Một số biện pháp nâng cao năng lực lãnh đạo chuyển đổi số của Đảng bộ Học viện Hậu cần hiện nay

Thiếu tá Nguyễn Đỗ Đinh
Hệ 5, Học viện Chính trị, Bộ Quốc Phòng

(Quanlynhanuoc.vn) – Thực hành chuyển đổi số là xu thế tất yếu, khách quan, là nhiệm vụ quan trọng không thể chậm trễ; do đó, nâng cao năng lực lãnh đạo chuyển đổi số của Đảng bộ Học viện Hậu cần được cấp uỷ, tổ chức đảng, cán bộ chủ trì các cấp quan tâm, chú trọng, được tiến hành khẩn trương, bài bản để nhanh chóng tích hợp các số liệu, dữ liệu phục vụ hữu ích cho nhiệm vụ giáo dục, đào tạo, nghiên cứu khoa học, xây dựng chính quy của Học viện. Bài viết làm rõ năng lực lãnh đạo chuyển đổi số của Đảng bộ Học viện; thực trạng năng lực lãnh đạo chuyển đổi số của Đảng bộ Học viện; từ đó, đề xuất một số nội dung, biện pháp cơ bản nâng cao năng lực lãnh đạo chuyển đổi số của Đảng bộ Học viện Hậu cần trong tình hình mới.

Từ khoá: Năng lực lãnh đạo, chuyển đổi số, Đảng bộ Học viện Hậu cần.

1. Đặt vấn đề

Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “cùng với sự phát triển mạnh mẽ khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số là một trong ba trụ cột thực hiện phát triển nhanh, phát triển bền vững; đồng thời là một trong những khâu đột phá lớn, góp phần tạo bứt phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh”1. Nhận thức rõ xu thế và yêu cầu đó, những năm qua cấp ủy, tổ chức đảng các cấp trong Đảng bộ Học viện Hậu cần đã tích cực quán triệt, triển khai hiệu quả các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng về chuyển đổi số. Nhờ vậy, chất lượng giáo dục, đào tạo, nghiên cứu khoa học, xây dựng chính quy, rèn luyện kỷ luật, xây dựng cơ quan, đơn vị, khoa giáo viên trong sạch vững mạnh, toàn diện “Mẫu mực, tiêu biểu” đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra.

2. Năng lực lãnh đạo chuyển đổi số của Đảng bộ Học viện Hậu cần thời gian vừa qua

Năng lực lãnh đạo chuyển đổi số của Đảng bộ Học viện Hậu cần là nghiên cứu, nắm bắt, vận dụng các quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng và đề ra chủ trương, giải pháp lãnh đạo chuyển đổi số đúng đắn trong Đảng bộ, nhằm giải quyết, xử lý công việc một cách nhanh chóng, kịp thời, chính xác, tiết kiệm thời gian trong mọi công việc của các cơ quan, đơn vị, khoa giáo viên.

Năng lực lãnh đạo chuyển đổi số được biểu hiện cụ thể, thiết thực ở nhận thức, hành động trong thực hành ứng dụng vào soạn giáo án, bài giảng của đội ngũ giảng viên; truyền tải thông tin, dữ liệu trên hệ thống máy tính quân sự để cán bộ, giảng viên, học viên được tiếp cận nhanh nhất, không cần phải di chuyển, tự mình truy cập, hồi đáp những ý kiến của mọi quân nhân trong Học viện. Đó còn là năng lực, trình độ sử dụng công nghệ số của đội ngũ cán bộ quản lý các cấp đối với học viên nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, rèn luyện kỷ luật, nắm chắc tình hình tư tưởng về mọi mặt của đơn vị và giải quyết, xử lý kịp thời, hiệu quả, giữ vững sự đoàn kết, thống nhất trong nội bộ hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Từ đó, góp phần quan trọng vào việc nâng cao hơn nữa năng lực chuyển đổi số trong mọi hoạt động của Học viện; mỗi cán bộ, đảng viên, giảng viên, học viên, đều là chiến sĩ tiên phong trong thực hành chuyển đổi số, tạo thành những phong trào thi đua sôi nổi mạnh mẽ ở các cơ quan, đơn vị, khoa giáo viên.

