết thúc công việc. Trường hợp hồ sơ có các tài liệu lưu trữ với thời hạn khác nhau thì thời hạn lưu trữ hồ sơ được xác định theo thời hạn của tài liệu có thời hạn lưu trữ dài nhất trong hồ sơ.
Đối với các lĩnh vực chuyên ngành sẽ có quy định riêng về thời hạn lưu trữ hồ sơ, tài liệu. Ví dụ, trong lĩnh vực kế toán, tại khoản 5 Điều 41 Luật Kế toán năm 2015 (được hướng dẫn chi tiết tại Nghị định số 174/2016/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Kế toán) có quy định về thời hạn lưu trữ đối với tài liệu kế toán, như sau:
a) Ít nhất là 5 năm đối với tài liệu kế toán dùng cho quản lý, điều hành của đơn vị kế toán, gồm cả chứng từ kế toán không sử dụng trực tiếp để ghi sổ kế toán và lập báo cáo tài chính.
b) Ít nhất là 10 năm đối với chứng từ kế toán sử dụng trực tiếp để ghi sổ kế toán và lập báo cáo tài chính, sổ kế toán và báo cáo tài chính năm, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
c) Lưu trữ vĩnh viễn đối với tài liệu kế toán có tính sử liệu, có ý nghĩa quan trọng về kinh tế, an ninh, quốc phòng.
Điểm đ khoản 2 Điều 18 Luật Hải quan năm 2014 quy định: “Lưu trữ hồ sơ hải quan đối với hàng hóa đã được thông quan trong thời hạn 5 năm kể từ ngày đăng ký tờ khai hải quan…”. Tại khoản 6 Điều 1 Thông tư số 39/2018/TT-BTC (sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 16a Thông tư số 38/2015/TT-BTC) việc lưu giữ chứng từ hải quan được thực hiện bằng các hình thức: “Bản chính có thể được thể hiện dưới dạng chứng từ điện tử hoặc chứng từ giấy… đối với chứng từ dưới dạng điện tử, người khai hải quan phải lưu bản điện tử”.
Trong lĩnh vực ngân hàng, trước đây, theo Thông tư số 43/2011/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước quy định thời hạn bảo quản hồ sơ, tài liệu lưu trữ trong ngành Ngân hàng, thời hạn chỉ áp dụng đối với văn bản giấy. Ví dụ, thời hạn lưu giữ hồ sơ thẩm định các dự án đầu tư là vĩnh viễn (được duyệt) và 5 năm (không được duyệt).
Thời hạn lưu giữ hồ sơ cho vay, thu nợ các tổ chức, cá nhân đã thu hết nợ: dài hạn (15 năm), trung hạn (10 năm), ngắn hạn (5 năm). Tuy nhiên, hiện nay, thông tư này đã hết hiệu lực và bị thay thế bằng Thông tư số 22/2021/TT-NHNN quy định thời hạn bảo quản hồ sơ, tài liệu hình thành trong hoạt động của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Thông tư số 22/2021/TT-NHNN chỉ được áp dụng đối với các đơn vị và cán bộ, công chức, viên chức thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; các tổ chức, cá nhân thực hiện các nhiệm vụ liên quan đến lưu trữ hồ sơ, tài liệu của Ngân hàng Nhà nước. Vì vậy, các ngân hàng khác có thể tự xây dựng quy chế riêng. Người đứng đầu cơ quan, tổ chức quy định danh mục, thời hạn lưu trữ cụ thể đối với hồ sơ, tài liệu hình thành trong quá trình hoạt động của cơ quan, tổ chức mình. Cơ quan, tổ chức cũng có thể huỷ tài liệu lưu trữ đối với: tài liệu lưu trữ hết thời hạn lưu trữ và Tài liệu lưu trữ trùng lặp. Khi hủy tài liệu lưu trữ phải bảo đảm hủy toàn bộ tài liệu và không thể khôi phục được. Thẩm quyền quyết định hủy tài liệu lưu trữ tại lưu trữ hiện hành thuộc về người đứng đầu cơ quan, tổ chức.
3. Quản lý, sử dụng con dấu và thiết bị lưu khóa bí mật trong công tác văn thư
Khi quản lý con dấu và thiết bị lưu khóa bí mật, người đứng đầu cơ quan, tổ chức có trách nhiệm giao cho bộ phận phụ trách quản lý, sử dụng con dấu, thiết bị lưu khóa bí mật của cơ quan, tổ chức theo quy định. Bộ phận phụ trách có trách nhiệm: bảo quản an toàn, sử dụng con dấu, thiết bị lưu khóa bí mật của cơ quan, tổ chức tại trụ sở cơ quan, tổ chức. Chỉ giao con dấu, thiết bị lưu khóa bí mật của cơ quan, tổ chức cho người khác khi được phép bằng văn bản của người có thẩm quyền. Việc bàn giao con dấu, thiết bị lưu khóa bí mật của cơ quan, tổ chức phải được lập biên bản. Phải trực tiếp đóng dấu, ký số vào văn bản do cơ quan, tổ chức ban hành và bản sao văn bản. Chỉ được đóng dấu, ký số của cơ quan, tổ chức vào văn bản đã có chữ ký của người có thẩm quyền và bản sao văn bản do cơ quan, tổ chức trực tiếp thực hiện.
