NCS. Lê Quốc
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
(Quanlynhanuoc.vn) – Đột phá thể chế để doanh nghiệp tư nhân Việt Nam phát triển mạnh trong kỷ nguyên mới là một yêu cầu cấp bách. Với mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam có 2 triệu doanh nghiệp thì đòi hỏi mỗi năm cần tăng thêm ít nhất là gần 200 ngàn doanh nghiệp. Để đạt được điều này, đòi hỏi phải có giải pháp đột phá, đổi mới căn bản tư duy, thể chế và cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính. Xây dựng môi trường đầu tư kinh doanh minh bạch, bình đẳng và thuận lợi nhất cho kinh tế tư nhân phát triển. Đưa chủ trương phát triển kinh tế tư nhân, doanh nghiệp tư nhân của Đảng và Nhà nước sớm đi vào cuộc sống và thành hiện thực.
Từ khóa: Thể chế, đột phá, kỷ nguyên vươn mình, doanh nghiệp tư nhân, rào cản, minh bạch, bình đẳng, thuận lợi nhất.
1. Đặt vấn đề
Đã gần 40 năm đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu có ý nghĩa lịch sử. GDP của Việt Nam đã đứng thứ 33 trên thế giới vào năm 2024, Việt Nam cũng đã tham gia nhiều hiệp định thương mại tư do (17 FTA). Tuy nhiên, với khát vọng vươn mình, nền kinh tế Việt Nam vẫn còn có dấu hiệu chậm phát triển, sức sản xuất trong nền kinh tế chưa được giải phóng, nguồn nhân tài, vật lực trong dân chưa được khơi dậy và khai thác hợp lý, các loại nguồn lực và sức sáng tạo trong xã hội chưa được huy động, sử dụng hiệu quả nên chưa có đóng góp thiết thực vào sự làm giàu cho đất nước. Vì vậy, năng suất lao động của Việt Nam còn rất thấp, chất lượng nguồn nhân lực chưa thực sự cao, nhiều doanh nghiệp có công nghệ lạc hậu. Hoạt động sản xuất – kinh doanh mới dừng ở mức gia công, lắp ráp, chưa tạo ra chuỗi giá trị lớn cho nền kinh tế.
Số doanh nghiệp Việt Nam ít hơn nhiều so với số lượng doanh nghiệp ở các nước trên thế giới, đi liền với đó là quy mô và chất lượng của doanh nghiệp Việt Nam cũng nhỏ hơn nhiều so với doanh nghiệp nước ngoài. Nguyên nhân của những tồn tại trên chính là chưa nhận thức rõ vai trò của kinh tế tư nhân; thể chế chưa được đổi mới, chưa tạo đột phá để kinh tế tư nhân và doanh nghiệp tư nhân phát triển.
2. Khái lược về thể chế phát triển doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam
Thực tiễn, rào cản lớn nhất cản trở kinh tế tư nhân, doanh nghiệp tư nhân phát triển chính là tư duy và thể chế còn lạc hậu, chậm đổi mới và không theo kịp với thông lệ quốc tế. Một thời gian dài Việt Nam có tư duy kỳ thị kinh tế tư nhân và doanh nghiệp tư nhân nên không được quan tâm cho phép phát triển. Hậu quả là kinh tế tư nhân và doanh nghiệp tư nhân không thể phát triển, nền kinh tế chung kém phát triển, đói nghèo và còn nhiều khó khăn.
Trải qua một quá trình khá dài, quan điểm của Đảng ta về phát triển kinh tế tư nhân và doanh nghiệp tư nhân được hình thành và hoàn thiện dần qua mỗi giai đoạn phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Qua đó, thể chế phát triển kinh tế tư nhân, doanh nghiệp tư nhân cũng được xây dựng và hoàn thiện nhưng còn chứa đứng nhiều hạn chế, yếu kém, cản trở. Quá trình nhận thức và hoàn thiện thể chế về doanh nghiệp tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta có thể tổng hợp lại là đã trải qua 5 giai đoạn: giai đoạn từ Đại hội Đảng lần thứ VI đến trước Hội nghị Trung ương 4 (khóa IX); giai đoạn từ Hội nghị Trung ương 5 (khóa IX) đến Đại hội Đảng lần thứ X; giai đoạn từ Đại hội Đảng lần thứ XI đến Hội nghị Trung ương 5 (khóa XII); giai đoạn từ Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 03/6/2017 Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đến tháng 4/2025. Đến nay, sau khi có Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 31/4/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân thì đã có nhiều điểm đột phá để phát triển.