Năng lực chuyển đổi số của Đảng bộ Học viện Hậu cần thể hiện ở sự thành thạo trong sử dụng công nghệ thông tin, kết nối các dữ liệu, văn bản ở các cơ quan, đơn vị, khoa giáo viên thành hệ thống đồng bộ, hoàn chỉnh, thống nhất, dễ khai thác; bảo đảm mọi cán bộ, đảng viên, giảng viên, học viên, chiến sĩ đều có thể truy cập được vào tìm hiểu các nội dung khi cần thiết. Để đạt được mục đích, nhiệm vụ đó, công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Thường vụ Đảng uỷ, Ban Giám đốc Học viên, cơ quan chuyên môn kỹ thuật, cấp uỷ, tổ chức đảng, cán bộ rất quan trọng. Xây dựng, ban hành chương trình, kế hoạch, hướng dẫn cơ quan, đơn vị, khoa giáo viên thực hành chuyển đổi số ngay trong từng nội dung, hoạt động cụ thể, hành động mạnh mẽ, quyết liệt để góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo của Học viện trong tình hình mới.

Nâng cao năng lực lãnh đạo chuyển đổi số của Đảng bộ Học viện Hậu cần là tổng thể cách thức, biện pháp của các tổ chức, lực lượng tác động vào đội ngũ cán bộ, giảng viên, học viên, chiến sĩ để ứng dụng, vận hành công nghệ thông tin vào thực hiện các nhiệm vụ của Học viện một cách hiệu quả, phù hợp nhất, đáp ứng được mục tiêu, nhiệm vụ giáo dục, đào tạo của đất nước và của Quân đội.

Trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học, công nghệ hiện đại phát triển mạnh mẽ, việc nâng cao năng lực lãnh đạo chuyển đổi số của Đảng bộ Học viện Hậu cần sẽ thúc đẩy nhanh quá trình thực hành, ứng dụng vào giải quyết, xử lý các nhiệm vụ cụ thể, ở từng mặt công tác của Học viện. Với đặc thù đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ hậu cần – kỹ thuật, tài chính các cấp của Quân đội, việc nâng cao năng lực lãnh đạo chuyển đổi số của Đảng bộ Học viện Hậu cần, góp phần quan trọng vào việc xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh, tiến thẳng lên hiện đại; đồng thời, giáo dục, đào tạo ra những “chiến sĩ số” làm chủ vũ khí công nghệ, có kỹ năng, tay nghề cao trong tiếp cận, sử dụng công nghệ số để phục vụ hữu ích cho nhiệm vụ giáo dục, đào tạo bồi dưỡng cán bộ hậu cần, kỹ thuật – tài chính các cấp trong toàn quân.

Thời gian vừa qua, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ Học viện Hậu cần, năng lực lãnh đạo thực hành chuyển đổi số ở các cơ quan, đơn vị, khoa giáo viên đã đạt được những kết quả bước đầu: nhận thức, trách nhiệm của cấp uỷ, tổ chức đảng, cán bộ chủ trì và cán bộ, đảng viên, giảng viên, học viên, chiến sĩ sâu sắc, toàn diện hơn. Ngay sau khi Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; Quân uỷ Trung ương ban hành Nghị quyết số 3488-NQ/QUTW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong Quân đội và Kế hoạch số 536/KH-BQP của Bộ Quốc phòng triển khai thực hiện Nghị quyết số 03/NQ-CP của Chính phủ để chỉ đạo, điều hành, giao nhiệm vụ cho các ngành, cơ quan, đơn vị.

Đảng bộ Học viện đã lãnh đạo, chỉ đạo việc quán triệt, học tập Nghị quyết này đến 100% cán bộ, đảng viên, giảng viên, học viên, chiến sĩ; đã hoàn thành xây dựng kiến trúc chính phủ điện tử phiên bản 2.0 và hiện đang triển khai xây dựng phiên bản 3.0; triển khai, ứng dụng phần mềm quản lý văn bản và điều hành, sử dụng chữ ký số ở hầu hết cơ quan, khoa, đơn vị. Đã lãnh đạo triển khai nhiệm vụ phát triển hạ tầng số, trọng tâm là mở rộng mạng truyền số liệu quân sự ở tất cả các cơ quan, khoa, đơn vị; có nhiều giải pháp bảo đảm an ninh; trên 95% văn bản nội bộ được thực hiện bằng phương pháp điện tử; 100% cán bộ chủ trì các cơ quan, đơn vị tiến hành xử lý văn bản trực tiếp trên môi trường điện tử; trên 90% hội thi, hội thao có ứng dụng công nghệ thông tin; đặc biệt ứng dụng công nghệ thông tin trong diễn tập được đẩy mạnh2.