Khi sử dụng con dấu, cán bộ chuyên trách phải đóng dấu phải rõ ràng, ngay ngắn, đúng chiều và dùng đúng mực dấu màu đỏ theo quy định. Khi đóng dấu lên chữ ký, dấu đóng phải trùm lên khoảng 1/3 chữ ký về phía bên trái. Các văn bản ban hành kèm theo văn bản chính hoặc phụ lục: Dấu được đóng lên trang đầu, trùm một phần tên cơ quan, tổ chức hoặc tiêu đề phụ lục. Việc đóng dấu treo, dấu giáp lai, đóng dấu nổi trên văn bản giấy do người đứng đầu cơ quan, tổ chức quy định. Dấu giáp lai được đóng vào khoảng giữa mép phải của văn bản hoặc phụ lục văn bản, trùm lên một phần các tờ giấy; mỗi dấu đóng tối đa 05 tờ văn bản. Thiết bị lưu khóa bí mật của cơ quan, tổ chức được sử dụng để ký số các văn bản điện tử do cơ quan, tổ chức ban hành và bản sao từ văn bản giấy sang văn bản điện tử.
4. Bảo mật thông tin khách hàng trong hoạt động ngân hàng
Bảo đảm bí mật thông tin khách hàng là một trong các vấn đề đặc biệt quan trọng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Trên thực tế, việc rò rỉ thông tin khách hàng sẽ khiến một số ngân hàng mất đi nhiều khách hàng.
Tại Việt Nam, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của của khoa học công nghệ và truyền thông, các ngân hàng cũng đã triển khai nhiều dịch vụ thanh toán mới phù hợp với xu thế thanh toán của các nước trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển các dịch vụ đó là các hành vi khai thác thông tin cũng tinh vi hơn, việc xâm phạm bí mật thông tin của khách hàng trong hoạt động ngân hàng càng trở nên phổ biến hơn. Một số hình thức xâm phạm bảo mật trong hoạt động ngân hàng, như tấn công bằng mã độc: Hacker cài mã độc vào các ứng dụng ngân hàng hoặc trang web giả mạo, từ đó đánh cắp thông tin đăng nhập và dữ liệu cá nhân của khách hàng. Lỗ hổng trong hệ thống quản lý dữ liệu. Một số ngân hàng vẫn chưa đầu tư đầy đủ vào các biện pháp bảo vệ dữ liệu. Hệ thống bảo mật yếu có thể dễ dàng bị tấn công và dữ liệu của khách hàng bị rò rỉ. Phishing là một hình thức tấn công phổ biến tại Việt Nam, trong đó hacker thường dụ dỗ người dùng qua tin nhắn giả mạo hay điện thoại, yêu cầu cung cấp mã OTP để đăng nhập. Sau khi có mã OTP, hacker sẽ đăng nhập vào tài khoản của người dùng và chuyển tiền.
Bảo mật thông tin khách hàng trong hoạt động ngân hàng là một vấn đề rất phức tạp vì nó liên quan đến quyền lợi của khách hàng, nghĩa vụ của ngân hàng và các bên thứ ba muốn tiếp cận thông tin đó để đáp ứng các mục đích của họ. Chính vì vậy, bảo mật thông tin khách hang đều được các ngân hàng hết sức quan tâm và chú ý. Đặc biệt, vấn đề bảo mật thông tin đã được pháp luật thừa nhận và thể hiện rất rõ trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật.
Trong Bộ luật Dân sự năm 2015, nghĩa vụ chung về bảo đảm bí mật thông tin khách hang được thể hiện tại Điều 38: “các bên trong hợp đồng không được tiết lộ thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình của nhau mà mình đã biết được trong quá trình xác lập, thực hiện hợp đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”.
Trong Luật Công nghệ thông tin năm 2006, việc bảo đảm an toàn, bí mật thông tin được quy định tại Điều 72: “Thông tin riêng hợp pháp của tổ chức, cá nhân trao đổi, truyền đưa, lưu trữ trên môi trường mạng được bảo đảm bí mật theo quy định của pháp luật.”
