NCS.ThS. Nguyễn Thị Thu
Học viện Cán bộ Thành phố Hồ Chí Minh
(Quanlynhanuoc.vn) – Bài viết nhằm mục đích chứng minh hạnh phúc là nội dung cốt lõi xuyên suốt toàn bộ hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh bằng phương pháp phân tích quan điểm Hồ Chí Minh về hạnh phúc. Qua kết thống kê trong Hồ Chí Minh toàn tập (tái bản năm 2021), tác giả tìm được 277 cụm từ “hạnh phúc” xuất hiện trực tiếp qua các bài nói, bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngoài ra, Người dùng nhiều cụm từ khác nhau nhằm diễn đạt thay thế cho thuật ngữ “hạnh phúc” như: vui, vui tươi, tươi vui, phấn khởi, xuân, sung sướng… Bài viết khẳng định giá trị thời đại của tư tưởng Hồ Chí Minh về hạnh phúc và gợi mở định hướng xây dựng thế giới hạnh phúc trong bối cảnh hiện nay.
Từ khóa: Tư tưởng Hồ Chí Minh, Mác-xít, hạnh phúc, thế giới hạnh phúc.
1. Đặt vấn đề
Vấn đề hạnh phúc trong tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm tư duy sáng tạo, vận dụng và phát triển dựa trên lý luận hạnh phúc của triết học Mác-xít. Quan điểm Hồ Chí Minh về hạnh phúc gắn liền với hạnh phúc nhân dân. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc làm sao cho Nhân dân có được hạnh phúc1. Hoặc rộng hơn nữa, quan điểm Hồ Chí Minh về hạnh phúc xuất phát từ nhận thức sâu sắc của Người về hạnh phúc con người2.
Quan điểm Hồ Chí Minh về hạnh phúc tiếp tục được Đảng và Nhà nước vận dụng vào thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc3, là cơ sở lý luận cho nhận thức của Đảng về hạnh phúc của Nhân dân và gợi mở những giải pháp thiết thực để hiện thực hóa lý tưởng đó vào đời sống đất nước4.
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ đấu tranh cho hạnh phúc của dân tộc Việt Nam mà cống hiến của Người còn đóng góp to lớn vào xây dựng hạnh phúc chung cho nhân loại. Do vậy, Người đã nhận được sự khâm phục và kính trọng từ những người không ưa chủ nghĩa cộng sản “Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc – người yêu nước, thế là đủ xếp ông vào hàng danh nhân văn hóa thế kỷ XX! Ấy là bởi vì ông là người khởi xướng và giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc thuộc địa và trở thành người dẫn đạo chủ chốt được mặc nhiên thừa nhận”5.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về hạnh phúc
Một là, hạnh phúc gắn liền độc lập, tự do.
Nửa cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, chính sách cai trị của thực dân Pháp đẩy đời sống người dân Việt Nam rơi vào cùng cực, bất hạnh. Về chính trị, thực dân Pháp chia Việt Nam thành ba kỳ (Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ) nhằm xóa tên Việt Nam trên bản đồ chính trị thế giới. Về kinh tế, thực dân Pháp vơ vét tài nguyên, bóc lột sức lao động người bản xứ, đặt ra nhiều thứ thuế, biến Việt Nam thành thị trường của chính quốc. Về văn hóa xã hội, thực dân Pháp thi hành chính sách ngu dân, khuyến khích văn hóa độc hại, dùng rượu cồn và thuốc phiện đầu độc người Việt Nam… Bằng tất cả sự đau xót và căm phẫn, Hồ Chí Minh đã viết nhiều tác phẩm văn học, báo chí vạch trần thứ hạnh phúc giả dối mà chính quyền thực dân Pháp bưng bít phía sau những cụm từ hoa mĩ “văn minh”, “khai hóa”…
Trong Thư ngỏ gửi ông Anbe Xarô, Bộ trưởng Bộ thuộc địa, Chủ tịch Hồ Chí Minh mỉa mai, bóc trần những chính sách cai trị tham tàn mà thực dân Pháp trà đạp lên hạnh phúc của tất cả người dân Việt Nam: “Dưới quyền cai trị của Ngài, dân An Nam đã được hưởng phồn vinh thật sự và hạnh phúc thật sự, hạnh phúc thấy nhan nhản khắp trong nước, những ty rượu và ty thuốc phiện, những thứ đó song song với sự bắn giết hàng loạt, nhà tù, nền dân chủ và tất cả bộ máy tinh vi của nền văn minh hiện đại đã làm cho người An Nam tiến bộ nhất châu Á và sung sướng nhất đời”6.
