TS. Phùng Lê Dung
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
(Quanlynhanuoc.vn) – Nền nông nghiệp sinh thái ở nước ta hiện nay đang trong giai đoạn non trẻ nên không tránh khỏi manh mún, nhỏ lẻ; thiếu liên kết, chưa hình thành được các chuỗi giá trị; thiếu các tổ, nhóm nông dân, hợp tác xã, nhất là các doanh nghiệp nông nghiệp sinh thái đầu tàu. Bên cạnh đó, các sản phẩm của nông nghiệp sinh thái chưa có tiêu chí nhận biết rõ ràng. Trong bối cảnh thực thi tiêu chuẩn ESG, để thúc đẩy nền nông nghiệp sinh thái nói chung, doanh nghiệp nông nghiệp sinh thái nói riêng phát triển cần có những giải pháp đồng bộ, hiệu quả.
Từ khóa: Doanh nghiệp; bảo vệ môi trường; nông nghiệp sinh thái; nông nghiệp xanh; tiêu chuẩn ESG.
1. Đặt vấn đề
Theo quan điểm FAO đưa ra năm 2015 và đã được 175 quốc gia thành viên đồng thuận thì nông nghiệp sinh thái là phương pháp tiếp cận tổng hợp, áp dụng đồng thời các khái niệm và nguyên tắc về sinh thái và xã hội để xây dựng và quản trị các hệ thống nông nghiệp và thực phẩm. Đến năm 2019, Hội đồng FAO phê duyệt 10 thành tố của nông nghiệp sinh thái, bao gồm: tính đa dạng; chia sẻ kiến thức và đồng khởi tạo; tính tương hỗ; tính hiệu quả; sự tái tạo; sức chống chịu; giá trị xã hội nhân văn; truyền thống ẩm thực và văn hóa; quản trị có trách nhiệm; kinh tế tuần hoàn và vững chắc1. Như vậy, nông nghiệp sinh thái là hình thức canh tác sử dụng các tài nguyên sẵn có trong tự nhiên, có tác dụng ngăn ngừa sâu bệnh, nâng cao năng suất nhưng vẫn bảo đảm độ phì nhiêu cho đất, bảo đảm độ sạch của nguồn nước và độ trong lành của không khí.
Do đó, doanh nghiệp nông nghiệp sinh thái được hiểu là loại hình doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp trên cơ sở áp dụng mô hình sản xuất dựa vào nguyên tắc của nông nghiệp sinh thái: khai thác hợp lý gắn với tái tạo các nguồn lực tự nhiên, giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường; đồng thời, bảo đảm hiệu quả kinh tế và giá trị xã hội. Đây là mô hình sản xuất không chỉ hướng tới lợi nhuận mà còn kết hợp hài hòa giữa sản xuất nông nghiệp dựa trên sự tôn trọng tự nhiên gắn với bảo vệ môi trường, gìn giữ đa dạng sinh học, hướng tới phát triển bền vững.
Tiêu chuẩn ESG (viết tắt bởi Environment – môi trường, Social – xã hội và Governance – quản trị doanh nghiệp). Đây là bộ 3 tiêu chuẩn để đo lường những yếu tố liên quan đến định hướng, hoạt động phát triển bền vững của doanh nghiệp. Việc tuân thủ tiêu chuẩn ESG sẽ giúp doanh nghiệp nông nghiệp sinh thái thuận lợi hơn để trở thành mắt xích trong chuỗi cung ứng quốc tế; từ đó, góp phần mở rộng quy mô doanh nghiệp, nâng cao năng suất lao động và tăng trưởng bền vững. Đối với Việt Nam, tiêu chuẩn ESG vừa mở ra cơ hội nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức đối với doanh nghiệp nông nghiệp sinh thái trong giai đoạn hiện nay.
2. Cơ hội đối với các doanh nghiệp nông nghiệp sinh thái khi thực thi tiêu chuẩn ESG
Một là, nền kinh tế Việt Nam có quy mô lớn tạo động lực cho các doanh nghiệp nông nghiệp sinh thái áp dụng các tiêu chuẩn ESG. Hiện nay, Việt Nam đã trở thành một trong 40 nền kinh tế lớn nhất thế giới, nằm trong nhóm 20 nền thương mại hàng đầu, đứng thứ 32 trong 100 giá trị thương hiệu quốc gia mạnh trên thế giới; đã ký 17 FTA với hơn 60 nước2. Năm 2024, kim ngạch ngành nông nghiệp đạt kỷ lục 62,5 tỷ USD, tăng 18,7% so với 20233.