Trong giai đoạn từ Đại hội Đảng lần thứ VI đến trước Hội nghị Trung ương 5 (khóa IX), trải qua gần 3 kỳ Đại hội (15 năm), Đảng đã khẳng định kinh tế tư nhân là thành phần kinh tế trong nền kinh tế nhiều thành phần của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong đó, kinh tế tư nhân sản xuất hàng hóa nhỏ (bao gồm thợ thủ công, nông dân cá thể, những người buôn bán và kinh doanh dịch vụ cá thể) và kinh tế tư bản tư nhân được hiểu là những thành phần kinh tế thuộc kinh tế tư nhân. Đồng thời, Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 05/4/1988 của Bộ Chính trị (khóa VI) về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp đã xác định hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ. Đó là bước nhận thức khởi đầu quan trọng, mở đường cho những bước đột phá mạnh hơn của kinh tế tư nhân ở Việt Nam.
Đến Đại hội VII của Đảng (năm 1991), Đảng khẳng định vị trí kinh tế tư nhân được phát triển, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất, theo sự quản lý, hướng dẫn của Nhà nước. Hơn nữa, trong giai đoạn này địa vị kinh tế của mỗi người dân được tự do kinh doanh theo pháp luật, được bảo hộ quyền sở hữu và thu nhập hợp pháp. Tiếp theo đó nhấn mạnh đến việc bổ sung, sửa đổi thể chế nhằm bảo đảm cho kinh tế tư nhân được phát huy, không hạn chế về quy mô và địa bàn trong những lĩnh vực mà pháp luật không cấm. Đây là thời điểm khởi đầu cho kinh tế tư nhân và doanh nghiệp tư nhân được cho phép phát triển.

Nhìn vào đồ thị 1.1 cho thấy, trước năm 1990, trong nền kinh tế Việt Nam không có doanh nghiệp tư nhân được đăng ký chính thức, vì thể chế, luật pháp trước đó không cho phép doanh nghiệp tư nhân được sản xuất – kinh doanh. Chỉ sau khi luật doanh nghiệp tư nhân ra đời năm 1990 thì năm 1991 mới bắt đầu có doanh nghiệp tư nhân được thành lập. Năm 1991 cả nước chỉ có 414 doanh nghiệp tư nhân (như vậy, trên khoảng 162 ngàn người dân mới có 1 doanh nghiệp tư nhân), năm 1992 là 5.189 doanh nghiệp tư nhân, năm 1995 là 15.276 doanh nghiệp tư nhân, đến năm 1999, cả nước có 28.700 doanh nghiệp tư nhân. Mặc dù, tốc độ tăng doanh nghiệp tư nhân tương đối cao trong giai đoạn 1991 – 1999, nhưng nếu so với quy mô dân số của đất nước thì số doanh nghiệp tư nhân trong nền kinh tế lúc này thực ra rất ít (khoảng 2.650 người dân mới có 1 doanh nghiệp tư nhân). Đặc biệt, sự phát triển các doanh nghiệp tư nhân mới tính về số lượng còn quy mô của các doanh nghiệp tư nhân chủ yếu là nhỏ và công nghệ lạc hậu.
Để doanh nghiệp tư nhân phát triển, Đại hội VIII (7/1996) của Đảng tiếp tục khẳng định tính nhất quán lâu dài trong phát triển doanh nghiệp tư nhân trong đường lối phát triển kinh tế nhiều thành phần. Từ Hội nghị Trung ương 5 (khóa IX) (năm 2001) đến Đại hội Đảng lần thứ X (năm 2006) đã chỉ ra mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Đó là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Đồng thời, tại Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX), với Nghị quyết số 14-NQ/TW ngày 18/3/2002 về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân, lần đầu tiên khái niệm doanh nghiệp tư nhân được Đảng xác định: “Kinh tế tư nhân gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân, hoạt động dưới hình thức hộ kinh doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp của tư nhân”1.
