Nguyễn Xuân Thống
Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Thành phố Hà Nội
(Quanlynhanuoc.vn) – Bài viết làm rõ các nhóm yếu tố khách quan và chủ quan đang chi phối công tác giáo dục chính trị, tư tưởng trong doanh nghiệp ngoài nhà nước tại Hà Nội; phân tích cơ chế, mức độ ảnh hưởng của từng yếu tố trong mối tương tác đa chiều; từ đó đề xuất định hướng và giải pháp có tính khả thi, bám sát định hướng của Trung ương và Thành ủy. Phương pháp tiếp cận kết hợp phân tích – tổng hợp chính sách, đối chiếu với thực tiễn triển khai ở các cấp ủy; tiếp cận hệ thống để thấy rõ sự tương tác giữa chính trị, thể chế, kinh tế, doanh nghiệp, tổ chức đảng, văn hóa, xã hội và công nghệ truyền thông số.
Từ khóa: Yếu tố ảnh hưởng, giáo dục chính trị, tư tưởng, doanh nghiệp ngoài nhà nước, thành phố Hà Nội.
1. Cơ sở lý luận và thực tiễn
Giáo dục chính trị, tư tưởng trong doanh nghiệp là quá trình tác động có mục đích nhằm hình thành và củng cố thế giới quan, nhân sinh quan cách mạng, bồi dưỡng phẩm chất đạo đức, kỷ luật, ý thức công dân và trách nhiệm xã hội cho cán bộ, đảng viên; qua đó tạo sự đồng thuận chính trị, thống nhất ý chí và hành động trong doanh nghiệp. Ở khu vực ngoài nhà nước, hoạt động này vừa hướng đến việc quán triệt chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng, vừa gắn với điều kiện sản xuất – kinh doanh cụ thể, cơ chế thị trường và yêu cầu cạnh tranh, nên đòi hỏi phương pháp linh hoạt, ngôn ngữ gần gũi, cách tiếp cận dựa trên giá trị và hành vi.
Khung chính sách cho công tác này được xác lập vững chắc qua các văn kiện quan trọng. Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 16/6/2022 của Bộ Chính trị khẳng định phải phát huy vai trò hạt nhân chính trị của tổ chức cơ sở đảng trong doanh nghiệp ngoài nhà nước, nâng cao chất lượng đảng viên và hiệu quả sinh hoạt chi bộ. Kết luận số 48-KL/TW ngày 30/01/2023 của Bộ Chính trị cũng đặt yêu cầu tăng cường công tác tư tưởng trong sắp xếp đơn vị hành chính, bảo đảm ổn định tổ chức và đồng thuận xã hội. Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 23/02/2023 xác định kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời nhấn mạnh nhiệm vụ xây dựng tổ chức đảng vững mạnh trong khu vực này như một điều kiện bảo đảm phát triển đúng hướng, bền vững và có trách nhiệm xã hội. Nghị quyết số 60-NQ/TW ngày 12/4/2025 yêu cầu tinh gọn bộ máy gắn với nâng cao chất lượng tổ chức đảng cơ sở, còn Kết luận số 167-KL/TW ngày 13/6/2025 nhấn mạnh ổn định tư tưởng, củng cố niềm tin trong bối cảnh sắp xếp lại hệ thống chính trị – hành chính. Trên địa bàn Hà Nội, các chủ trương này đã được Thành ủy và Đảng ủy Khối Doanh nghiệp cụ thể hóa thành kế hoạch tuyên giáo, chuyên đề học tập, cơ chế phối hợp mới với cấp ủy địa phương sau sáp nhập, tạo nền tảng thực tiễn để các chi bộ doanh nghiệp triển khai.
2. Các yếu tố ảnh hưởng tới giáo dục chính trị, tư tưởng
Thứ nhất, chính trị – thể chế với vai trò định hướng nền tảng. Hệ thống văn bản chỉ đạo của Trung ương và Thành ủy có tác dụng xác lập mục tiêu, nguyên tắc, nội dung trọng tâm, đồng thời tạo hành lang pháp lý cho tổ chức đảng trong doanh nghiệp. Khi Nghị quyết số 21-NQ/TW, Nghị quyết số 68-NQ/TW, Nghị quyết số 60-NQ/TW và Kết luận số 167-KL/TW được quán triệt nghiêm túc, các chi bộ có căn cứ để chuyển hóa thành kế hoạch hành động, chuyên đề sinh hoạt và tiêu chí đánh giá đảng viên. Tuy nhiên, mức độ thẩm thấu phụ thuộc mạnh vào tính thông suốt của kênh chỉ đạo, hướng dẫn sau sáp nhập; sự thay đổi mô hình chính quyền hai cấp với việc bỏ cấp huyện làm biến đổi trục phối hợp, đòi hỏi cơ chế kết nối trực tiếp hơn giữa chi bộ doanh nghiệp và cấp ủy cấp xã, cấp tỉnh. Khi cơ chế này chưa thật ổn định, công tác tư tưởng có nguy cơ bị “đứt đoạn mềm” ở khâu hướng dẫn nghiệp vụ, kiểm tra và hỗ trợ, nhất là với doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp FDI phân tán trên địa bàn rộng.