Hai là, khung chính sách, pháp luật. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1658/QĐ-TTg ngày 01/10/2021 phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn 2050; Quyết định số 150/QĐ-TTg ngày 28/01/2022 phê duyệt Chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050; Quyết định số 1490/QĐ-TTg ngày 27/11/2023 phê duyệt Đề án “Phát triển bền vững một triệu héc-ta chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030”; qua đó, mở rộng cơ hội tham gia thị trường tín chỉ carbon toàn cầu và nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành lúa gạo trong bối cảnh kinh tế xanh. Dự án VnSAT tại đồng bằng sông Cửu Long cho thấy, trên 185.000 ha, nông dân giảm đầu vào đến 50% và tăng thu nhập 30%; đồng thời, cắt khoảng 1,5 triệu tấn CO₂/năm nhờ thay đổi quy trình canh tác, quản lý nước và vật tư4.
Ba là, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 tạo ra những thuận lợi cho các doanh nghiệp nông nghiệp sinh thái ứng dụng công nghệ cao. Nhiều tiến bộ khoa học đã được áp dụng trong sản xuất – kinh doanh nông nghiệp, như: trí tuệ nhân tạo (AI), canh tác mới, giống mới… Điển hình là công nghệ canh tác thông minh đã được kiểm chứng trong thực tiễn như tưới ngập khô xen kẽ (AWD) có thể giảm tới 48% lượng phát thải khí mê tan và tiết kiệm 25 – 30% lượng nước tưới so với tưới ngập truyền thống, phù hợp với thổ nhưỡng hạn, mặn ngày càng gay gắt ở đồng bằng sông Cửu Long. Từ tiến bộ khoa học này, nhiều sản phẩm nông nghiệp có chất lượng cao, đạt tiêu chuẩn xuất khẩu chiếm ưu thế thế trên thị trường thế giới, giá trị xuất khẩu đạt hơn 1 tỷ USD/năm, như: lúa gạo, hạt điều, cà phê, cá tra; riêng cà phê đạt khoảng 5,48 tỷ USD/năm5.
Bốn là, các quốc gia bắt đầu phải tham gia vào “cuộc chơi ESG”, từ đó, định hình lại chuỗi cung ứng. Quy định của EU nhằm bảo đảm các sản phẩm mà công dân EU tiêu thụ không góp phần gây ra nạn phá rừng hoặc suy thoái rừng trên toàn thế giới áp dụng cho các mặt hàng, như: cà phê, cao su, ca cao, gỗ, thịt bò, dầu cọ, đậu tương và sản phẩm liên quan. Thời hạn áp dụng sau khi gia hạn từ ngày 30/12/2025 với doanh nghiệp vừa và lớn, từ ngày 30/6/2026 với doanh nghiệp siêu nhỏ và nhỏ. Doanh nghiệp nào đáp ứng được truy xuất nguồn gốc địa lý, tuân thủ “không gây mất rừng” sẽ có lợi thế rõ rệt trong tiêu thụ và giá bán6.
Năm là, tiêu chuẩn ESG mở ra cơ hội tiếp cận vốn ưu đãi và đầu tư xanh. Mục tiêu và kế hoạch hành động quốc gia về giảm thiểu phát thải khí nhà kính và ứng phó biến đổi khí hậu do mỗi quốc gia đệ trình theo Thoả thuận Paris (NDC 2022) đã nâng mục tiêu giảm phát thải vô điều kiện lên 15,8% vào năm 2030, riêng nông nghiệp cần khoảng 16 tỷ USD để hiện thực hóa các phương án giảm phát thải.Việt Nam cũng theo đuổi mục tiêu giảm 30% khí mê-tan đến năm 2030 so với năm 2020, trong đó lúa gạo là trụ cột giảm phát thải7. Các quỹ khí hậu quốc tế, tổ chức tài chính phát triển hay các nhà đầu tư tư nhân đều ưu tiên dự án có tiêu chuẩn ESG rõ ràng. Doanh nghiệp nông nghiệp sinh thái khi chứng minh được tiêu chuẩn ESG, dễ dàng tiếp cận nguồn vốn hơn, thu hút được đầu tư và góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh.
