Vận dụng giá trị thuyết “Chính danh” của Nho giáo trong xây dựng liêm chính công vụ ở Việt Nam hiện nay

ThS. Bùi Ngọc Mai
Trường Đại học Thủ đô Hà Nội

(Quanlynhanuoc.vn) – Liêm chính công vụ là yếu tố then chốt trong xây dựng nền hành chính hiện đại, góp phần nâng cao tính minh bạch và phòng, chống tham nhũng tại Việt Nam. Việc hình thành phẩm chất liêm chính không chỉ dựa vào pháp luật và điều kiện kinh tế – xã hội mà còn cần tiếp thu giá trị đạo đức truyền thống. Thuyết “Chính danh” của Khổng Tử, với tư tưởng đề cao trách nhiệm gắn với chức danh và đạo đức chính trị, mang lại cơ sở lý luận trong việc xây dựng chuẩn mực hành vi công vụ. Bài viết phân tích giá trị cốt lõi của thuyết Chính danh và đề xuất hướng vận dụng nhằm phát triển đội ngũ công chức đạo đức, trách nhiệm, phục vụ Nhân dân hiệu quả.

Từ khóa: Thuyết “Chính danh”, Nho giáo, Khổng Tử, đạo đức công vụ, liêm chính công vụ, cán bộ, công chức.

1. Đặt vấn đề

Trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hiện đại hóa nền hành chính quốc gia, việc nâng cao đạo đức, trách nhiệm và tính liêm chính trong đội ngũ cán bộ, công chức là yêu cầu cấp thiết và mang tính nền tảng. Liêm chính trong hoạt động công vụ không chỉ được xem là thước đo phẩm chất cá nhân mà còn đánh giá chất lượng quản trị công, mức độ minh bạch và hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước. Trước những biểu hiện tiêu cực, như: tham nhũng, lạm quyền, suy thoái đạo đức công vụ trong một bộ phận cán bộ, việc xây dựng chuẩn mực hành vi dựa trên nền tảng đạo đức vững chắc là nhiệm vụ quan trọng hiện nay. Thực tiễn cho thấy, dù hệ thống pháp luật về công vụ ngày càng được hoàn thiện, nhiều quy định về phòng, chống tham nhũng và trách nhiệm công vụ đã được ban hành, song vẫn còn không ít khoảng trống trong thực thi và giám sát. Vấn đề đặt ra là cần củng cố phẩm chất đạo đức cho đội ngũ cán bộ, công chúc không chỉ bằng luật pháp mà còn bằng chuẩn mực văn hóa, đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp.

Bên cạnh hoàn thiện thể chế và cơ chế kiểm soát quyền lực, việc vận dụng các giá trị truyền thống có tính chọn lọc và phù hợp vào quá trình giáo dục, bồi dưỡng đạo đức công vụ là hướng đi cần thiết. Trong số các hệ giá trị đó, thuyết “Chính danh” của Khổng Tử, một nội dung cốt lõi trong tư tưởng Nho giáo nổi bật với quan niệm về việc mỗi người phải sống, hành xử đúng với danh phận, chức trách và vị trí xã hội của mình. Tư tưởng này không chỉ mang giá trị tư tưởng sâu sắc mà còn hàm chứa những nguyên lý đạo đức có thể vận dụng trong việc hình thành, củng cố chuẩn mực liêm chính trong nền công vụ ở Việt Nam hiện nay.

2. Nội dung thuyết “Chính danh” của Nho giáo  

Thuyết “Chính danh” là một trong những nội dung trọng tâm trong tư tưởng chính trị – xã hội của Khổng Tử, được hình thành trong bối cảnh xã hội Trung Quốc loạn lạc thời Xuân Thu – Chiến Quốc. Khi đó, trật tự phong kiến suy yếu, các nước chư hầu không tuân thủ Thiên tử, bề tôi lấn quyền vua, con cái bất hiếu với cha mẹ. Tình trạng “vô đạo”, “danh bất chính” tràn lan đã khiến Khổng Tử nhận thấy sự cấp thiết của việc thiết lập lại trật tự xã hội dựa trên những nguyên tắc đạo đức và quy phạm ứng xử chặt chẽ.

Thứ nhất, thuyết “Chính danh” chỉ ra yêu cầu thống nhất chặt chẽ giữa 2 yếu tố “danh” và “thực”. Trong sách Luận ngữ, khi Tử Lộ hỏi về cách trị nước, Khổng Tử đã khẳng định vai trò quan trọng của “Chính danh”. Trong đó, “Danh không hợp thì lời nói sẽ không thuận, nói không thuận thì việc không thành. Việc không thành thì lễ nhạc mất trật tự. Lễ nhạc mất trật tự thì hình phạt không đúng đắn, hình phạt không đúng thì dân không biết làm thế nào cho đúng. Vậy người quân tử khi có danh phù hợp với thực thì có thể nói ra được, nói được thì thực hành thông suốt. Quân tử không bao giờ sơ suất với lời nói của mình”1.

“Danh” ở đây được hiểu là tên gọi, chức vị, vai trò xã hội mà một người đảm nhiệm; còn “thực” là năng lực, phẩm chất đạo đức và hành vi thực tế của người đó. “Chính danh” đòi hỏi khi một người giữ một chức vụ nhất định thì phải có năng lực chuyên môn, phẩm chất đạo đức và tinh thần trách nhiệm tương xứng với chức vụ đó; đồng thời, thực hiện đúng các nghĩa vụ và bổn phận mà vị trí đó yêu cầu. Nếu danh vị không đúng, tức người không phù hợp với vị trí được giao, hoặc bản chất sự vật không đúng với tên gọi của nó thì mọi lời nói, hành động sẽ trở nên rối loạn, dẫn đến sự bất ổn nghiêm trọng trong trị quốc. Khổng Tử tin rằng, mọi sự hỗn loạn đều bắt nguồn từ việc danh và thực không khớp nhau, khiến các quy tắc đạo đức và pháp luật trở nên vô hiệu.

Thứ hai, thuyết “Chính danh” yêu cầu mỗi người trong xã hội phải đảm đương đúng vai trò của mình và hành xử tương ứng với danh phận đó. Khổng Tử khẳng định: “Vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con”2. Đây là nguyên tắc “quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử”, một triết lý sâu sắc về trật tự xã hội và đạo đức cá nhân. Nguyên tắc này đòi hỏi sự hòa hợp tuyệt đối giữa “danh” (tên gọi, chức vị, vai trò xã hội) và “thực” (năng lực, phẩm chất và hành vi thực tế).

Thứ ba, yêu cầu để thực hiện chính danh theo Khổng Tử đó là “thân chính”, tức người lãnh đạo phải tự thân gương mẫu, chính trực. Theo đó, chính danh vừa gắn liền với phẩm mực đạo đức, vừa đòi hỏi sự nêu gương từ người đứng đầu. Khổng Tử từng nói: “Bản thân chính đáng, dù không ra lệnh người dưới vẫn chấp hành. Bề trên thiếu ngay thẳng, tuy ra mệnh lệnh người dưới cũng chẳng thi hành”3. Quan điểm này nhấn mạnh, uy tín và hiệu quả quản lý của người cầm quyền không chỉ đến từ quyền lực hay luật pháp mà còn từ sự liêm chính, gương mẫu của bản thân. Người lãnh đạo phải là tấm gương về đạo đức, về sự phù hợp giữa “danh” và “thực” để tạo dựng lòng tin và sự phục tùng tự nguyện từ phía Nhân dân. Đây là sự kết hợp giữa đức trị và chính danh, trong đó đạo đức cá nhân là nền tảng cho quyền uy và hiệu quả quản lý. “Chính danh” theo đó không chỉ là một nguyên tắc chính trị mà còn là một quy phạm đạo đức sâu sắc, đòi hỏi sự thống nhất giữa lời nói và việc làm, giữa vị trí và phẩm chất của mỗi cá nhân trong hệ thống xã hội, đặc biệt là những người nắm giữ quyền lực.

3. Liêm chính công vụ ở Việt Nam hiện nay – những vấn đề đặt ra

Liêm chính là yếu tố cốt lõi trong việc thực hiện đạo đức công vụ của cán bộ, công chức. Trong thực hiện nghĩa vụ và quyền hạn của cán bộ, công chức, liêm chính biểu hiện ở việc thực hiện đúng, đầy đủ quyền hạn, nghĩa vụ, nhiệm vụ được giao và chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện; thực hiện nhiệm vụ một cách trung thực, tránh xung đột lợi ích, không vụ lợi cá nhân; bảo vệ và sử dụng an toàn, tiết kiệm tài sản công, không tham nhũng; tận dụng tối đa thời gian cho công việc.

Trong thực hiện đạo đức công vụ, nghề nghiệp, liêm chính là giữ gìn sự trong sạch, tránh nhận hối lộ, quà biếu của tổ chức, công dân; phục vụ Nhân dân với thái độ đúng mực và công bằng; tự phê bình và phê bình, không xu nịnh cấp trên, nói sai sự thật cho đồng nghiệp, đặt điều cho cấp dưới; có tinh thần hợp tác, tương trợ lẫn nhau khi thi hành nhiệm vụ, không phê phán công việc của người khác và phàn nàn về công việc của mình.

Liêm chính công vụ được xem là ưu tiên hàng đầu, mang tính sống còn trong công cuộc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đảng và Nhà nước đã liên tục quán triệt, ban hành nhiều chủ trương, chính sách và hệ thống pháp luật đồng bộ về phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và đặc biệt là xây dựng đạo đức công vụ. Nhờ sự quyết tâm chính trị cao, công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức liêm chính đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận.

Tại phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 3/2025 diễn ra vào ngày 06/4/2025, báo cáo về xếp hạng Chỉ số hài lòng của người dân đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước năm 2024 (SIPAS 2024) và Chỉ số cải cách hành chính năm 2024 của Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (PAR INDEX 2024) cho thấy: “Chỉ số SIPAS năm 2024 đạt trung bình là 83,94%, tăng 1,28% so với năm 2023”4.

Báo cáo tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc sơ kết 5 năm thực hiện Luật Phòng, chống tham nhũng diễn ra vào ngày 24/12/2024 đã chỉ ra: “Trong 5 năm qua, các bộ, ngành, địa phương kiểm tra tại 139.208 cơ quan, tổ chức, đơn vị về công khai, minh bạch, phát hiện và xử lý 1.445 cơ quan, tổ chức, đơn vị vi phạm; tiến hành kiểm tra việc thực hiện quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức tại 117.848 cơ quan, tổ chức, đơn vị; kịp thời phát hiện, chấn chỉnh các sai phạm và xử lý 2.906 cán bộ, công chức, viên chức vi phạm quy tắc ứng xử, quy tắc đạo đức nghề nghiệp.

Các cơ quan, tổ chức, đơn vị đã xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện việc chuyển đổi vị trí công tác người có chức vụ, quyền hạn theo quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng và các văn bản hướng dẫn. Công chức, viên chức đã thực hiện chuyển đổi vị trí công tác nhằm phòng ngừa tham nhũng là 235.271 người”5. Điều đó cho thấy, ý thức về trách nhiệm, đạo đức công vụ của cán bộ, công chức từng bước được nâng cao rõ rệt, các quy định về minh bạch và kiểm soát quyền lực được tăng cường, góp phần củng cố niềm tin của Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, việc xây dựng liêm chính công vụ ở Việt Nam vẫn đang đối mặt với không ít thách thức và những vấn đề phức tạp, đòi hỏi sự nhìn nhận thẳng thắn và giải pháp quyết liệt. Những biểu hiện của sự thiếu liêm chính, dù đã được kiềm chế, vẫn còn tồn tại dai dẳng và diễn biến ngày càng tinh vi, gây bức xúc sâu sắc trong dư luận xã hội và làm giảm uy tín của bộ máy nhà nước. Điều này được thể hiện khá rõ nét thông qua những thống kê về các vụ án vi phạm kỷ luật, vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức trong thi hành công vụ.

Theo báo cáo tóm tắt tổng kết công tác năm 2022 và phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2023, các tòa án đã tổ chức xét xử nhiều vụ án kinh tế, tham nhũng do những người có chức vụ, quyền hạn gây ra những thiệt hại đặc biệt lớn, được dư luận xã hội rất quan tâm; đã tuyên thu hồi tiền, tài sản đối với 840 vụ, 1.995 bị cáo trong các vụ án kinh tế, tham nhũng với số tiền trên 4.027 tỷ đồng và nhiều tài sản khác. Các tòa án cũng đã đưa ra xét xử 188 vụ với 297 bị cáo liên quan đến phòng chống dịch Covid-196; xử lý nghiêm tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên vi phạm liên quan đến các vụ án, vụ việc xảy ra tại Công ty AIC, tập đoàn Phúc Sơn, Thuận An.

Qua kiểm tra, đã xử lý, kiến nghị xử lý kỷ luật 381 tổ chức đảng, 819 đảng viên; trong đó có 57 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý. Riêng từ đầu năm 2025 đến nay, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã xử lý kỷ luật 4 cán bộ diện Trung ương quản lý7.

Một trong những vấn đề cốt lõi nhất là tình trạng “danh” không đi đôi với “thực”, nghĩa là sự không tương xứng giữa chức vị, quyền hạn được giao và năng lực, phẩm chất đạo đức, hành vi thực tế của cán bộ, công chức. Điều này thể hiện rõ qua một bộ phận cán bộ, công chức tuy mang danh là “công bộc của dân” nhưng lại có hành vi xa rời dân, hách dịch, cửa quyền, gây khó khăn, phiền hà nghiêm trọng cho người dân và doanh nghiệp khi giải quyết các thủ tục hành chính. Năng lực thực tế của nhiều cán bộ, đặc biệt ở một số vị trí chủ chốt, chưa thực sự tương xứng với yêu cầu công việc, dẫn đến hiệu quả công việc thấp, gây trì trệ trong giải quyết công vụ và cản trở sự phát triển.

Trong báo cáo tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc sơ kết 5 năm thực hiện Luật Phòng, chống tham nhũng diễn ra vào ngày 24/12/2024 đã thống kê: “Trong giai đoạn 2020 – 2024 có 264 người đứng đầu, cấp phó người đứng đầu bị xử lý kỷ luật do thiếu trách nhiệm để xảy ra hành vi tham nhũng, 73 người bị xử lý hình sự do thiếu trách nhiệm để xảy ra hành vi tham nhũng”8.

Hơn nữa, tình trạng “chạy chức, chạy quyền”, “mua bán” chức vụ, bổ nhiệm cán bộ không đủ tài, đức vẫn diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau, làm suy yếu nghiêm trọng nguyên tắc công bằng, khách quan trong công tác cán bộ và bào mòn niềm tin của công chúng vào hệ thống. Theo báo cáo chỉ số PAPI năm 2024 cho thấy, đối với chỉ số Công bằng trong tuyển dụng khu vực công, tỷ lệ người cho rằng, việc có quan hệ với các cán bộ, công chức là quan trọng hoặc rất quan trọng khi xin việc vào khu vực công tiếp tục giảm từ năm 2017, tuy nhiên vẫn còn cao, dao động từ 56% – 61%; đặc biệt hơn 50% người được hỏi cho rằng để có được các vị trí như cán bộ địa chính và cán bộ tư pháp, nhân viên cấp xã hay giáo viên công lập… đều cần phải có các mối quan hệ”9.

Bên cạnh đó, tham nhũng, tiêu cực vẫn còn diễn biến phức tạp và ngày càng tinh vi, đặc biệt là tham nhũng vặt, nhũng nhiễu trong giải quyết các thủ tục hành chính liên quan trực tiếp đến đời sống của người dân và hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Dù đã có một khung pháp luật tương đối đầy đủ và các biện pháp xử lý nghiêm minh được triển khai, nhưng việc lợi dụng kẽ hở, sơ hở trong các quy định, cơ chế quản lý để trục lợi cá nhân hoặc cho “nhóm lợi ích” vẫn là một thách thức lớn. Các biểu hiện như đòi hỏi, gợi ý hối lộ, lợi dụng chức vụ để bao che, bảo kê cho các hoạt động phi pháp, hay gây khó khăn để “vòi vĩnh” vẫn là “ung nhọt” làm suy yếu nghiêm trọng tính liêm chính của bộ máy.

Cũng theo báo cáo về xếp hạng Chỉ số hài lòng của người dân đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước năm 2024 (SIPAS 2024) và Chỉ số cải cách hành chính năm 2024 của Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (PAR INDEX 2024) cho thấy: trong số 36.525 người dân tham gia khảo sát, 90,06% cho rằng, không có công chức gây phiền hà, sách nhiễu; 8,98% cho rằng có một số công chức gây phiền hà sách nhiễu và 0,96% cho rằng, có nhiều công chức gây phiền hà sách nhiễu. Trong khi đó, 91,10% người dân được khảo sát cho rằng, không có người dân nào phải đưa tiền ngoài quy định cho công chức để công việc được giải quyết; 7,3% cho rằng, có một số người dân phải đưa tiền và 1,60% cho rằng có nhiều người dân phải đưa tiền ngoài quy định cho công chức để công việc được giải quyết10.

Hơn nữa, trách nhiệm giải trình và sự minh bạch trong hoạt động công vụ đôi khi chưa được bảo đảm đầy đủ và hiệu quả như kỳ vọng. Vẫn còn tình trạng đùn đẩy trách nhiệm giữa các cơ quan, đơn vị hoặc giữa các cá nhân khi đối mặt với những vấn đề khó khăn, phức tạp, gây chậm trễ và bức xúc cho người dân. Cơ chế giám sát, kiểm soát quyền lực, đặc biệt là quyền lực của người đứng đầu, mặc dù đã được quan tâm tăng cường nhưng vẫn cần hoàn thiện hơn nữa để phát huy hiệu quả tối đa. Việc công khai, minh bạch các hoạt động của cơ quan nhà nước, quy trình ra quyết định và thông tin cán bộ còn có những hạn chế nhất định, chưa thực sự tạo điều kiện thuận lợi cho Nhân dân và xã hội giám sát.

Điều này đặt ra yêu cầu cấp bách về việc tìm kiếm và vận dụng các giải pháp toàn diện, không chỉ dừng lại ở các biện pháp pháp lý hay hành chính mà còn cần có sự bổ trợ mạnh mẽ từ các giá trị văn hóa, đạo đức truyền thống.

4. Ý nghĩa của thuyết “Chính danh” trong xây dựng liêm chính công vụ ở Việt Nam hiện nay

Trên cơ sở phân tích những nội dung cốt lõi của thuyết “Chính danh” trong Nho giáo và nhận diện các vấn đề đặt ra đối với công tác xây dựng liêm chính công vụ ở Việt Nam hiện nay, có thể khẳng định, việc vận dụng có chọn lọc và sáng tạo các giá trị tiến bộ của thuyếtnày sẽ góp phần quan trọng trong việc định hình chuẩn mực đạo đức, củng cố tính minh bạch, trách nhiệm và hiệu quả của đội ngũ cán bộ, công chức, đồng thời đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong bối cảnh mới.

Một là, thuyết Chính danh yêu cầu bảo đảm sự thống nhất giữa danh và thực trong bổ nhiệm, sử dụng cán bộ. Thuyết “Chính danh” của Nho giáo nhấn mạnh nguyên tắc “danh chính, ngôn thuận – người giữ một chức vụ phải có năng lực, phẩm chất và hành vi phù hợp với vị trí đó. Điều này có ý nghĩa đặc biệt trong công tác cán bộ hiện nay, khi vấn đề “bổ nhiệm đúng người, đúng việc” là yếu tố quyết định hiệu quả quản trị và phòng ngừa tham nhũng.