Trong chế độ phản động cùng cực đó, đấu tranh giành độc lập, tự do là con đường tất yếu để có được hạnh phúc. Do vậy, trước thời cơ tiến hành Tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám (1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết tâm cao độ “dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”7. Với quan điểm hạnh phúc gắn liền độc lập, tự do, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố “chúng ta quyết kháng chiến cho đến thắng lợi cuối cùng”8 khi thực dân Pháp “quyết cướp nước ta một lần nữa”. Người tiếp tục khẳng định, chân lý thời đại “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”9 khi đế quốc Mỹ âm mưu tiêu diệt ý chí thống nhất lãnh thổ của dân tộc Việt Nam.
Tiêu ngữ Độc lập – Tự do – Hạnh phúc được Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt cho nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) tiếp tục khẳng định quan điểm của Người về mối quan hệ biện chứng giữa hạnh phúc và độc lập, tự do. Theo đó, hạnh phúc không chỉ là kết quả tất yếu của độc lập, tự do mà hơn nữa, hạnh phúc khẳng định giá trị của độc lập, tự do; hạnh phúc là điều kiện củng cố và giữ vững độc lập, tự do. Người khẳng định “Nếu nước được độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”10. Hạnh phúc gắn với độc lập, tự do của quốc gia, dân tộc đã trở thành lý tưởng phấn đấu và hy sinh suốt cuộc đời cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, ai cũng được học hành”11.
Chủ tịch Hồ Chí Minh lựa chọn cách mạng vô sản cho dân tộc Việt Nam. Trên con đường này, hạnh phúc là động lực cổ vũ dân tộc đấu tranh giành độc lập, tự do và khi thành công rồi thì chuyển sang chủ nghĩa quốc tế “là một bộ phận của tinh thần quốc tế”12. Nghĩa là, hướng tới mục tiêu hạnh phúc trong độc lập, tự do cho giai cấp cần lao và Nhân dân ở các nước thuộc địa, phụ thuộc khắp toàn cầu. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát hiện và hiện thực hóa được giá trị của hạnh phúc trong thực tiễn, đem lại hạnh phúc gắn với độc lập, tự do không những cho dân tộc Việt Nam mà còn đem tới hạnh phúc cho Nhân dân trên thế giới.
Hai là, hạnh phúc gắn liền công bằng, bình đẳng.
Người viết: “Việc thủ tiêu bất bình đẳng về hưởng thụ, hạnh phúc không phải cho một số đông mà cho tất cả mọi người”13. Những ngày đầu sống tại Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trăn trở đi tìm thực tiễn của giá trị Tự do – Bình đẳng – Bác ái mà giai cấp tư sản Pháp rêu rao. Người đã vô cùng ngạc nhiên về cuộc sống nghèo khổ, đáng thương của người dân lao động Pháp và đúc rút ra được rằng: “Tư bản nó dùng chữ Tự do, Bình đẳng, Đồng bào để lừa dân, xúi dân đánh đổ phong kiến. Khi dân đánh đổ phong kiến rồi thì nó lại thay mặt phong kiến mà áp bức dân”14.
Trên hành trình di chuyển sang một số nước châu Âu, châu Mỹ và nhiều nước châu Phi, đến đâu Người cũng nhìn thấy cuộc sống người dân cùng cực dưới chính sách áp bức tàn bạo của chủ nghĩa thực dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận ra rằng “dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột”15. Điều này cho thấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhìn thấy tình trạng bất bình đẳng về hạnh phúc diễn ra sâu sắc trên phạm vi toàn cầu. Ở đó, hạnh phúc chỉ dành cho bọn thực dân đế quốc, chúng tìm kiếm hạnh phúc trên bất hạnh, thống khổ của giai cấp cần lao; hạnh phúc của chính quyền chính quốc là bất hạnh, khổ đau của Nhân dân các nước thuộc địa, phụ thuộc. Đây là cơ sở thực tiễn phong phú hình thành quan điểm hạnh phúc gắn liền công bằng, bình đẳng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Là nhà tư tưởng tiến bộ, luôn trân trọng quyền con người, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chấp nhận loài người tự trà đạp lên hạnh phúc của đồng loại. Vượt qua sự khác biệt về lập trường tư tưởng chính trị để tìm hiểu và tiếp nhận giá trị tích cực trong tư tưởng tư sản về quyền hạnh phúc.