3. Về hạn chế, thách thức
Thứ nhất, chi phí tuân thủ tiêu chuẩn ESG và chuyển đổi xanh cao dẫn đến rủi ro thu hẹp thị trường và khó mở rộng mô hình sinh thái. Các thị trường cao cấp, như: EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản đang ngày càng siết chặt tiêu chuẩn “xanh”. Quy định chống mất rừng của EU (EUDR) yêu cầu từ năm 2025 – 2026, tất cả các sản phẩm cà phê, ca cao, gỗ, cao su, đậu tương xuất sang EU phải có thông tin tọa độ địa lý lô đất và minh chứng “không phá rừng”. Việc áp dụng tiêu chuẩn ESG cần có đầu tư lớn vào hệ thống sản xuất sạch, công nghệ giảm phát thải, hạ tầng số hóa truy xuất nguồn gốc và quản trị minh bạch. Điều này tạo áp lực rất lớn cho doanh nghiệp nông nghiệp sinh thái bởi nền tảng nông nghiệp sinh thái của Việt Nam vẫn dựa trên quy mô hộ, nhỏ lẻ, phân tán. Ngoài ra, thiếu vốn, thiếu hạ tầng số hóa, quản trị rủi ro chuỗi cung ứng còn hạn chế nên chi phí để đạt được chứng nhận quốc tế (hữu cơ, Rainforest Alliance, Fairtrade…) là rào cản không nhỏ, nguy cơ bị loại khỏi chuỗi cung ứng là rất cao.
Thứ hai, hạn chế trong việc sử dụng công cụ MRV (Measurement – Reporting – Verification: đo đạc, báo cáo, thẩm định) cho tín chỉ carbon. Trong nông nghiệp sinh thái, MRV giúp lượng hóa chỉ tiêu giảm phát thải khí nhà kính và chỉ tiêu hấp thụ carbon. Tuy nhiên, hệ thống MRV ở Việt Nam chưa hoàn thiện, chưa đồng bộ, chủ yếu dựa vào tính toán thủ công hoặc nghiên cứu thí điểm, chưa đủ độ tin cậy để tham gia thị trường tín chỉ carbon quốc tế. Chi phí đầu tư thiết bị đo lường, nền tảng số và kiểm toán độc lập rất cao, vượt quá khả năng của doanh nghiệp nhỏ và vừa. Chính việc thiếu khung chuẩn MRV quốc gia cho nông nghiệp khiến doanh nghiệp không có “chuẩn mực chung” để so sánh dẫn đến rủi ro tín chỉ carbon không được quốc tế công nhận. Việc thiếu minh bạch dữ liệu phát thải cũng ảnh hưởng đến uy tín khiến doanh nghiệp khó tiếp cận vốn xanh, cơ hội hợp tác với đối tác toàn cầu và mất cơ hội tham gia thị trường carbon, vốn là nguồn thu mới và lợi thế cạnh tranh dài hạn.
Thứ ba, áp lực từ thị trường quốc tế ngày càng khắt khe. Các rào cản “xanh” như EUDR của EU hay các yêu cầu về phát thải carbon trong EVFTA, CPTPP… đặt doanh nghiệp Việt Nam vào tình thếbuộc phải tuân thủ và chịu sức ép kép: vừa phải cạnh tranh về giá với nông sản quốc tế, vừa phải tuân thủ chuẩn mực ESG ngày càng khắt khe từ thị trường nhập khẩu. Nếu không đáp ứng đúng hạn, doanh nghiệp có nguy cơ mất thị trường xuất khẩu, đặc biệt là với các sản phẩm chủ lực, như: gạo, cà phê, cao su, hồ tiêu.