Nghị quyết số 14-NQ/TW đã có đóng góp quan trọng trong việc thúc đẩy doanh nghiệp tư nhân phát triển, khẳng định doanh nghiệp tư nhân đóng một vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế, qua đó góp phần tích cực hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN cũng như hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN. Điều đáng chú ý là tư duy, lý luận về phát triển doanh nghiệp tư nhân của Đảng tại Đại hội IX đã có những thay đổi căn bản, phù hợp với xu hướng phát triển mới của đất nước. Doanh nghiệp tư nhân được phát triển rộng rãi hơn trong các ngành nghề sản xuất – kinh doanh mà pháp luật không cấm. Đặc biệt, đã công nhận đảng viên được làm kinh tế. Đây là bước chuyển biến mạnh mẽ trong tư duy về kinh tế của Đảng khi công nhận sự cần thiết phát triển kinh tế tư nhân, doanh nghiệp tư nhân trong nền kinh tế và thừa nhận đảng viên được phép làm kinh tế tư nhân, doanh nghiệp tư nhân.
Giai đoạn tiếp theo về phát triển doanh nghiệp tư nhân phải kể đến sau Đại hội Đảng lần thứ X (năm 2006). Bức tranh về phát triển doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam được rõ nét hơn sau Đại hội X của Đảng, khi kinh tế tư nhân được xác định chính thức là thành phần kinh tế được khuyến khích phát triển, không hạn chế về quy mô. Đảng đã có những khẳng định mới về vai trò của kinh tế tư nhân khi coi kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành không thể thiếu trong nền kinh tế, có vị trí quan trọng đặc biệt và ý nghĩa chiến lược trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Như vậy, với sự khẳng định này của Đảng, doanh nghiệp tư nhân thực sự coi là lực lượng có những đóng góp rất lớn cho sự phát triển kinh tế – xã hội và hội nhập quốc tế của Việt Nam, cũng như là trở thành một trong những động lực phát triển kinh tế của đất nước góp phần bảo đảm cho việc duy trì tốc độ tăng trưởng GDP cao, tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước, tham gia giải quyết việc làm, xóa đói, giảm nghèo, phát triển nguồn nhân lực… góp phần quan trọng trong huy động các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển sản xuất – kinh doanh, tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng thu ngân sách nhà nước, tạo việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội.
Giai đoạn từ Đại hội Đảng lần thứ XI (năm 2011) đến Hội nghị Trung ương 5 (khóa XII) là giai đoạn có sự phát triển khá của doanh nghiệp tư nhân. Trong giai đoạn từ năm 2011 – 2016, số lượng doanh nghiệp tư nhân được thành lập mới tăng lên nhiều, đã có trên 110 ngàn doanh nghiệp tư nhân được thành lập mới. Đây là con số đáng khích lệ so với trước đây (khoảng 810 người dân có 01 doanh nghiệp tư nhân). Tỷ trọng vốn đăng ký bình quân cũng tăng mạnh khoảng 9,8 tỷ đồng (tăng 24,3% so với cùng kỳ 2016).Theo đó, kinh tế tư nhân đã được Đảng xác định là một động lực quan trọng của nền kinh tế. Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể cùng với kinh tế tư nhân là nòng cốt để phát triển một nền kinh tế độc lập, tự chủ2.
Tiếp đến Đại hội XI (01/2011), Đảng tiếp tục xác định phải hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển mạnh kinh tế tư nhân trở thành một trong những động lực của nền kinh tế; coi kinh tế tư nhân, trong đó có doanh nghiệp tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế đã phản ánh rõ nét bước tiến mới trong tư duy của Đảng về vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân, doanh nghiệp tư nhân trong nền kinh tế. Tuy nhiên, phải đến Nghị quyết Trung ương 5 (khóa XII) doanh nghiệp tư nhân Việt Nam mới có thể phát triển khá hơn nhờ thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN luôn khẳng định: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể cùng với kinh tế tư nhân là nòng cốt để phát triển một nền kinh tế độc lập, tự chủ.
Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 03/6/2017 Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đến nay, doanh nghiệp tư nhân Việt Nam đã thực sự được phát triển mạnh. Tiếp đến, ngày 10/10/2023, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 41-NQ/TW về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và đã khẳng định hơn quyết tâm phát triển doanh nhân và doanh nghiệp trong nền kinh tế Việt Nam, coi doanh nhân là lực lượng nòng cốt góp phần đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Kể từ năm 2017 đến nay, tình hình trong nước và thế giới có nhiều biến đổi. Thế giới đã quan tâm nhiều hơn đến việc ứng dụng những thành tựu công nghệ cao của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Đến năm 2017, tỷ trọng doanh nghiệp ngoài nhà nước, gọi chung là doanh nghiệp tư nhân đã chiếm gần 97% trong tổng số các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế Việt Nam. Năm 2021, sau khi đại dịch Covid-19 tạm ổn, đã có hơn 116.800 doanh nghiệp được thành lập mới và có 43.116 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động; hơn 54.900 doanh nghiệp ngừng kinh doanh và chỉ có hơn 16.700 doanh nghiệp giải thể. Tương tự, năm 2022, cả nước có 148.500 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng số vốn đăng ký là 1.590,9 nghìn tỷ đồng và tổng số lao động đăng ký là 981.300, tăng 27,1% về số doanh nghiệp, giảm 1,3% về vốn đăng ký và tăng 14,9% về số lao động so với năm trước.
Năm 2023, nhờ Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương tích cực thực hiện các giải pháp như: giảm mặt bằng lãi suất cho vay, ổn định thị trường ngoại hối; thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công; triển khai các gói tín dụng hỗ trợ các ngành, lĩnh vực; miễn, giảm, gia hạn thuế, phí, tiền sử dụng đất, hỗ trợ doanh nghiệp; nâng thời hạn visa điện tử cho khách du lịch; tháo gỡ khó khăn, vướng mắc của thị trường trái phiếu doanh nghiệp, bất động sản; công tác an sinh xã hội được quan tâm kịp thời, thiết thực nên số lượng doanh nghiệp đăng ký thành lập mới năm 2023 tăng cao, đạt 159.294 doanh nghiệp, (tăng 7,2% so với cùng kỳ năm 2022), gấp 1,2 lần mức bình quân giai đoạn 2017 – 2022.
Năm 2024, cả nước có hơn 157,2 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng số vốn đăng ký là hơn 1.547,0 nghìn tỷ đồng và tổng số lao động đăng ký gần 1.001,5 nghìn lao động, giảm 1,4% về số doanh nghiệp, giảm 1,8% về vốn đăng ký và giảm 5,4% về số lao động so với năm trước. Nhìn tổng thể từ năm 2000 đến năm 2024, có thể thấy số lượng doanh nghiệp thành lập mới đều tăng nhưng chưa được như mong đợi do gặp nhiều thách thức, khó khăn cả chủ quan lẫn khách quan.
Quý 1/2025, số doanh nghiệp tư nhân cũng không những không tăng mà còn giảm. Cụ thể, số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới là 36.400 doanh nghiệp, 36.543 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, 61.444 doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, 11.474 doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, 5.895 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, số lượng doanh nghiệp thực tế giảm 5.870 doanh nghiệp. Như vậy, tổng số doanh nghiệp trong nền kinh tế ở mức 940 ngàn doanh nghiệp, không tăng được bao nhiêu, đặc biệt doanh nghiệp tư nhân chưa thực sự tăng lên như mong đợi.

Ngày 04/5/2025, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân, trong đó nêu rõ quan điểm chỉ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia, là lực lượng tiên phong thúc đẩy tăng trưởng, tạo việc làm, nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh quốc gia, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng xanh, tuần hoàn, bền vững, theo đó nhấn mạnh: “Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao vừa là nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, vừa mang tính chiến lược lâu dài; xóa bỏ triệt để nhận thức, tư tưởng, quan niệm, thái độ định kiến về kinh tế tư nhân Việt Nam; đánh giá đúng vai trò quan trọng của kinh tế tư nhân đối với phát triển đất nước; tạo môi trường kinh doanh thông thoáng, minh bạch, ổn định, an toàn, dễ thực thi, chi phí thấp, đạt chuẩn quốc tế, bảo đảm khả năng cạnh tranh khu vực, toàn cầu…”3. Nghị quyết này chính là chìa khóa vàng mở ra cơ hội mới cho kinh tế tư nhân, doanh nghiệp tư nhân bứt phá đi lên.
Tuy nhiên, để kinh tế tư nhân có thể phát triển phải sớm khắc phục bằng được những yếu điểm nội tại, trong đó, đặc biệt là thể chế với việc coi kinh tế tư nhân là trụ cột, động lực quan trọng thực sự của nền kinh tế quốc dân.