Thomas Jefferson đã thừa nhận và tuyên bố về sự công bằng, bình đẳng mưu cầu hạnh phúc trong Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ: “Mọi người sinh ra đều bình đẳng. Họ được đấng tạo hóa ban cho những quyền bất khả xâm phạm; trong số đó có cuộc sống, tự do và mưu cầu hạnh phúc”16. Chủ tịch Hồ Chí Minh không những tán thành “lẽ phải không ai chối cãi được” mà còn khái quát và nâng cao thành “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”17. Nếu như hạnh phúc được chủ nghĩa tư bản phương Tây tuyên bố là thuộc về “All men” – còn có ý nghĩa là người đàn ông da trắng thì Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm và không ngừng đấu tranh cho hạnh phúc của tất cả mọi người, không phân biệt màu da, dân tộc, tôn giáo, đảng phái, giới tính… Đó là sự mở rộng tuyệt đối và triệt để phạm trù hạnh phúc, đem lại giá trị to lớn với sự phát triển tiến bộ của nhân loại. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Tất cả dân cày, người thợ trong thế giới bất kỳ nước nào, nòi nào liên hiệp nhau lại như anh em một nhà, để đập đổ tất cả tư bản trong thế giới, làm cho nước nào, dân nào cũng được hạnh phúc”18.
Từ sự am hiểu sâu sắc bản chất các loại hình xã hội đương thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định đặc tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản trong bảo đảm hạnh phúc gắn liền công bằng, bình đẳng. Người khẳng định: “Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc”19. Trước tiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ, đảng viên là những người gương mẫu thực hiện công bằng, bình đẳng “vì hạnh phúc của dân tộc… phải ghi sâu những chữ “công bình, chính trực” vào lòng”20.
Ba là, hạnh phúc là sự sẻ chia và đoàn kết.
Chủ tịch Hồ Chí Minh tổng kết: “Muốn thắng lợi thì mỗi người phải dựa vào lực lượng của số đông người, tức là của tập thể, của xã hội… Thời đại chúng ta là thời đại văn minh, thời đại cách mạng mọi việc càng phải dựa vào của tập thể, của xã hội; cá nhân không thể đứng riêng lẻ mà càng phải hòa mình trong tập thể, trong xã hội”21. Hạnh phúc vừa là kết quả của sẻ chia và đoàn kết, đồng thời, sẻ chia và đoàn kết là phương thức xây dựng hạnh phúc bền chặt. Như vậy, sẻ chia và đoàn kết đóng vai trò quan trọng hàng đầu góp phần gia tăng giá trị của hạnh phúc. Nếu hạnh phúc là “cộng vào”, “nhân lên” thì mỗi cá thể tự đẩy mình rơi vào vòng tham vọng danh lợi, tham lam vật chất tầm thường dẫn tới hình thành cộng đồng “vô đạo đức” với những thói nhỏ nhen, ích kỷ. Hạnh phúc là cho đi và còn mãi, do vậy “sẻ chia” không phải là “bớt đi”, “chia hết” mà qua đó con người thêm thấu hiểu, yêu thương, gắn bó cùng “đồng cam, cộng khổ”, “chia ngọt, sẻ bùi”.
Vận dụng vào trường hợp cụ thể, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ dẫn: “Chủ nghĩa xã hội là cái gì? Là mọi người được ăn no, mặc ấm, sung sướng, tự do. Nhưng nếu muốn tách riêng một mình mà ngồi ăn no, mặc ấm, người khác mặc kệ, thế là không tốt. Mình muốn ăn no mặc ấm, cũng cần làm sao cho tất cả mọi người ăn no, mặc ấm, như thế mới đúng”22. Có thể khẳng định, sẻ chia và đoàn kết làm cho hạnh phúc trở thành giá trị nhân văn, cao thượng và cộng đồng trở nên tốt đẹp hơn. Do đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: hạnh phúc từ sẻ chia và đoàn kết “là điểm mẹ. Điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt”23.