Thứ tư, khung pháp lý và hạ tầng hỗ trợ còn thiếu đồng bộ. Mặc dù Chính phủ đã ban hành nhiều chiến lược quan trọng, song các hướng dẫn thực thi tiêu chuẩn ESG cụ thể cho doanh nghiệp nông nghiệp còn rời rạc. Hệ thống tiêu chuẩn quốc gia về đo đạc phát thải, chứng chỉ xanh hay cơ sở dữ liệu nông nghiệp số hóa chưa hoàn chỉnh dẫn đến doanh nghiệp thiếu căn cứ để triển khai. Bên cạnh đó, thiếu cơ chế khuyến khích doanh nghiệp nông nghiệp sinh thái đầu tư, kinh doanh vào lĩnh vực này.Ngoài ra, kết cấu hạ tầng cho nông nghiệp sinh thái vẫn còn nhiều bất cập, chưa đồng bộ, chưa hiện đại dẫn đến giảm động lực thúc đẩy doanh nghiệp nông nghiệp sinh thái phát triển và giảm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam với các doanh nghiệp quốc tế.
Có thể kể đến một số nguyên nhân dẫn đến hạn chế nêu trên:
Một là, cấu trúc sản xuất nền nông nghiệp còn manh mún, nhỏ lẻ. Nông nghiệp Việt Nam chủ yếu dựa vào hàng triệu hộ nông dân quy mô nhỏ, đất đai phân tán, phát triển manh mún nên khó áp dụng đồng bộ các quy trình “xanh”. Theo Tổng cục Thống kê (2023), diện tích đất nông nghiệp bình quân/hộ chỉ khoảng 0,5 – 0,7 ha. Quy mô nhỏ khiến việc đầu tư công nghệ cao, thiết bị đo lường phát thải hay truy xuất nguồn gốc theo chuẩn quốc tế càng trở nên khó khăn. Bên cạnh đó, việc liên kết kinh tế giữa các hộ nông dân với hợp tác xã và doanh nghiệp còn rời rạc. Do đó, cần có một chiến lược quy hoạch tổng thể phát triển nông nghiệp, nông thôn.
Hai là, rủi ro khí hậu và xã hội làm gia tăng chi phí sản xuất, chi phí tuân thủ tiêu chuẩn ESG.Biến đổi khí hậu tác động rõ rệt đến nông nghiệp sinh thái cả nước, đặc biệt ngày càng nghiêm trọng tại vùng đồng bằng sông Cửu Long. Hiện nay, có 67 nghìn ha đất mặn ở đồng bằng sông Cửu Long, chiếm 53,5% diện tích đất mặn cả nước đã làm suy giảm nước sạch tưới tiêu và tăng xâm nhập mặn buộc doanh nghiệp phải chi thêm cho các giải pháp thích ứng, như: chuyển đổi mùa vụ, đầu tư hệ thống thủy lợi, bảo hiểm nông nghiệp. Những tác động này đã làm sụt giảm sản lượng và năng suất, ảnh hưởng đến chiến lược phát triển của doanh nghiệp8. Đồng thời, yêu cầu ESG về “trách nhiệm xã hội”, như: an toàn lao động, bảo đảm thu nhập công bằng cho nông dân cũng khiến doanh nghiệp tăng chi phí nhân công và đào tạo.
Ba là, hạn chế về nguồn lực tài chính và tiếp cận nguồn tài chính xanh. Để đạt tiêu chuẩn ESG, doanh nghiệp cần vốn lớn cho cải tiến công nghệ, chứng nhận quốc tế, quản trị dữ liệu. Chỉ riêng nông nghiệp, nhu cầu tài chính để đạt mục tiêu NDC đến năm 2030 ước khoảng16 tỷ USD nhằm chuẩn hóa dữ liệu đồng ruộng, sổ tay quy trình và hạ tầng số ở địa phương, thực hiện các giải pháp giảm phát thải, trong khi nguồn lực công và xã hội hóa hiện nay mới đáp ứng được một phần nhỏ9. Doanh nghiệp nôngnghiệp sinh thái cũng khó tiếp cận vốn ưu đãi quốc tế vì thiếu minh bạch tài chính. Hệ thống tín dụng xanh, quỹ khí hậu, bảo hiểm nông nghiệp chưa phát triển đủ mạnh, khiến doanh nghiệp khó tiếp cận nguồn vốn ưu đãi.
Bốn là, hạn chế về công nghệ và năng lực đổi mới sáng tạo. Phần lớn doanh nghiệp nông nghiệp sinh thái chưa có điều kiện ứng dụng công nghệ số, như: blockchain, big data, IoT… để đáp ứng yêu cầu truy xuất nguồn gốc và minh bạch dữ liệu ESG. Nhiều mô hình canh tác thông minh khí hậu, như: tưới ngập khô xen kẽ – AWD, nông nghiệp tuần hoàn vẫn dừng ở quy mô thí điểm. Doanh nghiệp thiếu cả nguồn nhân lực chất lượng cao lẫn kết cấu hạ tầng công nghệ khiến khả năng cạnh tranh thấp hơn so với các đối thủ trong khu vực.