Thứ hai, kinh tế doanh nghiệp, nơi mục tiêu lợi nhuận, áp lực thị trường, nhịp sản xuất và cấu trúc sở hữu tác động trực tiếp đến thời gian, nguồn lực và thái độ tiếp nhận giáo dục chính trị. Ở doanh nghiệp tư nhân, quyết định của chủ doanh nghiệp về ưu tiên nguồn lực cho hoạt động đảng có ảnh hưởng lớn đến chất lượng triển khai. Doanh nghiệp FDI đa văn hóa đặt ra yêu cầu cao về cách diễn đạt, phương thức tổ chức để bảo đảm phù hợp luật pháp, tôn trọng khác biệt, đồng thời không làm loãng giá trị cốt lõi của công tác tư tưởng. Biến động kinh tế, đơn hàng, dòng vốn hay thay đổi công nghệ cũng ảnh hưởng đến tần suất sinh hoạt, mức độ tham gia của đảng viên theo ca kíp, khiến hình thức trực tuyến kết hợp trở nên cần thiết. Ở chiều tích cực, các mục tiêu về chuẩn mực đạo đức, trách nhiệm xã hội doanh nghiệp (CSR) và phát triển bền vững (ESG) lại mở ra “cửa sổ cơ hội” để lồng ghép nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước, cần – kiệm – liêm – chính, tinh thần vì cộng đồng vào chính sách nhân sự và văn hóa doanh nghiệp.
Thứ ba, tổ chức và nhân sự đảng, trong đó năng lực của bí thư chi bộ và cấp ủy viên là biến số quyết định. Khi bí thư có trình độ lý luận, kỹ năng lãnh đạo tư tưởng, biết thiết kế sinh hoạt theo vấn đề, biết kiến tạo đối thoại và chuyển hóa nghị quyết thành mục tiêu công việc, hiệu quả giáo dục chính trị tăng lên rõ rệt. Ngược lại, chi bộ mỏng, đảng viên phân tán, nhiều người kiêm nhiệm làm giảm “độ bền” sinh hoạt, nhất là khi thiếu tiêu chuẩn hóa kỹ năng tư tưởng và truyền thông chính trị. Một thực tế khác là sự luân chuyển nhân sự trong doanh nghiệp tư nhân nhanh hơn khu vực công, vì vậy công tác phát triển đảng, tạo nguồn kế cận và duy trì đội ngũ báo cáo viên kiêm nhiệm có xu hướng biến động, đòi hỏi cơ chế bồi dưỡng liên tục và “kho tri thức số” dùng chung để không bị gián đoạn.
Thứ tư, văn hóa, xã hội và môi trường doanh nghiệp. Văn hóa doanh nghiệp mạnh tạo “đất” cho nội dung chính trị bén rễ, giúp các giá trị như kỷ luật, tận tâm, minh bạch, tôn trọng, hợp tác trở thành thói quen hành vi. Nhưng ở nhiều nơi, văn hóa vẫn đang hình thành, lực lượng lao động trẻ có thói quen tiếp nhận nhanh, thực dụng, coi trọng trải nghiệm cá nhân; giữa các nhóm lao động có sự khác biệt về học vấn, nghề nghiệp, địa vị và thậm chí quốc tịch. Điều này buộc công tác tư tưởng phải phân nhóm đối tượng, thay đổi cách diễn giải, sử dụng ngôn ngữ giản dị, đưa ra tình huống thực tế để thuyết phục bằng lợi ích và giá trị thiết thân thay vì diễn đạt trừu tượng.
Thứ năm, công nghệ và truyền thông số, “lực đẩy” vừa mở rộng không gian giáo dục, vừa gia tăng thách thức kiểm chứng thông tin. Khi doanh nghiệp có mạng nội bộ, ứng dụng di động, kênh video – podcast, việc học nghị quyết có thể diễn ra theo mô-đun, theo ca, theo vị trí công việc, với dữ liệu theo dõi tiến độ. Tuy nhiên, môi trường số cũng kéo theo nguy cơ tin giả, thông tin thiên lệch, hiệu ứng buồng vọng; nếu thiếu năng lực “định hướng số”, thiếu quy trình phản hồi nhanh, nội dung chính trị dễ bị lép vế trước dòng chảy giải trí. Vai trò của bí thư chi bộ ở đây không chỉ là người truyền đạt mà còn là “biên tập viên tư tưởng”, kiến trúc sư nội dung, người quản trị cộng đồng số, biết khuyến khích phản biện xây dựng và chuyển hóa thảo luận thành chuẩn mực.