Trong Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2023, người tiêu dùng được bảo vệ thông tin, quyền, lợi ích hợp pháp khác khi tham gia giao dịch, sử dụng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ do tổ chức, cá nhân kinh doanh cung cấp (Điều 4).
Trong Bộ luật Hình sự năm 2015, một số tội danh liên quan đến bí mật thông tin, như: tội thu thập, tàng trữ, trao đổi, mua bán, công khai hóa trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng (Điều 291); tội cố ý làm lộ bí mật công tác; tội chiếm đoạt, mua bán hoặc tiêu hủy tài liệu bí mật công tác (Điều 361); tội vô ý làm lộ bí mật công tác, tội làm mất tài liệu bí mật công tác (Điều 362).
Trong Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024, quy định về bảo mật thông tin khách hàng được thể hiện tại Điều 13 như sau: người quản lý, người điều hành, nhân viên của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài không được tiết lộ thông tin khách hàng, bí mật kinh doanh của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải bảo đảm bí mật thông tin khách hàng của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài theo quy định của Chính phủ. Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài không được cung cấp thông tin khách hàng của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cho tổ chức, cá nhân khác, trừ trường hợp có yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của luật hoặc được sự chấp thuận của khách hàng.
Cũng theo Luật này, Điều 14 quy định tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải bảo đảm an toàn hệ thống thông tin, bảo mật dữ liệu và hoạt động liên tục theo quy định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước và quy định khác của pháp luật có liên quan. Việc bảo đảm an toàn và bảo mật này cũng áp dụng đối với các giao dịch điện tử (Điều 140). Đặc biệt, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 117/2018/NĐ-CP quy định về việc giữ bí mật, cung cấp thông tin khách hàng của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Theo đó, thông tin khách hàng của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài (sau đây gọi là thông tin khách hàng) là thông tin do khách hàng cung cấp, thông tin phát sinh trong quá trình khách hàng đề nghị hoặc được tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cung ứng các nghiệp vụ ngân hàng, sản phẩm, dịch vụ trong hoạt động được phép.
Thông tin khách hàng bao gồm thông tin định danh khách hàng; thông tin về tài khoản, thông tin về tiền gửi, thông tin về tài sản gửi, thông tin về giao dịch, thông tin về tổ chức, cá nhân là bên bảo đảm tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và các thông tin có liên quan khác.
Thông tin định danh khách hàng là thông tin sau đây:
(1) Đối với khách hàng cá nhân: họ và tên, mẫu chữ ký, chữ ký điện tử, ngày, tháng, năm sinh, quốc tịch, nghề nghiệp, địa chỉ nơi đăng ký thường trú, nơi ở hiện tại, địa chỉ nơi đăng ký cư trú ở nước ngoài đối với người nước ngoài, số điện thoại, địa chỉ thư điện tử, số, ngày cấp, nơi cấp chứng minh nhân dân hoặc thẻ căn cước công dân hoặc hộ chiếu (thông tin về thị thực đối với khách hàng cá nhân là người nước ngoài) của khách hàng hoặc của người đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền (gọi chung là người đại diện hợp pháp) và các thông tin có liên quan khác.
(2) Đối với khách hàng là tổ chức: tên giao dịch đầy đủ, tên viết tắt, giấy phép hoặc quyết định thành lập, giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc văn bản tương đương; địa chỉ đặt trụ sở chính, số điện thoại, số fax, địa chỉ thư điện tử và thông tin quy định tại điểm a khoản này của người đại diện hợp pháp và các thông tin có liên quan khác.
Thông tin về tài khoản của khách hàng là thông tin định đanh khách hàng và thông tin sau đây: tên tài khoản, số hiệu tài khoản, số dư tài khoản, thông tin liên quan đến giao dịch nộp tiền, rút tiền, chuyển tiền, nhận tiền của khách hàng và các thông tin có liên quan khác.
Thông tin về tiền gửi của khách hàng là thông tin định danh khách hàng và thông tin sau đây: thông tin liên quan đến giao dịch gửi tiền của khách hàng, số dư các loại tiền gửi theo quy định của pháp luật của khách hàng tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và các thông tin có liên quan khác.
Thông tin về tài sản gửi của khách hàng là thông tin về tài sản của khách hàng (vật, tiền, giấy tờ có giá, các quyền tài sản) gửi tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, thông tin về tài sản của khách hàng do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài nhận quản lý, bảo quản theo quy định của pháp luật, bao gồm thông tin định danh khách hàng và thông tin sau đây: tên loại tài sản, giá trị tài sản, chứng từ chứng minh quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng hoặc lợi ích hợp pháp đối với tài sản của khách hàng và các thông tin có liên quan khác.