Năm là, năng lực quản trị và minh bạch thông tin còn yếu. Tiêu chí “G” trong ESG yêu cầu doanh nghiệp có hệ thống báo cáo thường niên, kiểm toán độc lập, quản trị công ty minh bạch. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp nông nghiệp sinh thái vẫn hoạt động theo mô hình gia đình, hệ thống quản trị còn thủ công, thiếu cơ chế công khai dữ liệu nên chưa đáp ứng được chuẩn mực quản trị quốc tế. Điều này làm giảm uy tín với nhà đầu tư và cản trở khả năng tiếp cận vốn quốc tế, giảm lợi thế khi cạnh tranh trong chuỗi cung ứng toàn cầu.
Sáu là, xúc tiến thương mại của ngành Nông nghiệp chưa đạt như kỳ vọng. Mặc dù Việt Nam có thế mạnh về nhiều loại nông sản, hoa quả, nhưng tại thị trường trong nước, nhiều loại trái cây, nông sản của các nước được bày bán phổ biến, thậm chí nhiều loại chiếm ưu thế. Điều này cho thấy, nhiều loại nông sản của chúng ta “lép vế” ngay trên sân nhà. Ngay cả sản phẩm gạo ST25 được bình chọn ngon nhất thế giới thì đã có 13 – 14 nhóm gạo ở Đông Nam Á, Campuchia, Thái Lan đã từng đạt danh hiệu này10.
4. Một số giải pháp phát triển nông nghiệp sinh thái ở Việt Nam hiện nay
Thứ nhất, nâng cao nhận thức của xã hội về vai trò của doanh nghiệp nông nghiệp sinh thái trong bối cảnh thực thi tiêu chuẩn ESG. Cần tăng cường tuyên truyền về doanh nghiệp nông nghiệp sinh thái bằng nhiều hình thức đa dạng, phong phú, như: phối hợp với các kênh truyền hình, mạng xã hội; xây dựng phóng sự, phim tài liệu về các mô hình doanh nghiệp điển hình, thành công; tổ chức hội thảo, hội nghị, tập huấn về kỹ thuật nông nghiệp sinh thái. Tuyên truyền, quảng bá những kỹ thuật mới kết hợp với các kiến thức địa phương để nâng cao hiệu quả sản xuất nhưng không làm mất đi những kinh nghiệm, kỹ thuật địa phương. Bằng cách kết hợp truyền thông, đào tạo và chính sách hỗ trợ, Việt Nam có thể thúc đẩy doanh nghiệp nông nghiệp sinh thái trở thành xu hướng phát triển.
Thứ hai, hoàn thiện khung chính sách và cơ chế khuyến khích doanh nghiệp nông nghiệp sinh thái thực thi tiêu chuẩn ESG. Để thu hút sự ủng hộ của người tiêu dùng đối với sản phẩm nông nghiệp sinh thái, bên cạnh các tiêu chí đánh giá, việc nghiên cứu xây dựng các phương thức chứng nhận phù hợp cho nông nghiệp sinh thái là rất cần thiết. Nhà nước cần ban hành bộ tiêu chuẩn ESG quốc gia cho nông nghiệp sinh thái, phù hợp với các chuẩn quốc tế (EUDR, ISO, Rainforest, Organic EU/USDA…) để doanh nghiệp có căn cứ triển khai và thực thi; hoàn thiện thang đo MRV đáp ứng chuẩn quốc tế càng sớm càng tốt.