3. Giải pháp đột phá để doanh nghiệp tư nhân phát triển trong kỷ nguyên vươn mình
Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân đã nêu rõ mục tiêu đến năm 2030: “Kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia; là lực lượng tiên phong trong phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số… Phấn đấu có 2 triệu doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế, 20 doanh nghiệp hoạt động/nghìn dân. Có ít nhất 20 doanh nghiệp lớn tham gia chuỗi giá trị toàn cầu; tốc độ tăng trưởng bình quân của kinh tế tư nhân đạt khoảng 10 -12%/năm, cao hơn tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế; đóng góp khoảng 55 – 58% GDP, khoảng 35 – 40% tổng thu ngân sách nhà nước, giải quyết việc làm cho khoảng 84 – 85% tổng số lao động; năng suất lao động tăng bình quân khoảng 8,5 – 9,5%/năm. Trình độ, năng lực công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số thuộc nhóm 3 nước đứng đầu ASEAN và nhóm 5 nước đứng đầu khu vực châu Á…”4 thành hiện thực đòi hỏi cần có ngay những giải pháp để kinh tế tư nhân, doanh nghiệp tư nhân phát triển.
Thứ nhất, để kinh tế tư nhân, doanh nghiệp tư nhân phát triển, Việt Nam cần có sự đột phá về tư duy, phá bỏ một cách dứt khoát rào cản. Cần tiếp tục xóa bỏ mọi nhận thức, tư tưởng, quan niệm, thái độ, định kiến về kinh tế tư nhân và kiên trì thay đổi tư duy tiểu nông, manh mún. Trong đó, cần phải thay đổi chính là tư duy và nhận thức, từ đó thay đổi cách ứng xử và hành động. Cụ thể, cần tháo bỏ mọi rào cản, hạn chế các lĩnh vực, các ngành nghề; cho phép doanh nghiệp tư nhân được quyền tham gia vào hoạt động sản xuất – kinh doanh trên mọi ngành nghề, lĩnh vực, kể cả các lĩnh có tính chất quốc phòng – an ninh (sản xuất vũ khí, quân trang quân dụng…) với một nguyên tắc tuân thủ luật pháp và bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc.
Một nền kinh tế không thể phát triển khi mà các nguồn lực và sức sản xuất luôn bị hạn chế, trói buộc. Sự trói buộc trong tư duy dẫn đến trói buộc trong thể chế, luật pháp, cơ chế chính sách và hành động, làm cho các nguồn lực và sức sản xuất bị vô hiệu hóa, xếp sang một bên không đi vào trong quá trình sản xuất, tạo ra của cải vật chất làm giàu cho xã hội. Trong mô hình tăng trưởng mới, cần lấy khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia làm động lực chủ yếu, kinh tế tư nhân (gồm cả khu vực tư nhân trong nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài) là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia; tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước đối với kinh tế tư nhân5.
Giải pháp quan trọng để doanh nghiệp tư nhân phát triển nhanh chính là cần có thể chế kinh tế minh bạch, rõ ràng, bảo vệ tốt quyền bất khả xâm phạm về tài sản, quyền sở hữu tài sản, quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp tư nhân một cách tường minh nhất, trong đó có tài sản của các doanh nghiệp tư nhân đều được bảo vệ một cách vô điều kiện, quyền bất khả xâm phạm của các chủ doanh nghiệp tư nhân được khẳng định và bảo vệ.
Thứ hai, giải phóng mọi nguồn lực, sức sản xuất để đất nước phát triển. Một nền kinh tế không thể trở nên giàu có nếu sản xuất không phát triển. Chỉ có sản xuất phát triển thì của cải vật chất trong nền kinh tế mới thực sự tăng lên. Tuy nhiên, một khi nguồn lực và sức sản xuất không được giải phóng thì đầu vào của sản xuất cũng không có cơ hội tăng lên và kết quả là đầu ra của sản xuất cũng không tăng lên.