Người phân tích “cái gì cũng chỉ biết có mình và gia đình chứ ít khi nghĩ đến cái gia đình lớn là dân tộc, cái mình lớn hơn là phải hòa vào với dân tộc”24. Nhấn mạnh hạnh phúc quốc gia, dân tộc nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng rất tôn trọng, quan tâm, chăm lo hạnh phúc chính đáng của mỗi cá nhân con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm “đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân” không phải là “giày xéo” lên hạnh phúc cá nhân vì mỗi một con người là một cá thể nên có sự khác biệt về tính cách, sở trường, đời sống… Nếu hạnh phúc cá nhân không làm tổn hại hạnh phúc của quốc gia, dân tộc thì không phải là điều xấu. Do vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu không chỉ tôn trọng mà còn phải bảo đảm hạnh phúc cá nhân chính đáng cho tất cả chủ thể trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước.
Hạnh phúc là sẻ chia và đoàn kết, ở đây không hiểu là chia nhỏ, chia đều hoặc cào bằng hạnh phúc buộc ai đó phải nhường nhịn và chịu thiệt thòi. Mà ngược lại, hạnh phúc của cộng đồng được xây đắp từ nhiều cá thể hạnh phúc, một cá thể bất hạnh thì cộng đồng hạnh phúc sẽ trở nên khuyết thiếu. Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi “Các bạn cùng Nhân dân Việt Nam phải tương kính tương thân, thành thật hợp tác, êm ấm thuận hòa, thực hiện “Tứ hải giai huynh đệ”. Nước Việt Nam được thịnh vượng thì các bạn cũng được hạnh phúc”25.
Chủ tịch Hồ Chí Minh phân biệt rõ ràng giữa chính quyền thực dân, đế quốc và nhân dân thế giới tiến bộ, yêu chuộng hòa bình, chính nghĩa. Bằng tất cả trái tim yêu thương con người, Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa tranh đấu cho hạnh phúc của dân tộc Việt Nam vừa không quên sẻ chia hạnh phúc cho những kẻ lầm lỡ. Trong Thư gửi các tù binh Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Tôi rất lấy làm phiền lòng vì thấy các người đang ở trong tình hình thế này. Tôi coi các người như là bạn của tôi… Trong khi chờ đợi, các bạn hãy yên lòng và sống dưới sự chở che của chúng tôi, cho đến khi hết chiến tranh, khi đó các bạn sẽ được tự do”26.
Bốn là, hạnh phúc là con người được chăm lo phát triển toàn diện.
Hạnh phúc của con người là mục tiêu cao nhất, nguyên tắc chỉ đạo toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người đã từng nói: “Cả đời tôi chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc và hạnh phúc của quốc dân”27. Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, để “quốc dân” hạnh phúc thì không chỉ chăm lo vật chất mà còn là sự phát triển về tinh thần, văn hóa, trí tuệ và đạo đức. Người tuyên bố “dân sinh hạnh phúc” là một trong ba chính sách đối nội cơ bản của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngay sau thắng lợi Cách mạng tháng Tám (1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định diệt “giặc dốt”, “giặc đói” là nhiệm vụ cấp bách, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân.
Về chăm lo đời sống vật chất, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói rõ: “Dân sinh là cái gì? Là cái ăn, cái mặc, cái ở”28. Từ lời dạy của người xưa “dân dĩ thực vi tiên” (dân lấy ăn làm đầu), Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi “tuần lễ vàng”, “hũ gạo tình thương”, “hũ gạo kháng chiến”… Như vậy, thì những người nghèo sẽ có bữa rau, bữa cháo để chờ mùa lúa năm sau, khỏi đến nỗi chết đói”29.