3. Tác động tổng hợp của các yếu tố
Trong thực tế tại Hà Nội, công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên trong doanh nghiệp ngoài nhà nước đang chịu tác động tổng hợp của nhiều yếu tố có mối liên hệ chặt chẽ. Năm nhóm yếu tố cơ bản là chính trị và thể chế, kinh tế và doanh nghiệp, tổ chức và nhân sự đảng, văn hóa xã hội và công nghệ truyền thông số. Tất cả đan xen, bổ trợ cho nhau, tạo nên một hệ thống tác động toàn diện đến chất lượng giáo dục chính trị, tư tưởng ở cơ sở. Từ sau khi Trung ương ban hành Nghị quyết số 21-NQ/TW về tăng cường xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên, Thành ủy Hà Nội đã cụ thể hóa bằng 12 chương trình công tác, trong đó có nội dung trọng tâm là phát huy vai trò chi bộ trong doanh nghiệp ngoài nhà nước. Tính tới hết năm 2024, toàn thành phố có 1.931 tổ chức đảng trong các doanh nghiệp tư nhân, kết nạp mới 12.717 đảng viên, trong đó có 67 chủ doanh nghiệp tư nhân được kết nạp Đảng. Đây là nền tảng quan trọng để triển khai các hoạt động giáo dục chính trị, tư tưởng một cách hiệu quả và bền vững.
Yếu tố chính trị và thể chế đóng vai trò định hướng căn bản. Các văn kiện của Đảng như Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hay Nghị quyết số 60-NQ/TW về sắp xếp đơn vị hành chính đã tạo ra môi trường chính trị và pháp lý rõ ràng giúp tổ chức đảng trong doanh nghiệp phát huy vai trò hạt nhân. Bên cạnh đó, Kết luận số 48-KL/TW và Kết luận số 167-KL/TW đều nhấn mạnh việc tăng cường công tác tư tưởng, ổn định tổ chức và củng cố niềm tin chính trị trong bối cảnh tinh gọn bộ máy hành chính. Nhờ sự chỉ đạo thống nhất, các cấp ủy ở Hà Nội đã tổ chức hơn 300 lớp học nghị quyết, bồi dưỡng lý luận chính trị cho bí thư chi bộ doanh nghiệp trong hai năm 2023 – 2024, với tỷ lệ hoàn thành đạt trên 95%. Điều này cho thấy, tác động tích cực của yếu tố thể chế khi được vận dụng đúng hướng.
Yếu tố kinh tế và doanh nghiệp là môi trường thực hành, nơi công tác tư tưởng được kiểm chứng qua thực tiễn sản xuất và quan hệ lao động. Sự tăng trưởng mạnh mẽ của khu vực tư nhân, với gần 350.000 doanh nghiệp đang hoạt động tại Hà Nội, trong đó có hơn 3.500 doanh nghiệp vừa và lớn, đã tạo ra yêu cầu mới về cách thức tổ chức, nội dung và thời gian giáo dục chính trị, tư tưởng. Trong điều kiện áp lực cạnh tranh gay gắt, việc tổ chức các buổi sinh hoạt nghị quyết phải được thiết kế ngắn gọn, phù hợp với lịch sản xuất và ca kíp của người lao động. Một số doanh nghiệp, như: Công ty May 10, Công ty Cổ phần Điện lực Hoàn Kiếm, Công ty TNHH Vàng bạc Đá quý Bảo Tín Minh Châu đã thực hiện mô hình “Sinh hoạt chính trị gắn với thi đua sản xuất”, thu hút 90% đảng viên và 60% người lao động tham gia. Các mô hình này minh chứng rằng, khi yếu tố kinh tế được gắn với yếu tố tư tưởng, hiệu quả sẽ lan tỏa mạnh mẽ và bền vững hơn.
Yếu tố tổ chức và nhân sự đảng giữ vai trò then chốt trong việc chuyển hóa chủ trương thành hành động cụ thể. Hà Nội hiện có khoảng 2.000 bí thư chi bộ trong doanh nghiệp tư nhân, trong đó gần 40% kiêm nhiệm chức vụ quản lý hoặc chuyên môn khác, nên quỹ thời gian dành cho công tác tư tưởng còn hạn chế. