Tăng cường quản lý nhà nước về bản quyền số ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay 

ThS. Nguyễn Công Cương
Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội

(Quanlynhanuoc.vn) – Sự bùng nổ của công nghệ số và internet đã tạo ra một không gian hoàn toàn mới cho các hoạt động sáng tạo, lưu trữ, phổ biến và khai thác tri thức; đồng thời, trở thành động lực thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của nền kinh tế số và kinh tế tri thức. Tuy nhiên, song song với những cơ hội này là sự gia tăng các hành vi vi phạm bản quyền số, bao gồm: sao chép, chia sẻ, phát tán nội dung số trái phép, không những gây ra tổn thất lớn về kinh tế mà còn làm suy giảm động lực sáng tạo, đồng thời đặt ra nhiều thách thức cho công tác quản lý nhà nước. Bài viết tập trung làm rõ cơ sở lý luận về bản quyền số, phân tích đặc điểm quản lý, thực trạng quản lý và thực thi pháp luật về quyền tác giả tại Việt Nam, nhận diện các khó khăn từ bên trong lẫn yếu tố bên ngoài; qua đó, đề xuất giải pháp mang tính định hướng nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tác giả, thúc đẩy sự phát triển bền vững của ngành công nghiệp nội dung số cũng như củng cố uy tín quốc gia trong quá trình hội nhập quốc tế. 

Từ khóa: Bản quyền số; quản lý nhà nước; vi phạm bản quyền; xuất bản điện tử; kinh tế số.

1. Đặt vấn đề

Trong bối cảnh toàn cầu hóa gắn liền với quá trình chuyển đổi số, các sản phẩm số và nội dung sáng tạo đang ngày càng được xem là một trong những nguồn lực quan trọng để thúc đẩy sự phát triển kinh tế tri thức, sáng tạo và văn hóa. Sự bùng nổ mạnh mẽ của internet cùng các thiết bị số đã làm thay đổi cách thức sáng tạo, phân phối, khai thác và tiêu thụ các tác phẩm văn học, nghệ thuật, âm nhạc, điện ảnh và phần mềm… Đây chính là điều kiện thuận lợi giúp tác giả, nhà xuất bản và doanh nghiệp mở rộng khả năng sáng tạo, giảm chi phí phân phối, tiếp cận thị trường mới và nâng cao trải nghiệm của người dùng. Tuy nhiên, với những đặc điểm nổi bật như: dễ sao chép, không có giới hạn về không gian, tiếp cận dễ dàng… dẫn đến sự gia tăng các hành vi vi phạm bản quyền, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến các hoạt động kinh tế, xã hội và văn hóa.

Do đó, việc tăng cường công tác quản lý nhà nước về bản quyền số và chống vi phạm trở thành nhiệm vụ cấp thiết, gắn liền với chiến lược phát triển văn hóa, khoa học và công nghệ trong thời kỳ chuyển đổi số. 

2. Thực trạng vi phạm bản quyền số tại Việt Nam 

Hiện nay, trong hệ thống văn bản pháp lý chưa có định nghĩa chính thức về “bản quyền” mà thường sử dụng đồng nhất với thuật ngữ “quyền tác giả” hay “tác quyền”. Theo khoản 2 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009, 2019, 2022): “Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu”. Như vậy, chúng ta có thể hiểu “bản quyền” là thể hiện mối quan hệ giữa tác giả, chủ sở hữu tác phẩm và cộng đồng trong việc sử dụng sản phẩm sáng tạo. Khi công nghệ số phát triển, khái niệm này được mở rộng thành “bản quyền số” (digital copyright) bao gồm quyền kiểm soát và khai thác tác phẩm ở dạng kỹ thuật số. Khác với bản quyền truyền thống, bản quyền số có tính chất đặc thù của công nghệ số, trong đó việc sao chép, lan truyền tác phẩm có thể diễn ra nhanh chóng, không bị hạn chế về không gian, thời gian.