Để tạo ra động lực đủ lớn từ các chính sách thúc đẩy doanh nghiệp nông nghiệp sinh thái phát triểnnhằm tạo ra một sân chơi bình đẳng trên thị trường, Nhà nước cần hỗ trợ các doanh nghiệp bao tiêu đầu ra cho nông nghiệp sinh thái thông qua xây dựng quỹ tín dụng xanh, bảo hiểm nông nghiệp xanh, hỗ trợ lãi suất vay vốn cho doanh nghiệp đầu tư công nghệ sạch, hỗ trợ đào tạo, xây dựng thương hiệu quảng bá sản phẩm, hạ tầng số hóa và chứng nhận bền vững. Theo hướng đó, cần đẩy nhanh việc triển khai Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp thành mô hình chuẩn. Trên cơ sở đó, tiến tới nhân rộng sang các hàng hoá chủ lực khác, như: cà phê, cao su, hồ tiêu. Nghiên cứu xây dựng phát triển các chương trình thúc đẩy tiêu thụ nông sản an toàn, trách nhiệm, minh bạch, các chương trình hỗ trợ quảng bá cho sản phẩm nông nghiệp sinh thái.
Thứ ba, phát triển liên kết kinh tế trong nông nghiệp sinh thái theo chuỗi giá trị, đặc biệt là liên kết hộ nông dân – hợp tác xã – doanh nghiệp; thúc đẩy liên kết sản xuất – tiêu thụ để hướng đến nền sản xuất hàng hoá lớn, năng suất cao. Trong đó, doanh nghiệp nông nghiệp sinh thái cần trở thành “đầu tàu” trong chuỗi giá trị, đóng vai trò chính trong ký hợp đồng bao tiêu, cung cấp vật tư, chuyển giao kỹ thuật, đào tạo nông dân và tiêu thụ hàng hóa. Bên cạnh đó, Nhà nước cần hoàn thiện các chính sách thúc đẩy liên kết sản xuất theo mô hình nông nghiệp sinh thái, dần tiến tới thực hiện xây dựng chỉ dẫn địa lý, thương hiệu vùng, như: cà phê Buôn Ma Thuột, vải thiều Lục Ngạn, gạo ST25 gắn với chứng nhận nhãn sinh thái.
Thứ tư, đẩy mạnh ứng dụng khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số. Theo hướng đó, cần đẩy mạnh ứng dụng IoT, blockchain, Big Data trong truy xuất nguồn gốc, giám sát phát thải và quản lý chuỗi cung ứng. Khuyến khích áp dụng công nghệ canh tác thông minh để giảm phát thải và tăng năng suất. Đồng thời, Nhà nước cần phối hợp với các viện nghiên cứu, trường đại học để chuyển giao các giải pháp nông nghiệp sinh thái kết hợp với kinh tế tuần hoàn. Khuyến khích nghiên cứu và áp dụng giống cải tiến thích ứng tốt hơn trước tác động của biến đổi khí hậu và thiên tai; đồng thời, chú trọng thu thập và phát triển nguồn gen cây trồng, vật nuôi quý của địa phương làm vật liệu chọn tạo giống cả bằng hình thức tại nông hộ và ngân hàng gen. Tạo ra hệ sinh thái nông nghiệp xanh, gồm: sản xuất, bảo quản, chế biến, thu mua và phân phối sản phẩm…, đặc biệt tại những vùng có điều kiện khắc nghiệt.
Thứ năm, nâng cao năng lực quản trị và minh bạch thông tin. Doanh nghiệp cần thiết lập hệ thống quản trị theo chuẩn quốc tế, có báo cáo ESG định kỳ, kiểm toán độc lập và công khai dữ liệu tài chính, môi trường. Đào tạo đội ngũ quản lý am hiểu về ESG, có khả năng làm việc với đối tác quốc tế và tiếp cận nguồn vốn xanh. Khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia chương trình đào tạo ESG do Bộ Nông nghiệp và Môi trường và các tổ chức quốc tế tài trợ, giúp nâng cao kỹ năng quản trị bền vững.
Thứ sáu, tăng cường huy động vốn và hợp tác quốc tế. Chủ động kết nối với các quỹ khí hậu toàn cầu, như: Green Climate Fund, World Bank, ADB, JICA để huy động vốn ưu đãi cho dự án sinh thái.Khuyến khích doanh nghiệp tham gia thị trường tín chỉ carbon từ các mô hình lúa – tôm, lúa – cá, nông nghiệp hữu cơ, giảm phát thải khí metan. Mở rộng mô hình hợp tác công – tư (PPP) trong nông nghiệp xanh, đặc biệt ở hạ tầng thủy lợi chống hạn mặn, logistics xanh và năng lượng tái tạo. Các bộ, ngành có liên quan phối hợp và hỗ trợ doanh nghiệp tăng cường quảng bá, xúc tiến thương mại, đưa các nông sản Việt Nam ra với thị trường thế giới.