Kế thừa quan điểm lao động là nguồn gốc của hạnh phúc từ triết học C. Mác30, Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm thúc đẩy tăng gia sản xuất, cổ vũ người dân hăng say lao động, thừa hưởng hạnh phúc bền chặt từ thành quả lao động do chính bản thân mình tự tạo ra. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Lực lượng của dân, tinh thần của dân, để gây: Hạnh phúc cho dân. Vì vậy, bổn phận của người dân Việt Nam, bất kỳ sĩ, nông, công, thương, binh; bất kỳ làm việc gì, đều cần phải thi đua nhau”31. Nhằm củng cố vững chắc hạnh phúc cho tất cả mọi người dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắn nhủ: “Tăng gia và thực hành tiết kiệm là con đường đi đến xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội, xây dựng hạnh phúc cho Nhân dân. Tăng gia là tay phải của hạnh phúc, tiết kiệm là tay trái của hạnh phúc”32.
Chính sách diệt “giặc đói” của Chủ tịch Hồ Chí Minh có trọng tâm trọng điểm, có kết hợp đồng thời nhiều nhiệm vụ nhằm củng cố tiền đề cho kết quả cao hơn, bảo đảm các tầng lớp nhân dân không chỉ có “cái ăn” mà tiến tới sự gia tăng của cải theo phương châm mà Người định hướng “Làm cho người nghèo thì đủ ăn. Người đủ ăn thì khá giàu. Người khá giàu thì giàu thêm”33.
Với tư duy biện chứng, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “vật chất cố nhiên là quan trọng, tinh thần cũng là quan trọng”34. Xuất phát từ khát vọng hạnh phúc trong sự phát triển toàn diện, hài hòa giữa thể lực và trí lực của con người, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ chú ý vấn đề ăn, mặc, ở mà còn chăm lo đời sống tinh thần, nâng cao trình độ dân trí, bảo đảm cơ hội tiếp cận giáo dục cho tất cả mọi giai tầng xã hội. Vì vậy, giữa bộn bề công việc sau khi tuyên bố nền độc lập nước nhà (năm 1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập tôn trọng và bảo vệ tự do tôn giáo, tín ngưỡng của tất cả mọi người dân thông qua những quy định “thượng tôn” trong Hiến pháp đầu tiên của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (năm 1946).
Chính sách bình đẳng, hòa hợp tôn giáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh phù hợp và bảo đảm “có phần” hạnh phúc cho tất cả mọi đối tượng xã hội như Người từng giải thích “Đức chúa Giêsu hy sinh vì muốn loài người được tự do hạnh phúc, đồng bào cả lương, cả giáo cũng vì tự do hạnh phúc cho toàn dân mà hy sinh phấn đấu”35.
Ở vị trí Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh yêu cầu các địa phương thường xuyên, liên tục phủ xanh đồi trọc; Người cho rằng, việc này vừa ích lợi cho kinh tế, quốc phòng, vừa cải tạo cảnh quan, tạo dựng môi trường sống hài hòa, tươi đẹp và bảo đảm hạnh phúc bền vững, như: Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nước ta phong cảnh sẽ ngày càng tươi đẹp hơn, khí hậu điều hòa hơn cây gỗ đầy đủ hơn. Điều đó sẽ góp phần quan trọng vào việc cải thiện đời sống của Nhân dân”36. Thậm chí trước lúc đi xa, Người không quên nhắn gửi các thế hệ Việt Nam rằng “Nên có kế hoạch trồng cây trên đồi. Ai đến thăm thì trồng một cây làm kỷ niệm. Trồng cây nào phải tốt cây ấy. Lâu ngày, cây nhiều thành rừng sẽ tốt cho phong cảnh và lợi cho nông nghiệp”37.
Chủ tịch Hồ Chí Minh xem hạnh phúc của tất cả mọi người dân là chuẩn mực, thước đo và mục tiêu phấn đấu xuyên suốt sự nghiệp đấu tranh cách mạng của bản thân mình. Do vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh chăm lo phát triển toàn diện cho hạnh phúc con người không dừng ở nội dung mà bao quát, mở rộng cho mọi đối tượng, đặc biệt là người yếu thế. Người căn dặn: “Chúng ta phải hết sức chăm lo đến đời sống của nhân dân, nhất là đời sống của các cháu, của các gia đình thương binh, liệt sĩ, đời sống của Nhân dân ở những vùng vị địch bắn phá nhiều… những gia đình thu nhập thấp và đông con”38. Là tổ chức lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt ra yêu cầu với Đảng Cộng sản Việt Nam trọng trách chăm lo hạnh phúc toàn diện cho con người Việt Nam “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa nhằm không ngừng nâng cao đời sống của Nhân dân”39.