Cùng với đó, các hành vi sao chép, chia sẻ, khai thác hoặc sử dụng nội dung số mà không có sự cho phép của chủ sở hữu quyền tác giả được coi là vi phạm bản quyền số. Đặc trưng của loại vi phạm này là tính phức tạp, khó kiểm soát, lan truyền trên phạm vi rộng. Đây chính là nguyên nhân khiến việc bảo vệ quyền lợi tác giả và chủ sở hữu trong môi trường số trở thành một thách thức lớn đối với công tác quản lý nhà nước. Vì vậy, Nhà nước có vai trò then chốt trong việc xây dựng một môi trường pháp lý, kinh tế – xã hội công bằng và minh bạch để ngăn chặn các hành vi vi phạm bản quyền số trong môi trường internet, cụ thể: (1) Nhà nước tạo động lực để các chủ thể sáng tạo tiếp tục phát triển thông qua việc xây dựng luật và quy định minh bạch, công bằng; (2) Quản lý nhà nước được thể hiện qua việc thực thi pháp luật phải thật sự nghiêm minh nhằm hạn chế thiệt hại về tài chính (doanh thu, thuế, cơ hội việc làm…) đối với cả tác giả, doanh nghiệp và Nhà nước; đồng thời, bảo vệ lợi ích chung; (3) Quản lý nhà nước còn mang nhiệm vụ bảo vệ nền văn hóa, bảo vệ đời sống tinh thần của Nhân dân. Việc để nội dung độc hại, vi phạm lan truyền tự do không chỉ gây hại đến người tiêu dùng mà còn có thể ảnh hưởng tiêu cực đến hệ giá trị xã hội và định hướng văn hóa, tạo nên những thách thức trong kiểm soát thông tin và phát triển bền vững của xã hội số.

Việt Nam đã và đang từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền tác giả và quyền liên quan, nhằm thích ứng với những thách thức mới trong môi trường số. Theo Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009, 2019, 2022), phạm vi bảo hộ quyền bản quyền đã bao trùm cả môi trường trực tuyến, kèm theo quy định về việc xử lý hành vi phát tán tác phẩm trên nền tảng kỹ thuật số mà không có sự cho phép của chủ sở hữu. Nghị định số 17/2023/NĐ-CP ngày 26/4/2023 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả, quyền liên quan đã quy định rất chi tiết các loại hình tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả (tác phẩm văn học, sách giáo khoa, tác phẩm âm nhạc, tác phẩm báo chí…), làm cơ sở để tác giả (chủ sở hữu tác phẩm) thực hiện quyền đối với sản phẩm sáng tạo của mình. Bên cạnh đó, Nghị định số 131/2013/NĐ-CP ngày 16/10/2013 về xử phạt hành chính trong lĩnh vực quyền tác giả, quyền liên quan đã đặt ra khung chế tài, với mức phạt tối đa đối với cá nhân là 250.00.000 đồng, đối với tổ chức là 500.000.000 đồng. Các cá nhân, tổ chức vi phạm phải dỡ bỏ bản sao tác phẩm vi phạm dưới hình thức điện tử, trên môi trường internet và kỹ thuật số hoặc buộc tiêu hủy tang vật vi phạm. Đồng thời, cá nhân, tổ chức vi phạm có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan tại Điều 225 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) với những mức các khác nhau.

Ngoài ra, Việt Nam đã tham gia các điều ước và hiệp định quốc tế liên quan đến chống vi phạm bản quyền số trên không gian mạng, như: Công ước Berne (1886), Hiệp ước WIPO về Quyền tác giả cùng các cam kết trong Hiệp định CPTPP và EVFTA, vốn đòi hỏi các quốc gia thành viên phải áp dụng biện pháp hữu hiệu chống lại hành vi xâm phạm bản quyền trên các nền tảng trực tuyến. Việc tham gia các hiệp định quốc tế, cũng như chuẩn hóa các quy định về bảo hộ quyền tác giả cho thấy, cam kết của Việt Nam trong việc chống các hành vi gian lận trên nền tảng số, song vẫn còn nhiều thách thức trong khâu triển khai thực thi, đặc biệt là sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý và các đơn vị phát hành sản phẩm số.

Tuy nhiên, khoảng cách giữa “pháp luật trên giấy” và “thực thi trên thực tế” vẫn khá lớn. Ở Việt Nam, hành vi sao chép và chia sẻ sách điện tử trái phép, tải lậu phần mềm, cho tới việc khai thác bất hợp pháp các sản phẩm âm nhạc, điện ảnh, truyền hình trên nền tảng trực tuyến diễn ra phổ biến. Theo số liệu tổng hợp của Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam, các lĩnh vực bị xâm phảm bản quyền nhiều nhất, bao gồm: Âm nhạc, bản ghi âm, ghi hình (76,9%); Điện ảnh (71,6%); Xuất bản (50,7%)1. Báo cáo của Liên minh phần mềm BSA (2021) cho thấy, gần ¾ phần mềm đang sử dụng tại Việt nam không có bản quyền hợp pháp, cao hơn đáng để so với mức trung bình trong khu vực ASEAN (đứng thứ 3 trong các nước vi phạm bản quyền trong khu vực ASEAN), đã gây thất thoát hàng trăm triệu USD mỗi năm cho nền kinh tế, làm suy giảm động lực sáng tạo của tác giả, doanh nghiệp, ảnh hưởng đến uy tín của Việt Nam trong hợp tác và hội nhập quốc tế. Theo Media Partners Asia (MPA – nhà cung cấp độc lập hàng đầu về các dịch vụ nghiên cứu, tư vấn và tư vấn trên các lĩnh vực truyền thông và viễn thông ở khu vực châu Á Thái Bình Dương) năm 2022 ngành Công nghiệp nội dung số của Việt Nam đã thất thu khoảng 350 triệu USD vì nạn vi phạm bản quyền, với 15,5 triệu người dùng truy cập vào các nội dung bất hợp pháp, tương đương với 18% doanh thu hợp pháp của ngành video và nếu xu hướng này tiếp diễn, mức tổn thất có thể vượt 450 triệu USD vào năm 20272

Trước thực trạng vi phạm bản quyền số hiện nay, Nhà nước không chỉ tiếp tục hoàn thiện pháp luật theo hướng tăng cường chế tài và công cụ giám sát mà còn cần nâng cao hiệu quả phối hợp liên ngành, hợp tác quốc tế và sự tham gia của cộng đồng doanh nghiệp, nhằm tạo ra một hệ sinh thái pháp lý vững chắc trong bảo hộ bản quyền số.

3. Những thách thức trong quản lý bản quyền số tại Việt Nam 

Quản lý bản quyền trong môi trường số ở Việt Nam hiện nay không chỉ là một vấn đề pháp lý, mà còn là thách thức mang tính đa chiều, đan xen giữa yếu tố công nghệ, nhận thức xã hội, năng lực thể chế và bối cảnh toàn cầu hóa.

Thứ nhất, thách thức về pháp lý. Mặc dù Việt Nam đã ban hành Luật Sở hữu trí tuệ (sửa đổi, bổ sung năm 2009, 2019, 2022) cùng các nghị định, thông tư hướng dẫn nhưng hệ thống pháp luật vẫn chưa bắt kịp sự biến đổi nhanh chóng của công nghệ số. Các khái niệm như “nội dung số”, “phát tán trực tuyến” hay “sao chép kỹ thuật số” chưa được định nghĩa rõ ràng, dẫn đến khoảng trống trong áp dụng. Hơn nữa, cơ chế xử phạt hiện hành chủ yếu dừng ở mức hành chính, mức tiền xử phạt cao nhất là 250.000.000 đồng và 500.000.000 đồng đối với cá nhân, tổ chức vi phạm được quy định tại Nghị định số 131/2013/NĐ-CP, sửa đổi bổ sung từ Nghị định số 28/2017/NĐ-CP ngày 20/3/2020. So với thiệt hại kinh tế, có thể lên đến hàng trăm triệu USD mỗi năm, mà hành vi vi phạm bản quyền số gây ra, mức xử phạt chưa đủ sức răn đe, ngăn chặn và khiến vi phạm bản quyền số tiếp tục diễn ra phổ biến.

Thứ hai, thách thức về công nghệ. Trên thế giới, nhiều quốc gia đã áp dụng công nghệ Digital Rights Management (DRM), trí tuệ nhân tạo (AI) phát hiện vi phạm, hay blockchain để định danh tác phẩm… để chống vi phạm bản quyền số3 và trở thành một giải pháp mở để xây dựng một mô hình quản trị nhằm bảo vệ, cung cấp nhiều loại hình dịch vụ số4. Trong khi đó, tại Việt Nam, những công cụ kỹ thuật này chỉ được áp dụng tại các doanh nghiệp số có tiềm lực về tài chính. Các nhà xuất bản và đơn vị phát hành hạn chế về tài chính, kỹ thuật để đầu tư vào các giải pháp công nghệ để bảo vệ tác phẩm trên không gian mạng, dẫn đến việc chống vi phạm bản quyền số gần như bất khả thi.

Thứ ba, thách thức về nhận thức xã hội. Quan điểm sử dụng “nội dung miễn phí” còn khá phổ biến trong văn hóa của người Việt Nam. Trong đó có tới 65% người dùng Việt Nam đang sử dụng và truy cập nội dung lậu trên nền tảng số5. Báo cáo của Asia Video Industry Association (AVIA) cũng ghi nhận Việt Nam nằm trong nhóm quốc gia có tình trạng vi phạm bản quyền trực tuyến cao nhất Đông Nam Á6. Điều cho thấy nhận thức của cộng đồng về tôn trọng bản quyền còn hạn chế cũng như công tác truyền thông, giáo dục về tôn trọng bản quyền chưa thực sự hiệu quả.

Thứ tư, thách thức về năng lực quản lý và thực thi pháp luật. Cơ chế phối hợp giữa các cơ quan chức năng như Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Công an hay các đơn vị liên quan còn thiếu sự đồng bộ, dẫn đến tình trạng chồng chéo trong xử lý vi phạm. Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ chuyên trách về giám sát và xử lý hành vi vi phạm bản quyền số còn mỏng và hạn chế về chuyên môn so với sự phát triển của thực tiễn. Đặc biệt, trên các nền tảng số như YouTube, Facebook, TikTok, cơ chế “gỡ bỏ theo yêu cầu” (take-down) còn phụ thuộc vào mức độ hợp tác của các cá nhân và tổ chức ở nước ngoài, dẫn đến việc thực thi pháp luật còn gặp nhiều khó khăn.

Thứ năm, thách thức mang tính toàn cầu. Bản chất xuyên biên giới của môi trường số khiến cho nhiều hành vi vi phạm bản quyền được thực hiện từ các máy chủ đặt ở nước ngoài. Việc xử lý những trường hợp này gặp nhiều trở ngại về thẩm quyền và cơ chế hợp tác quốc tế. Theo báo cáo của Liên minh Quyền sở hữu trí tuệ Quốc tế (IIPA), Việt Nam là một thị trường mới nổi và quan trọng của ngành công nghiệp sáng tạo ở Đông Nam Á nhưng đang bị thiệt hại nghiêm trọng do nạn vi phạm bản quyền7. Đây không chỉ là vấn đề pháp lý trong nước, mà còn là thách thức đối với vị thế của Việt Nam khi tham gia các hiệp định thương mại quốc tế có cam kết chặt chẽ về bảo hộ sở hữu trí tuệ như CPTPP hay EVFTA.

Tổng hợp các yếu tố trên cho thấy, thách thức trong quản lý bản quyền số tại Việt Nam vừa có tính nội tại (pháp luật, công nghệ, nhận thức xã hội, năng lực thực thi), vừa có tính ngoại sinh (xuyên biên giới, hội nhập quốc tế). Nếu không được giải quyết kịp thời, những thách thức này không chỉ gây thất thoát nguồn thu cho ngành công nghiệp sáng tạo mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến uy tín quốc gia trong việc thực thi cam kết quốc tế về sở hữu trí tuệ.

4. Giải pháp tăng cường quản lý quyền số tại Việt Nam 

Trong bối cảnh phát triển văn hóa số và thách thức đặt ra cho công tác quản lý bản quyền số tại Việt Nam cần được triển khai theo hướng toàn diện, đa tầng và gắn kết giữa pháp luật – công nghệ – xã hội – hợp tác quốc tế. Các giải pháp trọng tâm có thể được đề xuất như sau:

Một là, hoàn thiện khung pháp lý và nâng cao hiệu lực thực thi. Việt Nam cần tiếp tục rà soát, sửa đổi Luật Sở hữu trí tuệ và các văn bản liên quan nhằm quy định chuẩn xác khái niệm “bản quyền”, “bản quyền số” và hành vi vi phạm trong môi trường số. Cần có cơ chế xử phạt nghiêm minh, có tính răn đe cao đối với các hành vi vi phạm bản quyền số, đặc biệt là các hành vi thương mại hóa vi phạm bản quyền số. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh việc áp dụng cơ quan chuyên trách giải quyết những vấn đề về tranh chấp bản quyền, sở hữu trí tuệ, bảo vệ quyền lợi chính đáng của chủ sở hữu.