Đã lâu nhiều nguồn lực và sức sản xuất có trong dân và trong xã hội bị bỏ quên. Nguồn lực và sức sản xuất trong dân và xã hội không chỉ có về mặt vật chất mà còn bao gồm một nguồn lực và sức sản xuất to lớn ở ý chí, tính đổi mới sáng tạo làm nên kỳ tích của một dân tộc. Giải phóng sức dân, sức sáng tạo, khát vọng và ý chí vươn lên của mọi người dân đi liền với giải phóng, huy động mọi nguồn lực và năng lực sản xuất trong dân và xã hội là con đường đúng đắn nhất để đất nước phát triển. Để điều này thành hiện thực đòi hỏi phải tạo điều kiện tối đa để các doanh nghiệp tư nhân được hình thành và phát triển, qua đó các nguồn lực và sức sản xuất trong dân và trong nền kinh tế mới thực sự được giải phóng và được sử dụng một cách hiệu quả.
Thứ ba, để doanh nghiệp tư nhân có thể phát triển và lớn mạnh đòi hỏi thể chế kinh tế Việt Nam cần phải được đổi mới và cải cách theo thông lệ quốc tế, loại bỏ mọi quy định làm méo mó thị trường và phù hợp với các nền kinh tế trên thế giới.
Bảo đảm quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp tư nhân theo thông lệ quốc tế là giải pháp đột phá để doanh nghiệp tư nhân có thể lớn mạnh. Điều này cũng xuất phát từ tư duy đó là tư duy khuyến khích người nghèo thoát nghèo, người trung bình trở thành khá, người khá giả trở thành giàu có và người giàu có trở thành giàu có hơn. Khơi dậy phong trào toàn dân thi đua làm giàu, nhà nhà làm giàu và làm giàu chính đáng là yêu nước. Từng bước xây dựng phong trào khởi nghiệp, phong trào đổi mới sáng tạo, đưa doanh nghiệp tư nhân trở thành các tổng công ty, tập đoàn tư nhân lớn mạnh, giàu có.
Thứ tư, phát triển mạnh mẽ các điều kiện về hạ tầng với phương châm phát triển hạ tầng cần đi trước một bước. Phát triển mạnh mẽ hạ tầng cứng (giao thông, đô thị, khu công nghiệp) đi liền với các hạ tầng mềm (thông tin, số liệu, dữ liệu) là những giải pháp đặc biệt quan trọng. Đẩy mạnh xây dựng hạ tầng giao thông, cụ thể là đẩy mạnh xây dựng các đường cao tốc liên tỉnh, trong tỉnh, kết nối tốt giữa các địa phương khác nhau giữa các tỉnh và các xã, phường trong tỉnh. Cần phát triển mạnh hạ tầng giao thông kết nối các địa phương trong tỉnh và ngoài tỉnh một cách tốt nhất, đặc biệt là hạ tầng giao thông kết nối các xã, phường trong tỉnh.
Thứ năm, phân cấp mạnh mẽ, giao quyền và khuyến khích các xã tạo thuận lợi để các doanh nghiệp tư nhân phát triển trên địa bàn, biến các xã, phường thành các khu đô thị phát triển. Tạo mọi điều kiện thuận lợi và khuyến khích các xã, phường phát triển kinh tế tư nhân, doanh nghiệp tư nhân bằng biện pháp để lại một phần đáng kể nguồn thu từ thuế cho các xã, phường, tỉnh, thành phố nơi có doanh nghiệp tư nhân phát triển. Đồng thời, các khoản đầu tư hạ tầng cứng và hạ tầng mềm có thể cho phép các địa phương được trích từ các khoản thuế thu được từ các doanh nghiệp hoạt động sản xuất – kinh doanh trên địa bàn.
Với cuộc cách mạng về sắp xếp bộ máy hành chính, đưa chính quyền địa phương thành chính quyền hai cấp (cấp tỉnh, thành phố và cấp xã, phường) là một đột phá mạnh mẽ để doanh nghiệp tư nhân có cơ hội phát triển. Theo đó, cần giao quyền cho các địa phương cho phép thành lập doanh nghiệp tư nhân và tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp tư nhân phát triển; cần có chính sách thi đua giữa các địa phương về việc phát triển doanh nghiệp tư nhân, coi đây là một chỉ tiêu quan trọng trong hệ thống các chỉ tiêu về phát triển kinh tế. Tất cả các công trình, dự án, nhà cửa, đất đai bị đình trệ lâu năm cần được khơi thông hoạt động, tránh lãng phí bằng biện pháp một phần có thể tư nhân hóa, đưa các dự án này vào hoạt động một cách sớm nhất, không để tiếp tục xảy ra tình trạng lãng phí.