Thông tin về giao dịch của khách hàng là thông tin phát sinh từ các giao dịch của khách hàng với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, bao gồm thông tin định danh khách hàng và thông tin sau đây: chứng từ giao dịch, thời điểm giao dịch, số lượng giao dịch, giá trị giao dịch, số dư giao dịch và các thông tin có liên quan khác.
Dựa trên các cơ sở pháp lý trên, có thể thấy pháp luật về bảo đảm bí mật thông tin của khách hàng của các ngân hàng a được ghi nhận ở nhiều cấp độ văn bản khác nhau. Đồng thời, cũng quy định đây là nghĩa vụ pháp lý phát sinh trong hoạt động nghề nghiệp của ngân hàng, là nghĩa vụ hợp đồng giữa khách hàng và ngân hàng. Bên cạnh đó, các văn bản hiện hành ít nhiều tạo ra hành lang pháp lý cho các chủ thể tham gia hoạt động ngân hàng thực hiện các quyền và nghĩa vụ bảo đảm bí mật thông tin khách hàng.
Đối với ngân hàng, khi yêu cầu khách hàng cung cấp các thông tin để phục vụ cho hoạt động thì ngân hàng phải có nghĩa vụ bảo đảm bí mật thông tin khách hàng mà họ có được, đồng thời ngân hàng cũng có quyền từ chối yêu cầu cung cấp thông tin của bên thứ ba nhằm bảo đảm lợi ích của khách hang.
Đối với khách hàng, khi tham gia giao dịch với ngân hàng sẽ có nghĩa vụ cung cấp các thông tin theo yêu cầu, đồng thời có quyền được bảo vệ các thông tin một cách hợp pháp và không thể bị xâm hại bởi bên thứ ba không có thẩm quyền tiếp cận thông tin.
Đối với bên thứ ba là các tổ chức cung cấp dịch vụ kỹ thuật hỗ trợ, họ có nghĩa vụ bảo đảm bí mật thông tin theo hợp đồng đã ký kết với ngân hàng.
Một điểm đáng ghi nhận khác là pháp luật cũng đã quy định các loại chế tài có thể áp dụng nhằm điều chỉnh các hành vi vi phạm nghĩa vụ bảo đảm bí mật thông tin của khách hàng; các biện pháp chế tài, như: bị xử lý kỷ luật, phạt vi phạm hành chính, truy cứu trách nhiệm hình sự, phải bồi thường thiệt hại sẽ được áp dụng tùy theo tính chất, mức độ của hành vi vi phạm.
Tuy nhiên, bên cạnh những điểm đã đạt được, pháp luật điều chỉnh về bảo đảm bí mật thông tin khách hàng trong hoạt động ngân hàng vẫn còn những hạn chế nhất định. Pháp luật chưa quy định rõ cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật nào được phép yêu cầu cung cấp thông tin khách hàng từ các ngân hàng. Cần có quy định liệt kê và hướng dẫn cụ thể chủ thể nào có quyền yêu cầu ngân hàng cung cấp thông tin khách hàng của mình, giới hạn thông tin ngân hàng phải cung cấp cho các cơ quan theo luật định, nghĩa vụ bảo đảm bí mật thông tin khách hàng của các chủ thể này. Bên cạnh đó, các quy định cần hướng dẫn rõ trong trường hợp nào, bằng hình thức nào được coi là có sự chấp thuận của khách hàng để ngân hàng có thể cung cấp thông tin cho các chủ thể có liên quan mà không vi phạm quyền của khách hàng cũng như có thể bảo vệ nhân viên trong trường hợp cung cấp thông tin khách hàng khi được khách hàng yêu cầu bằng lời nói hoặc thông qua các thông điệp dữ liệu, từ đó tạo điều kiện thuận lợi hơn trong việc giải quyết các tranh chấp phát sinh sau này.
Tài liệu tham khảo:
1. Quốc hội (2015). Bộ luật Dân sự năm 2015.
2. Quốc hội (2015). Bộ Luật Hình sự năm 2015.
3. Quốc hội (2015). Luật An toàn thông tin mạng năm 2015.
4. Quốc hội (2023). Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2023.
5. Quốc hội (2024). Luật các Tổ chức tín dụng năm 2024.
6. Quốc hội (2006). Luật Công nghệ thông tin năm 2006.
7. Chính phủ (2020). Nghị định số 30/2020/NĐ-CP ngày 05/3/2020 về công tác văn thư.
8. Chính phủ (2018). Nghị định số 117/2018/NĐ-CP ngày 11/9/2018 về việc giữ bí mật, cung cấp thông tin khách hàng của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài
9. Nguyễn Thị Kim Thoa (2016). Nghĩa vụ bảo mật thông tin khách hàng theo quy định pháp luật một số nước trên thế giới và kinh nghiệm cho Việt Nam. Tạp chí Khoa học pháp lý (7).