Đặc biệt, hạnh phúc của dân tộc Việt Nam là toàn bộ di sản tư tưởng hạnh phúc Chủ tịch Hồ Chí Minh được bảo chứng bằng chính cuộc đời hạnh phúc và cao đẹp của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Vì yêu mến và tin cậy tôi mà đồng bào giao vận mệnh nước nhà, dân tộc cho tôi gánh vác. Phận sự tôi là một người cầm lái, phải chèo chống thế nào để đưa chiếc thuyền Tổ quốc vượt khỏi những cơn sóng gió mà an toàn đi đến bờ bến hạnh phúc của Nhân dân”40. Đó là nguồn cảm hứng vô tận góp phần quy tụ, tập hợp sức mạnh người dân cùng xây dựng một Việt Nam hạnh phúc; đồng thời, thúc giục nhân dân các nước thuộc địa, phụ thuộc đứng lên tự vun đắp hạnh phúc cho chính mình. Tư tưởng Hồ Chí Minh về hạnh phúc tiếp tục gợi mở xây dựng thế giới hạnh phúc trong bối cảnh thế giới hiện nay.
3. Những gợi mở xây dựng thế giới hạnh phúc trong bối cảnh hiện nay
Tư tưởng Hồ Chí Minh về hạnh phúc mang giá trị lớn lao, vừa có tính nhân văn sâu sắc, vừa có ý nghĩa thực tiễn và thời đại. Tư tưởng Hồ Chí Minh về hạnh phúc cho thấy, bản chất của một thế giới hạnh phúc là thế giới công bằng, nhân văn, phát triển cân bằng và bền vững. Ở đó, tất cả “ai nấy đều có phần hạnh phúc”, không có sự phân biệt chủng tộc, dân tộc, tôn giáo, đảng phái chính trị, lập trường tư tưởng, trình độ học vấn, nghề nghiệp,… Tư tưởng Hồ Chí Minh về hạnh phúc đặt ra yêu cầu nhân loại “chung lưng, đấu cật” giải quyết các vấn đề bức thiết mang tính chất toàn cầu. Vì vậy, trong thực tiễn xây dựng một thế giới hạnh phúc, các quốc gia, dân tộc cần tập trung hướng đến thực hiện ba nhiệm vụ cơ bản sau:
Thứ nhất, xây dựng thế giới công bằng, bình đẳng và hòa bình.
Xây dựng thế giới công bằng, bình đẳng và hòa bình có mối quan hệ chặt chẽ với hạnh phúc nhân loại. Hòa bình là điều kiện tất yếu cho hạnh phúc; hòa bình chỉ thực sự được bảo đảm khi thế giới duy trì trạng thái công bằng, bình đẳng giữa các quốc gia, dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Chẳng những Việt Nam phải đấu tranh giành lấy độc lập dân tộc cho chính mình mà còn phải gánh vác trách nhiệm một phần trong sự nghiệp mưu cầu hòa bình cho toàn thế giới”41.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khích lệ nhân dân Việt Nam, cổ vũ nhân dân yêu chuộng hòa bình trên toàn cầu đấu tranh cho công bằng, bình đẳng cùng hướng đến mục tiêu xây dựng thế giới hạnh phúc cho toàn nhân loại. Bởi vậy, tư tưởng hạnh phúc Hồ Chí Minh mà cốt lõi là hạnh phúc gắn với công bằng, bình đẳng và hòa bình là động lực phát triển mỗi con người Việt Nam nói riêng, giải phóng các dân tộc trên thế giới nói chung khỏi ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, đế quốc. Tư tưởng Hồ Chí Minh về hạnh phúc vẫn còn nguyên giá trị thời đại trong bối cảnh thế giới hiện nay, mỗi quốc gia, dân tộc tôn trọng quyền công bằng, bình đẳng về chủ quyền lãnh thổ, tôn giáo, dân chủ, văn hóa… của nhau là những gợi mở lời giải hiệu quả, triệt để cho mục tiêu hòa bình tại các “điểm nóng”, vùng xung đột vũ trang.
Đặt con người ở vị trí trung tâm, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn xem hạnh phúc của con người là mục tiêu cao nhất; Người quan tâm đến quyền lợi và cuộc sống của tất cả mọi người. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, hạnh phúc không chỉ thuộc về một nhóm người mà phải được chia sẻ công bằng, bình đẳng giữa tất cả các quốc gia, dân tộc, giai tầng trong xã hội.