Trong Điều 5 của Luật Cán bộ, công chức năm 2019 đã quy định: “Việc sử dụng, đánh giá, phân loại cán bộ, công chức phải dựa trên phẩm chất chính trị, đạo đức và năng lực thi hành công vụ”. Bổ nhiệm sai người hoặc để xảy ra tình trạng “hữu danh vô thực” sẽ gây mất lòng tin của Nhân dân và làm suy giảm hiệu lực của bộ máy nhà nước.

Hai là, thuyết Chính danh giúp nâng cao trách nhiệm nêu gương của cán bộ, công chức. Theo tinh thần chính danh, người ở vị trí lãnh đạo phải “đúng danh” không chỉ về quyền hạn mà còn về đạo đức, tác phong, làm gương cho cấp dưới và nhân dân. Trong bối cảnh Việt Nam, yêu cầu này được thể hiện rõ trong Quy định số 37-QĐ/TW ngày 25/10/2021 của Ban Chấp hành Trung ương về những điều đảng viên không được làm; trong đó, nhấn mạnh trách nhiệm giữ gìn phẩm chất, chống lợi dụng chức vụ để vụ lợi (Điều 3). Điều này phù hợp với nguyên tắc của chính danh, nếu người lãnh đạo không giữ đúng “danh” thì sẽ mất tính chính danh, làm suy giảm uy tín của tổ chức và tạo kẽ hở cho tham nhũng.

Ba là, thuyết Chính danh góp phần phòng, chống tham nhũng và tiêu cực một cách bền vững. Thuyết Chính danh không chỉ yêu cầu chọn đúng người mà còn đòi hỏi người đó thực hiện đúng bổn phận theo danh vị. Đây là cơ sở lý luận cho việc xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực, yếu tố then chốt trong phòng, chống tham nhũng.

Theo Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới đã đề cao nguyên tắc minh bạch, công khai, trách nhiệm giải trình – những giá trị tương thích với tinh thần chính danh. Khi mỗi cán bộ ý thức được rằng, quyền lực gắn liền với trách nhiệm thì sẽ hạn chế nguy cơ lạm quyền và trục lợi cá nhân.

Bốn là, xây dựng văn hóa công vụ chuẩn mực, củng cố niềm tin của Nhân dân. Chính danh còn mang ý nghĩa duy trì trật tự xã hội dựa trên chuẩn mực đạo đức và nghĩa vụ công vụ. Quyết định số 1847/QĐ-TTg ngày 27/12/2018 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án Văn hóa công vụ đã xác định bốn nhóm chuẩn mực, trong đó có “liêm chính, tận tụy, chuyên nghiệp”. Điều này phản ánh rõ tinh thần “danh và thực thống nhất” của chính danh. Khi công chức hành xử đúng chuẩn mực với vị trí mình đảm nhiệm, niềm tin của Nhân dân với bộ máy công quyền sẽ được củng cố, qua đó tăng tính chính danh của Nhà nước.

Thuyết “Chính danh” của Khổng Tử với hạt nhân tư tưởng là yêu cầu mỗi cá nhân phải hành xử đúng với vị trí, chức trách và danh phận của mình, có ý nghĩa sâu sắc trong bối cảnh xây dựng liêm chính công vụ ở Việt Nam hiện nay. Việc vận dụng có chọn lọc các giá trị tiến bộ của thuyếtnày không chỉ góp phần định hình chuẩn mực đạo đức và trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức, mà còn tạo cơ sở tư tưởng cho việc củng cố kỷ cương, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động công vụ. Điều đó giúp xây dựng một nền hành chính phục vụ, minh bạch, vì Nhân dân, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ mới.