Cùng với đó, cấp uỷ, tổ chức đảng các cấp đã lãnh đạo việc đổi mới nội dung, chương trình công nghệ thông tin cho các đối tượng đào tạo trong Học viện; trình độ, năng lực thực hành chuyển đổi số của giảng viên, học viên được nâng lên về mọi mặt; cơ sở vật chất, phòng máy chuyên dụng phục vụ cho nhiệm vụ học tập chuyển đổi số cho các đối tượng được trang bị, xây dựng đồng bộ, thống nhất, hiện đại, đầy đủ các tiện ích, bảo đảm kết nối liên thông giữa các cơ quan, đơn vị, khoa giáo viên trong toàn Học viện. Các chương trình, nội dung, giáo án, bài giảng, tài liệu được số hoá, tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ, giảng viên, học viên truy cập, tra cứu. Đảng bộ Học viện đã lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan, đơn vị, khoa giáo viên thực hiện các giải pháp xây dựng mô hình “Nhà trường thông minh”; xây dựng cơ sở dữ liệu hỗ trợ chuyển đổi số công tác diễn tập Hậu cần – Kỹ thuật tại học viện Hậu cần;

Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được năng lực lãnh đạo chuyển đổi số của một số cấp uỷ, tổ chức đảng trong Đảng bộ còn hạn chế; trình độ, khả năng ứng dụng công nghệ số để nâng cao hiệu xuất làm việc còn có mặt hạn chế; quá trình triển khai như hạ tầng số chưa đồng bộ, điều kiện kỹ thuật, công nghệ số còn thiếu, chưa đáp ứng tốt yêu cầu đổi mới trong bối cảnh chuyển đổi số; một số cán bộ, giảng viên, học viên chưa tích cực, chủ động trong tự bồi dưỡng nâng cao năng lực chuyển đổi số, còn lúng túng, bị động, các thao tác chưa thành thạo, thuần thục, quá trình tổ chức thực hiện chưa đồng bộ, nhất quán giữa các cơ quan, đơn vị; một số giảng viên chưa tích cực, chủ động thực hành chuyển đổi số trong thiết kế bài giảng, truyền tải bài giảng đến học viên. Hệ thống máy tính, kết nối chưa thật sự ổn định, đường chuyền còn chậm, dẫn đến một số nội dung công việc ách tắc, học viên chưa được tiếp cận các tài liệu, giáo trình trên nền tảng của chuyển đổi số.

Nguyên nhân của hạn chế trên là do: (1) Một số cấp ủy, tổ chức đảng trong Đảng bộ lãnh đạo, chỉ đạo tuyên truyền, giáo dục về chuyển đổi số chưa thực sự toàn diện, hiệu quả; (2) Năng lực quán triệt, tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng ủy Học viện, triển khai thực hiện các đề án, kế hoạch chuyển đổi số trong cơ quan, khoa, đơn vị còn chưa triệt để, chưa tạo được sự đột phá; (3) Kiến thức, kỹ năng chuyển đổi số của nhiều cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ chủ trì cơ quan, khoa, đơn vị trong Đảng bộ còn chưa theo kịp và thích ứng nhanh với quá trình phát triển công nghệ số.

3. Giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo chuyển đổi số của Đảng bộ Học viện Hậu cần hiện nay

Một là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các tổ chức, các lực lượng về nâng cao năng lực lãnh đạo chuyển đổi số của Đảng bộ Học viện Hậu cần.