Thứ hai, xây dựng thế giới phát triển toàn diện và bền vững.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xem xét toàn bộ những giá trị tinh thần loài người sáng tạo ra (trong đó có tôn giáo) nhằm đáp ứng sự sinh tồn và cũng là mục đích của cuộc sống loài người. Việc chăm lo đời sống tinh thần là công việc tất yếu nhằm củng cố hạnh phúc thực sự, bền chặt trong tiến trình phát triển nhân loại. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng… nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”42.
Hạnh phúc con người theo Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ được đủ đầy về vật chất, độc lập, tự do, tiếp cận giáo dục, chăm sóc y tế, xóa bỏ bất công mà còn là sự an yên trong đức tin, đời sống tinh thần. Bảo đảm quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng của mỗi một người dân đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh hiện thực hóa trong hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1946). Tư tưởng Hồ Chí Minh về hạnh phúc hình thành và phát triển trong thế kỷ XX, quan điểm của Người có giá trị thực tiễn to lớn định hướng phát triển hạnh phúc nhân loại toàn diện, bền vững. Tư tưởng Hồ Chí Minh về hạnh phúc cung cấp nhiều gợi mở sâu sắc, ý nghĩa thời đại trong chăm lo vấn đề sắc tộc, tôn giáo; đồng thời, là động lực thúc đẩy việc nghiên cứu, bổ sung và phát triển hệ mục tiêu Thiên niên kỷ của Liên Hiệp quốc nhằm đáp ứng yêu cầu bức thiết từ thực tiễn hiện nay.
Thứ ba, xây dựng thế giới đoàn kết, yêu thương và nhân bản.
Toàn cầu hóa các quan hệ kinh tế sẽ đưa lại sự hưởng thụ các sản phẩm vật chất và tinh thần của nhân loại với một giá rẻ hơn, tiện nghi phong phú hơn. Song mặt khác, chính sự giao thoa về văn hóa, sự tràn ngập của hàng hóa đó đã tạo ra khả năng sự tha hóa nhân cách, đạo đức43. Toàn cầu hóa đã thúc đẩy sự gia tăng và chấp nhận lối sống thực dụng, thờ ơ của cá nhân trong kết nối với cộng đồng, xã hội. Như vậy, giá trị của hạnh phúc với những ý nghĩa cao đẹp như sẻ chia, yêu thương, gắn kết đang biến đổi mạnh mẽ dưới tác động của toàn cầu hóa.
Xây dựng thế giới đoàn kết, sẻ chia và nhân bản là yêu cầu bức thiết trước những biến đổi mạnh mẽ của xã hội. Những khuyến khích của Chủ tịch Hồ Chí Minh về lòng khoan dung, mở rộng trái tim nhân ái và cống hiến vì lợi ích chung là bài học quý giá cho việc xây dựng một xã hội hạnh phúc, tốt đẹp hơn. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở: “Sông to, biển rộng thì bao nhiêu nước cũng chứa được vì độ lượng nó rộng và sâu. Cái chén nhỏ, cái đĩa cạn thì một chút nước cũng đầy tràn, vì độ lượng nó hẹp nhỏ”44. Người luôn nhấn mạnh, hạnh phúc cá nhân phải gắn liền với trách nhiệm xây dựng, mang lợi ích cho cộng đồng, xã hội. Gắn kết chặt chẽ giữa cá nhân và cộng đồng trong xây dựng xã hội là những gợi mở mang đậm giá trị nhân bản từ tư tưởng hạnh phúc Hồ Chí Minh.
4. Kết luận
Hạnh phúc Hồ Chí Minh đã buộc J. Xanhtơny – một người từng “đối diện với Chủ tịch Hồ Chí Minh” phải thừa nhận rằng “Nếu ông Hồ đạt được mục đích của mình mà không nổ một phát súng nào, không đổ một giọt máu nào, thì chắc chắn ông ta đã là một người hạnh phúc nhất đời rồi”45. Hạnh phúc Hồ Chí Minh là mang lại hạnh phúc cho toàn thể dân tộc Việt Nam với biết bao giá trị tốt đẹp, như: độc lập, tự do; công bằng, bình đẳng; sẻ chia, đoàn kết; được chăm lo phát triển toàn diện… đồng thời, hạnh phúc Hồ Chí Minh cũng là góp phần vào xây dựng một thế giới hạnh phúc.