Thứ bảy, thích ứng biến đổi khí hậu và bảo đảm sinh kế cho nông dân. Phát triển mô hình đa dạng hóa sinh kế: lúa – tôm, lúa – thủy sản, cây ăn quả trên đất mặn, góp phần tăng thu nhập và giảm rủi ro khí hậu. Mở rộng bảo hiểm nông nghiệp rủi ro khí hậu, giảm gánh nặng cho hộ nông dân khi gặp thiên tai.Gắn tiêu chuẩn ESG với mục tiêu công bằng xã hội, cụ thể là bảo đảm thu nhập, an toàn lao động và phúc lợi cho nông dân, từ đó, tạo sự đồng thuận xã hội trong chuyển đổi xanh.
Thứ tám, xây dựng chiến lược quy hoạch kết cấu hạ tầng nông thôn, đa dạng hoá các nguồn lực đầu tư. Xây dựng chính sách và quản lý nguồn lực kết cấu hạ tầng nông thôn giữa các địa phương; đa dạng hóa các nguồn lực đầu tư từ mọi thành phần kinh tế, từ các tổ chức kinh tế – xã hội và người dân vào phát triển nông nghiệp sinh thái. Trong đó, cần đầu tư tập trung, tránh dàn trải với cách làm hợp lý, tạo động lực cho các phường, xã học tập, cạnh tranh, phát triển; cần chọn nhà đầu tư kỹ lưỡng, có tiêu chí cụ thể; đặc biệt, khuyến khích thu hút đầu tư vào kết cấu hạ tầng kỹ thuật nông thôn.
5. Kết luận
Các giải pháp phát triển doanh nghiệp nông nghiệp sinh thái trong bối cảnh thực thi tiêu chuẩn ESG khi được triển khai đồng bộ sẽ tận dụng thời cơ, khắc phục những thách thức đặt ra để nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp nông nghiệp sinh thái, tạo động lực thúc đẩy phát triển, khẳng định vị thế của nông nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế và đóng góp cho mục tiêu chuyển đổi xanh của Việt Nam đến năm 2030 và tầm nhìn 2050.
Chú thích:
1. Xây dựng nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh, giai đoạn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. https://hdll.vn/vi/nghien-cuu—trao-doi/xay-dung-nong-nghiep-sinh-thai-nong-thon-hien-dai-nong-dan-van-minh-giai-doan-den-nam-2030-tam-nhin-den-nam-2045.html
2. Việt Nam nằm trong 40 nền kinh tế lớn nhất thế giới. https://congthuong.vn/viet-nam-nam-trong-40-nen-kinh-te-lon-nhat-the-gioi-381201.html
3. Xuất khẩu nông, lâm, thủy sản năm 2024 – Kỷ lục mới, vị thế mới.https://en.nhandan.vn/agricultural-forestry-and-fishery-exports-in-2024-new-record-new-position-post142560.html?utm_source=chatgpt.com
4. Low Methane Agricultural Transformation in East Asia. https://documents1.worldbank.org/curated/en/099071624064016390/pdf/P5046251dee4cf091b9031b86856d0018c.pdf?utm_source=chatgpt.com
5, 10. Nông nghiệp – thách thức và thời cơ. https://nongnghiep.vn/nong-nghiep-thach-thuc-thoi-co-d278865.html
6. Environment (2024). Regulation on Deforestation-free Products. https://environment.ec.europa.eu/topics/forests/deforestation/regulation-deforestation-free-products_en
7. Climate&Clean air Coalition (2023). Vietnam – Enhancing agricultural methane ambition in Vietnam’s climate commitments. https://www.ccacoalition.org/projects/vietnam-enhancing-agricultural-methane-ambition-vietnams-climate-commitments?utm_source=chatgpt.com
8. Impact of Climate Change on Agricultural Production and Food Security: A Case Study in the Mekong River Delta of Vietnam. https://doi.org/10.3390/su16177776
9. Xanh hóa vựa lúa Việt Nam: Câu chuyện thành công ở đồng bằng sông Cửu Long, https://www.worldbank.org/vi/news/feature/2024/05/14/greening-viet-nam-s-rice-bowl-a-mekong-delta-success-story