Nghị quyết số 3488-NQ/QUTW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong Quân đội xác định: Phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong Quân đội là một trong những đột phá quan trọng hàng đầu, là mũi nhọn tiên phong, góp phần xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại. Với tinh thần này, cấp uỷ, tổ chức đảng, cán bộ chủ trì quán triệt và thực hiện nghiêm quan điểm, đường lối của Đảng, chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước, Quân uỷ Trung ương về thực hành chuyển đổi số trong mọi nhiệm vụ; xây dựng kế hoạch hành động phù hợp với đặc điểm tình hình, yêu cầu, nhiệm vụ của mỗi cơ quan, đơn vị, khoa giáo viên; tuyên truyền, phổ biến, giáo dục đến toàn thể cán bộ, giảng viên, học viên thực hành chuyển đổi số phục vụ cho bản thân mỗi người, góp phần hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao; đa dạng hoá các hình thức, biện pháp tuyên truyền, giáo dục để nâng cao nhận thức, trách nhiệm thực hành chuyển đổi số của cán bộ, giảng viên, học viên; mọi cán bộ, giảng viên, học viên đều tham gia lớp học về chuyển đổi số; đồng thời phát huy tính tích cực, chủ động tự bồi dưỡng, tự học nâng cao năng lực thực hành chuyển đổi số của mỗi cán bộ, giảng viên, học viên.

Trong bối cảnh chuyển đổi số đang phát triển vũ bão, nếu không biết sử dụng công nghệ thông tin, hoặc không kết nối các thông tin, dữ liệu lên hệ thống máy quân sự sẽ bị lạc hậu, tụt hậu, không đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra cấp bách hiện nay. Do đó, bất luận trong mọi điều kiện, hoàn cảnh cấp uỷ, tổ chức đảng, cán bộ chủ trì nâng cao năng lực lãnh đạo chuyển đổi số đối với cơ quan, đơn vị, khoa giáo viên; không được chủ quan, bị động; xây dựng chương trình, kế hoạch thực hành chuyển đổi số có sự phân công, giao nhiệm vụ cho các đồng chí trong cấp uỷ phụ trách, theo dõi, đánh giá trình độ, năng lực sử dụng công nghệ thông tin của cán bộ, giảng viên, học viên, chiến sỹ; từ đó, các hình thức, biện pháp bồi dưỡng tiếp theo. Nhận thức càng cao thì trách nhiệm càng lớn, chất lượng thực hành chuyển đổi số được nâng lên một bước, sự thành thạo về kỹ năng, tay nghề thực hành chuyển đổi số của các bộ phận, lực lượng, hoàn thành tốt các nhiệm vụ của cấp trên, của Học viện.

Hai là, xây dựng cấp ủy, tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên vững mạnh về mọi mặt đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ lãnh đạo chuyển đổi số.

Nghị quyết số 57-NQ/TW của Đảng xác định: “Bố trí phù hợp số lượng cán bộ có trình độ chuyên môn khoa học kỹ thuật trong cấp uỷ các cấp. Phát huy tinh thần sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số”3.  Theo đó, Thường vụ Đảng uỷ, Ban Giám độc Học viện, lãnh đạo, chỉ đạo các tổ chức đảng bố trí, sắp xếp các đồng chí có trình độ, năng lực về thực hành chuyển đổi số tham gia vào cấp uỷ, chi bộ để trực tiếp lãnh đạo đơn vị thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước, Quân uỷ Trung ương đã xác định. Các đồng chí trong cấp uỷ, cán bộ, đảng viên của Học viện ngoài việc nắm vững chuyên môn, nghiệp vụ còn có kiến thức về chuyển đổi số để hướng dẫn, tổ chức thực hiện hiệu quả, nếu không có kiến thức, năng lực chuyển đổi số khó có thể lãnh đạo, chỉ đạo được cấp dưới thực hiện nhiệm vụ đạt được kết quả như mong muốn. Vì vậy, rà soát, đánh giá lại các đồng chí trong cấp uỷ, tổ chức đảng về năng lực thực hành chuyển đổi số để bổ sung, bố trí, sắp xếp cho hợp lý, phù hợp, góp phần hoàn thành tốt các nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị, khoa giáo viên.