Tổng thống Nga V.I Putin đã nhiều lần ngợi ca Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Giá trị tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh vẫn là ngọn đuốc, biểu tượng cho một nền văn hóa tương lai… Và vì thế, lịch sử mãi mãi nhắc tới Người như một bậc thánh nhân”46. Tổng thống V.I Putin cũng khẳng định, trái tim Nhân dân Nga “luôn ghi nhớ Hồ Chí Minh – nhà yêu nước, nhà chính trị và chính khách kiệt xuất, người luôn kiên định bảo vệ chủ quyền và tự do của Tổ quốc. Tôi muốn nhấn mạnh rằng, năm ngoái, tượng đài tưởng niệm Người – Chủ tịch nước đầu tiên của Việt Nam đã được khánh thành ở St. Petersburg nhân dịp kỷ niệm 100 năm Hồ Chí Minh đến thăm “thủ đô phương Bắc” của nước Nga”47.
Chú thích:
1. Nguyễn Văn Nguyên (2018). Mối quan hệ giữa độc lập dân tộc với dân chủ và hạnh phúc của nhân dân trong tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 92.
2, 4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về hạnh phúc con người – Vận dụng vào chăm lo hạnh phúc con người Việt Nam hiện nay https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/nghien-cu/-/2018/921902/tu-tuong-ho-chi-minh-ve-hanh-phuc-con-nguoi-van-dung-vao-cham-lo-hanh-phuc-con-nguoi-viet-nam-hien-nay.aspx.
3. Nguyễn Cao Siêng (2023). Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về hạnh phúc của Nhân dân trong giai đoạn hiện nay. Tạp chí Cộng sản, tháng 5/2023.
5. Song Thành (2010). Hồ Chí Minh – Nhà văn hóa kiệt xuất. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 10.
6, 13, 15, 19. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 1. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 109, 47, 287, 496.
7. Võ Nguyên Giáp (2011). Tổng tập hồi ký. H. NXB Quân đội Nhân dân, tr. 129 – 130.
8, 31, 33, 44. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 5. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 602, 556, 81, 644.
10, 11, 17, 20, 24, 27, 29, 35, 38, 40. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 4. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 64, 187, 1, 66, 54, 272, VIII, 56, 694, 191.
12. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 7. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 39
14, 18. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 2. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 296, 287.
16. Quốc hội Hoa Kỳ (1776). Tuyên bố nhất trí của các tiểu bang Hoa Kỳ. Pennsylvania, ngày 04/7/1776 (tiếng Anh).
21. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 11. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 600.
22, 23, 34. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 10. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 593, 589, 580.
25, 26, 41, 42. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 3. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 273, 543, 643, 458.
28. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 13. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 255.
30. Yíng lěi (2013). Quan điểm của Chủ nghĩa Mác về hạnh phúc và việc xây dựng một Trung Quốc hạnh phúc. Tạp chí Đại học Thành Đô, số 2005-5642, 08-0006-03 (tiếng Trung).
32. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 14. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 311.
36. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 12. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 337 – 338.
37. Hồ Chí Minh (1989). Di chúc. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, tr. 37.
9, 39. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 15. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 131, 612.
43. Đặng Thị Lan (2006). Đạo đức Phật giáo với đạo đức con người Việt Nam. H. NXB Đại học quốc gia, tr. 182.
45. J. Xanhtơny (1970). Một hiệp định không có ngày mai. Tạp chí Planète Action, Pari, tháng 3/1970 (tiếng Pháp).
46. V.I Putin (2013). Cảm tưởng của Tổng thống Cộng hòa Liên bang Nga V.I Putin. Sổ ghi cảm tưởng của Khu di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch, Hà Nội, ngày 12/11/2013 (tiếng Nga).
47. V.I Putin (2024). Nga và Việt Nam – Tình hữu nghị được thử thách qua thời gian. https://nhandan.vn/nga-va-viet-nam-tinh-huu-nghi-duoc-thu-thach-qua-thoi-gian-post814950.html.