Hai là, tăng cường ứng dụng công nghệ, kỹ thuật số trong bảo vệ bản quyền. Công nghệ chính là công cụ hiệu quả nhất để quản lý bản quyền trong môi trường số. Nhà nước cần ban hành các chính sách có tính ưu đãi về thuế, tín dụng… nhằm khuyến khích các doanh nghiệp, nhà xuất bản, đơn vị phát hành đầu tư vào các giải pháp Digital Rights Management (DRM), hệ thống nhận diện nội dung bằng AI và thí điểm ứng dụng Blockchain trong định danh tác phẩm. 

Ba là, nâng cao nhận thức xã hội và thay đổi hành vi người dùng. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, pháp luật và công nghệ chỉ phát huy hiệu quả khi có sự đồng thuận xã hội. Do đó, Việt Nam cần xây dựng các chương trình giáo dục đạo đức, chiến dịch truyền thông quốc gia nhằm nâng cao nhận thức của cộng đồng về tầm quan trọng của việc sử dụng các tác phẩm số có bản quyền, gắn với khẩu hiệu “tôn trọng bản quyền là tôn trọng sáng tạo”. Đồng thời, cần phát triển mô hình kinh tế nội dung số hợp pháp, giá rẻ, dễ tiếp cận để thay thế hành vi sử dụng sản phẩm vi phạm. Từ đó, xây dựng một hệ sinh thái số cạnh tranh với các sản phẩm lậu.

Bốn là, tăng cường năng lực quản lý và phối hợp liên ngành. Nhà nước cần xây dựng những trung tâm quản lý bản quyền số để hỗ trợ, tư vấn cho tác giả về quyền sở hữu trí tuệ và đăng ký bản quyền đối với các sản phẩm. Bên cạnh đó, cần đầu tư đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên trách có trình độ công nghệ, pháp lý và ngoại ngữ để đáp ứng yêu cầu xử lý vi phạm trong môi trường số xuyên biên giới.

Năm là, mở rộng hợp tác quốc tế. Do tính xuyên biên giới của bản quyền số, Việt Nam cần chủ động tham gia các sáng kiến toàn cầu về bảo hộ sở hữu trí tuệ do WIPO, UNESCO hoặc ASEAN khởi xướng. Việc ký kết thỏa thuận hợp tác song phương với các nền tảng xuyên quốc gia, như: Google, Meta, TikTok nhằm chia sẻ dữ liệu và phối hợp xử lý vi phạm là rất quan trọng. 

Do đó, tăng cường quản lý bản quyền số không chỉ là một nhiệm vụ pháp lý đơn thuần mà còn là chiến lược phát triển kinh tế sáng tạo, góp phần bảo vệ lợi ích của tác giả, thúc đẩy ngành xuất bản – truyền thông – văn hóa số, đồng thời khẳng định uy tín quốc gia trong tiến trình hội nhập quốc tế. Chỉ khi các giải pháp pháp luật, công nghệ, xã hội và hợp tác quốc tế được triển khai đồng bộ, Việt Nam mới có thể kiểm soát hiệu quả vi phạm bản quyền số và phát triển một thị trường nội dung số lành mạnh, bền vững.

5. Kết luận

Trong bối cảnh chuyển đổi số và hội nhập quốc tế sâu rộng, quản lý nhà nước về bản quyền số trở thành một trụ cột quan trọng của chiến lược phát triển kinh tế sáng tạo, bảo vệ tri thức và khuyến khích đổi mới. Các phân tích cho thấy, bên cạnh những thành tựu đáng ghi nhận trong việc hoàn thiện pháp luật và triển khai cơ chế bảo hộ, Việt Nam vẫn đang đối diện nhiều thách thức: từ sự thiếu hụt nguồn lực thực thi, nhận thức xã hội còn hạn chế, cho đến tính phức tạp xuyên biên giới của các hành vi vi phạm bản quyền. Thực trạng này không chỉ gây ra thất thoát lớn về kinh tế mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường sáng tạo và năng lực cạnh tranh quốc gia.