Mọi hoạt động của cơ quan, đơn vị, khoa giáo viên cần phải được tiến hành trên nền tảng của chuyển đổi số để thuận tiện trong việc trao đổi, xử lý công việc. Những đồng chí trong cấp uỷ, tổ chức đảng, cán bộ, giảng viên không ngừng tự học tập, tự bồi dưỡng về mọi mặt, đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ đổi mới toàn diện, đồng bộ chất lượng giáo dục, đào tạo của Học viện hiện nay. Mỗi đồng chí trong cấp uỷ, cán bộ, giảng viên đặt ra yêu cầu cao cho bản thân, tự nghiên cứu, tìm hiểu về chuyển đổi số, có kế hoạch tự bồi dưỡng về năng lực thực hành chuyển đổi số phù hợp với tính chất, nhiệm vụ đòi hỏi; không bảo thủ, chủ quan, trì trệ, máy móc; chủ động thay đổi tư duy nhận thức, hành động mạnh mẽ, quyết liệt; gương mẫu trong thực hành chuyển đổi số; cắt giảm những khâu trung gian, nhiều giấy tờ, thực hiện quản lý mọi công việc của cấp dưới thông qua công nghệ số đã được tích hợp; qua đó, tiết kiệm thời gian, chi phí và nâng cao hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả trong quản lý, sử dụng và giải quyết các nhiệm vụ cho các bộ phận, lực lượng một cách nhanh chóng, kịp thời, chính xác. Có những cơ chế, chính sách đặc thù đối với đồng chí tham gia vào cấp uỷ, cán bộ, giảng viên có trình độ công nghệ thông tin, có bằng công nghệ thông tin được các cấp có thẩm quyền chứng nhận.

Ba là, tập trung lãnh đạo đầu tư cơ sở vật chất, hạ tầng số, tiếp cận hệ thống công nghệ hiện đại, tạo bước đột phá trong lãnh đạo chuyển đổi số của Đảng bộ Học viện Hậu cần.

Nghị quyết số 57-NQ/TW đã xác định: “Bố trí ít nhất 15% ngân sách nhà nước chi sự nghiệp khoa học phục vụ nghiên cứu chiến lược… Chú trọng phát triển hạ tầng năng lượng… Phát triển hệ thống các trung tâm nghiên cứu, thử nghiệm, các phòng thí nghiệm … Có cơ chế, chính sách hỗ trợ, khuyến khích các tổ chức cá nhân, doanh nghiệp đầu tư, xây dựng các phòng thí nghiệm, trung tâm nghiên cứu và phát triển khoa học, công nghệ”4. Theo đó, Thường vụ Đảng uỷ Học viện lãnh đạo việc xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ cho việc thực hành chuyển đổi số ở các cơ quan, đơn vị, khoa giáo viên; đầu tư xây dựng phòng chuyên dụng, có đầy đủ các trang thiết bị máy móc hiện đại, được tích hợp, kết nối đầy đủ để cán bộ, giảng viên, học viên có thể truy cập được ngay.

Ở mỗi cơ quan, đơn vị, khoa giáo viên nên có một phòng máy tính chuyên dụng để kết nối chuyển đổi số có người phụ trách, hướng dẫn cụ thể; trang bị đầy đủ các phương tiện kỹ thuật hiện đại cho các phòng chuyên dụng; những thiết bị đã cũ, chậm cần được thay thế, loại bỏ bằng những phương tiện thông minh, hiện đại, tiện ích. Từng bước hiện đại hoá nguồn nhân lực trong thực hành chuyển đổi số đối với cán bộ, giảng viên, học viên của Học viện; nhất là những bộ phận, lực lượng chuyên môn kỹ thuật cần nâng cao hơn nữa năng lực chuyển đổi số, tiên phong đi đầu trong thực hành chuyển đổi số, sử dụng thành thạo các dữ liệu, thông tin, hướng dẫn, giảng dạy các bộ phận, lực lượng chưa biết, chưa rõ, chưa thành thạo trong thực hành chuyển đổi số. Khuyến khích, động viên các cơ quan, đơn vị, khoa giáo viên có cách làm hay, sáng tạo, hiệu quả trong tổ chức thực hành chuyển đổi số đối với cán bộ, giảng viên, học viên thuộc quyền quản lý. Đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho thực hành chuyển đổi số có trọng tâm, trọng điểm để thuận tiện trong quá trình quản lý, khai thác, sử dụng, bảo đảm đúng mục đích, đường hướng chính trị, xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh, tiến thẳng lên hiện đại.

Bốn là, phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, các lực lượng để nâng cao năng lực lãnh đạo chuyển đổi số của Đảng bộ Học viện Hậu cần.