5. Định hướng vận dụng giá trị thuyết “Chính danh” của Nho giáo trong xây dựng liêm chính công vụ ở Việt Nam

Việc vận dụng thuyết “Chính danh” của Nho giáo vào xây dựng liêm chính công vụ ở Việt Nam cần được đặt trong bối cảnh mới của quá trình cải cách hành chính, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế sâu rộng. Điều này đòi hỏi không chỉ kế thừa những giá trị tích cực của học thuyết, mà còn phải điều chỉnh, bổ sung để phù hợp với yêu cầu quản trị hiện đại, đặc biệt là các nguyên tắc pháp quyền, minh bạch và trách nhiệm giải trình. Trên cơ sở đó, các định hướng vận dụng cần tập trung vào việc chuẩn hóa chức danh, nhiệm vụ, tiêu chuẩn đạo đức của đội ngũ cán bộ, công chức; đồng thời, thiết lập cơ chế giám sát chặt chẽ nhằm bảo đảm “danh” và “thực” luôn thống nhất, tạo nền tảng cho một nền công vụ liêm chính, chuyên nghiệp và hiệu quả.

Thứ nhất, thể chế hóa nguyên tắc “chính danh” vào hệ thống pháp luật về công vụ, công chức. Nguyên tắc “chính danh” yêu cầu mỗi cá nhân phải được đặt đúng vị trí, đảm nhận đúng vai trò và thực hiện đúng chức trách đã được giao. Nhà nước cần rà soát, bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật về công vụ, công chức, đặc biệt là các quy định trong Luật Cán bộ, công chức năm 2019 về tiêu chuẩn chức danh, vị trí việc làm, quyền hạn và trách nhiệm, đặc biệt trong Điều 7, 8 của Luật. Mục tiêu là bảo đảm minh bạch, công khai trong phân công nhiệm vụ, tránh tình trạng “chức danh một đằng, quyền hạn một nẻo” hoặc “ngồi nhầm chỗ”. Mỗi công chức phải chịu trách nhiệm trực tiếp trước Nhân dân và pháp luật về công việc thuộc thẩm quyền, qua đó củng cố niềm tin xã hội vào tính liêm chính của bộ máy công vụ.

Thứ hai, tạo cơ chế tuyển dụng, bổ nhiệm, đánh giá và khen thưởng – kỷ luật dựa trên nguyên tắc “chính danh”. Theo tinh thần “danh chính ngôn thuận”, người được trao quyền phải thực sự xứng đáng, đáp ứng đủ tiêu chuẩn về năng lực, phẩm chất và kết quả công tác. Cần cải cách mạnh mẽ cơ chế tuyển dụng và bổ nhiệm cán bộ theo hướng cạnh tranh lành mạnh, minh bạch và công bằng; kiên quyết loại bỏ tình trạng “chạy chức, chạy quyền”, bổ nhiệm hình thức hoặc chịu ảnh hưởng của lợi ích nhóm. Đồng thời, cơ chế khen thưởng – kỷ luật phải gắn trực tiếp với kết quả thực thi công vụ và chuẩn mực liêm chính, đúng với quy định tại Điều 56, 77 Luật Cán bộ, công chức năm 2019.

Thứ ba, tăng cường giáo dục đạo đức công vụ gắn với thuyết “Chính danh”. Hiện nay, nhiều cán bộ, công chức chưa nhận thức đầy đủ về yêu cầu “đúng vai, đúng trách nhiệm” và tầm quan trọng của sự liêm chính. Do đó, cần đưa nội dung thuyết “Chính danh” vào chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, kết hợp với các chuẩn mực đạo đức quy định trong Quyết định số 1847/QĐ-TTg. Nội dung giáo dục không chỉ dừng ở lý thuyết mà phải cụ thể hóa thành hành vi ứng xử: nói đúng, làm đúng, hành xử đúng với vị trí, quyền hạn; luôn đặt lợi ích đất nước và Nhân dân lên trên lợi ích cá nhân.

Thứ tư, thiết lập cơ chế giám sát chặt chẽ từ cả phía cơ quan quản lý và xã hội. Thuyết “Chính danh” coi trọng việc giám sát từ cộng đồng, vì “danh” và “thực” của một cá nhân gắn liền với sự đánh giá xã hội. Cần tăng cường hệ thống thanh tra, kiểm toán, đồng thời phát huy cơ chế giám sát của Nhân dân, báo chí và tổ chức xã hội theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XIII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Cơ chế giám sát phải minh bạch, khách quan, công khai kết quả và xử lý nghiêm minh các hành vi vượt quyền, lạm quyền, tham nhũng, trục lợi.

Thứ năm, xây dựng văn hóa công vụ dựa trên tinh thần “chính danh”. Văn hóa công vụ là tổng hòa các giá trị, chuẩn mực ứng xử và phong cách làm việc trong cơ quan nhà nước. “Chính danh” có thể trở thành một giá trị cốt lõi, định hướng hành vi của cán bộ, công chức từ khâu ra quyết định, xử lý công việc đến giao tiếp với Nhân dân. Khi mỗi cá nhân tự giác hành xử theo chuẩn mực “chính danh”, môi trường làm việc sẽ minh bạch, chuyên nghiệp, hiệu quả, góp phần hình thành nền hành chính hiện đại, liêm chính và phục vụ.

6. Kết luận

Thuyết “Chính danh” của Nho giáo với triết lý sâu sắc về sự hài hòa giữa tên gọi và bản chất, mang giá trị vượt thời gian và vẫn vẹn nguyên tính thời sự trong công cuộc xây dựng nền công vụ liêm chính ở Việt Nam hiện nay. Học thuyết không chỉ là một khái niệm trừu tượng mà còn cung cấp một khuôn khổ tư duy vững chắc, giúp định hình các nguyên tắc đạo đức và quản trị thiết yếu.

Việc vận dụng thuyết “Chính danh” của Khổng Tử trong xây dựng liêm chính công vụ ở Việt Nam hiện nay là hướng tiếp cận mang tính giá trị cả về lý luận lẫn thực tiễn. Những nguyên tắc cốt lõi của thuyết Chính danh, như: đề cao sự phù hợp giữa danh vị và thực chất, gắn quyền lực với trách nhiệm và coi trọng chuẩn mực đạo đức, hoàn toàn có thể bổ sung làm sâu sắc thêm cho các tiêu chí về đạo đức công vụ trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Tuy nhiên, việc vận dụng cần được kế thừa có chọn lọc, hiện đại hóa và thể chế hóa trong pháp luật, gắn với cải cách hành chính, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức và tăng cường giám sát xã hội. Chỉ khi nguyên tắc “chính danh” được hiện thực hóa đồng bộ trong nhận thức, hành động và cơ chế quản lý, chúng ta mới có thể xây dựng được một nền công vụ thật sự liêm chính góp phần phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và củng cố niềm tin của Nhân dân đối với bộ máy nhà nước.

Chú thích:
1, 2, 3. Nguyễn Hiến Lê (2003). Luận Ngữ và Khổng Tử. H. NXB Văn học.
4, 10. Bộ Nội vụ (2025). Báo cáo kết quả, xếp hạng chỉ số hài lòng của người dân đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước năm 2024 (SIPAS 2024) và Chỉ số cải cách hành chính năm 2024 của Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (PAR INDEX 2024.
5, 8. Thanh tra Chính phủ (2024). Báo cáo tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc sơ kết 5 năm thực hiện Luật Phòng, chống tham nhũng.
6. Tòa án Nhân dân tối cao (2022). Báo cáo tóm tắt tổng kết công tác năm 2022 và phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2023 của tòa án Nhân dân tối cao.
7. Ban Nội chính Trung ương (2025). Cuộc họp của Thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.
9. UNDP (2025). Papi 2024, chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh ở Việt Nam đo lường từ kinh nghiệm thực tiễn của người dân năm 2024.
Tài liệu tham khảo:
1. Ban Chấp hành Trung ương (2021). Quy định số 37-QĐ/TW ngày 25/10/2021 về những điều đảng viên không được làm.
2. Ban Chấp hành Trung ương (2022). Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.
3. Quốc hội (2019). Luật Cán bộ, công chức năm 2019.
4. Thủ tướng Chính phủ (2018). Quyết định số 1847/QĐ-TTg ngày 27/12/2018 về việc phê duyệt Đề án Văn hóa công vụ.