Như vậy, quản lý bản quyền số không chỉ mang ý nghĩa bảo vệ lợi ích tác giả và chủ sở hữu mà còn góp phần trực tiếp vào việc hình thành một hệ sinh thái nội dung số lành mạnh, bền vững, thúc đẩy kinh tế tri thức, từ đó khẳng định vị thế của Việt Nam trong tiến trình toàn cầu hóa. Trong tương lai, nếu tận dụng hiệu quả sự kết hợp giữa pháp luật – công nghệ – xã hội – hợp tác quốc tế, Việt Nam hoàn toàn có thể chuyển thách thức thành cơ hội, đưa quản lý bản quyền số trở thành động lực cho sự phát triển văn hóa, khoa học và công nghệ trong kỷ nguyên số.

Chú thích:

1. Vi phạm bản quyền số: Cuộc rượt đuổi không hồi kết. https://vtv.vn/vi-pham-ban-quyen-so-cuoc-ruot-duoi-khong-hoi-ket-100250731102120978.htm

2. Thất thoát hàng triệu USD vì vi phạm bản quyền. https://www.anninhthudo.vn/that-thoat-hang-trieu-usd-vi-vi-pham-ban-quyen-post546738.antd

3. Blockchain in Digital Rights Management Market Report 2025. https://www.researchandmarkets.com/report/blockchain-in-digital-rights-management-market?srsltid=AfmBOopY75foxrQWYMowIxPEHRTksrlNokszdBtlMW4xTL4KPasIvlA2&utm

4. Wenyan Jia, Jing Su, Yaqing Si, Yuzhu Liu (2022). Compound Protection of Network Short Video Copyright Based on Blockchain and DRM. https://www.atlantis-press.com/proceedings/icemci-22/125981443?utm

5. 65% người dùng Việt Nam đang xem và truy cập nội dung lậu. https://vietnamnet.vn/65-nguoi-dung-viet-nam-dang-xem-va-truy-cap-noi-dung-lau-2428776.html

6. AVIA (2021). New survey shows Vietnam among highest in online piracy in Southeast Asia. https://www.acnnewswire.com/press-release/english/66674/new-survey-shows-vietnam-among-highest-in-online-piracy-in-southeast-asia?utm

7. IIPA (2023). 2023 special 301 report on copyright protection and enforcement.https://iipa.org/files/uploads/2023/01/2023VIETNAMSPEC301.pdf?utm

Tài liệu tham khảo:

1. Chính phủ (2013), Nghị định số 131/2013/NĐ-CP ngày 16/10/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính về quyền tác giả, quyền liên quan.

2. Chính phủ (2013), Nghị định số 28/2017/NĐ-CP ngày 20/3/2017 sửa đổi, bổ sung một số điều của nghị định số 131/2013/nđ-cp ngày 16 tháng 10 năm 2013 của chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính về quyền tác giả, quyền liên quan và nghị định số 158/2013/nđ-cp ngày 12 tháng 11 năm 2013 của chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch và quảng cáo.

3. Chính phủ (2018). Nghị định số 22/2018/NĐ-CP ngày 23/02/2018 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2009 về quyền tác giả, quyền liên quan.

4. Chính phủ (2023). Nghị định số 17/2023/NĐ-CP ngày 26/4/2023 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả, quyền liên quan.

5. Cục Bản quyền tác giả. (2022). Báo cáo tổng kết công tác bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.

6. Quốc hội (2005, 2009, 2019, 2022). Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009, 2019, 2022).

7. Vi phạm bản quyền trên mạng tại Việt Nam ở mức cao. https://thanhnien.vn/vi-pham-ban-quyen-tren-mang-tai-viet-nam-o-muc-cao-18524041716145265.htm.

8. ACE – Alliance for Creativity and Entertainment. (2022). Annual report on online copyright violations.

9. World Bank (2023). Vietnam digital economy and copyright protection. Washington, D.C.: World Bank Publicatiosns.

10. World Intellectual Property Organization (WIPO) (2022). WIPO intellectual property report 2022: The direction of innovation. Geneva: WIPO.