Đảng ta chỉ rõ: “Tăng cường sự lãnh đạo toàn diện của Đảng, phát huy sức mạnh     tổng hợp của cả hệ thống chính trị, sự tham gia tích cực của doanh nhân, doanh nghiệp và Nhân dân đối với phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia”5. Theo đó, việc phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, lực lượng để nâng cao năng lực lãnh đạo chuyển đổi số của Đảng bộ Học viện rất quan trọng, tạo thành những phong trào thi đua sôi nổi, tích cực để lôi cuốn mọi cán bộ, giảng viên, học viên cùng tham gia vào phong trào “Bình dân học vụ số”. Người biết chia sẻ, hướng dẫn, giúp đỡ, đồng hành với người chưa biết, hoặc biết ít; người chưa biết, biết ít tích cực, chủ động tự học, tự bồi dưỡng nâng cao trình độ hiểu biết về chuyển đổi số.

Cấp uỷ, tổ chức đảng, cán bộ chủ trì cơ quan, đơn vị, khoa giáo viên nắm bắt thực trạng trình độ chuyển đổi số của cán bộ, giảng viên, học viên để có cách thức, biện pháp giáo dục, quản lý, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng về thực hành chuyển đổi số phù hợp, hiệu quả, tạo sự đoàn kết thống nhất, hành động trong thực hiện mọi nhiệm vụ được giao; bảo đảm ai cũng được tiếp cận chuyển đổi số, không ai bị bỏ lại phía sau. Thành lập bộ phận chuyên trách về thực hành chuyển đổi số của Học viện để tập huấn, hướng dẫn cách thức, biện pháp sử dụng chuyển đổi số cho cán bộ, giảng viên, học viên. Việc làm này tiến hành từng bước, liên tục, thường xuyên không ngừng, không nghỉ, không chỉ làm một lần là xong; cần nêu cao tinh thần, trách nhiệm của bộ phận chuyên trách về thực hành chuyển đổi số và đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ, tổ chức đảng, cán bộ phụ trách. Các tổ chức, lực lượng trong Học viện luôn có sự tương tác, hỗ trợ, giúp đỡ nhau trong thực hành chuyển đổi số; tuyệt đối tránh tư tưởng quyền anh, quyền tôi, mạnh ai ấy làm trong thực hành chuyển đổi số sẽ không đem lại kết quả như mong muốn, thậm chí tụt hậu, tạo ra khoảng cách chênh lệch về trình độ, năng lực thực hành chuyển đổi số trong cán bộ, giảng viên, học viên.

4. Kết luận

Nâng cao năng lực lãnh đạo chuyển đổi số của Đảng bộ Học viện Hậu cần là nội dung, biện pháp quan trọng của hoạt động công tác đảng, công tác chính trị trong xây dựng Đảng về tổ chức của Đảng. Việc nâng cao năng lực lành đạo này, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ, giảng viên có đủ phẩm chất, năng lực uy tín thực hiện thắng lợi chủ trương, biện pháp của Thường vụ Đảng uỷ Học viện về thực hành chuyển đổi số để nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo của Học viện trong tình hình mới. Quán triệt phương châm huấn luyện “Chất lượng đào tạo của nhà trường là khả năng sẵn sàng chiến đấu của đơn vị”, Thường vụ Đảng uỷ Học viện đã lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện các mặt hoạt động công tác, trong có việc nâng cao năng lực lãnh đạo chuyển đổi số của các tổ chức đảng trong Học viện. Vì vậy, trong quá trình tổ chức thực hiện các chủ thể, lực lượng, nhất là người đứng đầu cần nêu cao tinh thần, trách nhiệm, bám sát thực tiễn, tình hình mọi mặt của cơ quan, đơn vị, khoa giáo viên; đồng thời, phát huy dân chủ, trí tuệ tập thể của mỗi cán bộ, đảng viên, giảng viên, học viên để có cách làm hay, sáng tạo và hiệu quả, tiện ích trong thực hành chuyển đổi số của Học viện trong thời gian tới.

Chú thích:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 221.
2. Nguyễn Tiến Dũng (2024). Học viện Hậu cần – Đổi mới phương thức lãnh đạo, hoàn thành toàn diện các mặt công tác. https://www.bqdnd.vn, ngày 07/02/2024.
3, 4, 5. Bộ Chính trị (2024). Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.