Thứ sáu, phát triển nhanh, mạnh doanh nghiệp tư nhân nhưng không thể không quan tâm đến phát triển bền vững. Theo đó, các doanh nghiệp tư nhân cần được gắn chặt với các giá trị đạo đức và nhân văn, sản phẩm ngày một đẹp về mẫu mã, hình thức và chất lượng ngày một cao, phục vụ ngày càng tốt hơn nhu cầu của Nhân dân. Bên cạnh đó, đặt ra yêu cầu về các chế tài xử lý vi phạm đạo đức trong sản xuất – kinh doanh của nền kinh tế tư nhân, doanh nghiệp tư nhân cũng phải được chú trọng xây dựng và thực thi nghiêm minh.
Thứ bảy, cần có thước đo, chỉ tiêu đánh giá mức độ giải phóng nguồn lực và sức sản xuất của các địa phương, từ đó đánh giá về sự kém năng động trong chỉ đạo, điều hành và sự lãng phí của các địa phương, đánh giá năng lực, trình độ và tinh thần lãnh đạo của từng chính quyền địa phương và có biện pháp điều chỉnh, thay thế kịp thời.
4. Kết luận
Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân đã đề ra 8 nhóm nhiệm vụ và giải pháp lớn để phát triển kinh tế tư nhân, doanh nghiệp tư nhân. Tuy nhiên, để các nhiệm vụ và giải pháp này đi vào cuộc sống và sớm trở thành hiện thực, không chỉ ở trên giấy, đòi hỏi có sự chỉ đạo quyết liệt và hành động dứt khoát từ trung ương đến địa phương. Bên cạnh đó, việc chưa huy động tốt sức sáng tạo và đổi mới của người dân vào trong quá trình sản xuất, mà cụ thể là còn quá ít doanh nghiệp tư nhân được khởi nghiệp cũng là một trong những yếu kém của lãnh đạo, quản lý các bộ, ngành và các cấp chính quyền địa phương. Hằng năm, cần đánh giá rõ ràng, tường minh và có giải pháp khắc phục. Một số địa phương chỉ trông mong vào sự bao cấp kinh phí từ trung ương mà thiếu sự cố gắng, sáng tạo để tạo ra nguồn thu. Vì vậy, cũng cần phải xem xét lại năng lực, trách nhiệm của chính quyền cấp đó.
Phát triển kinh tế tư nhân, doanh nghiệp tư nhân ở các địa phương cần được xem là một chỉ tiêu để đánh giá về sự lãnh đạo, quản lý của các cấp chính quyền địa phương. Trong một thời gian nhất định mà ở địa phương không có doanh nghiệp tư nhân thành lập mới hoặc quá ít và kém phát triển thì cần xem xét lại cấp chính quyền địa phương đó.
Chú thích:
1. Ban Chấp hành Trung ương (2002). Nghị quyết số 14-NQ/TW ngày 18/3/2002 về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân.
2. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) (2022). Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 16/6/2022 về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể trong giai đoạn mới.
3, 4. Bộ Chính trị (2025). Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 về phát triển kinh tế tư nhân.
5. Phát biểu bế mạc của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng 11 (khóa XIII). https://baochinhphu.vn/phat-bieu-be-mac-cua-tong-bi-thu-to-lam-tai-hoi-nghi-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-11-khoa-xiii-102250412164327437.htm.
Tài liệu tham khảo:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I, II. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.
3. Nguyễn Ngọc Hà (2016). Phát triển doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Tạp chí Tài chính, kỳ II, tháng 10/2016.
4. Quốc hội (2025). Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển kinh tế tư nhân.
5. Tổng cục Thống kê (2022). Sách trắng doanh nghiệp Việt Nam năm 2022. H. NXB Thống kê.
6. Tổng Bí thư: Cần có chiến lược rõ ràng về phát triển kinh tế tư nhân. https://vnexpress.net/tong-bi-thu-can-co-chien-luoc-ro-rang-phat-trien-kinh-te-tu-nhan-4858247.html.
7. Tổng Bí thư: Phải xoá bỏ mọi thái độ, định kiến về kinh tế tư nhân. https://dantri.com.vn/xa-hoi/tong-bi-thu-to-lam-phai-xoa-bo-moi-thai-do-dinh-kien-ve-kinh-te-tu-nhan-20250307202726284.htm.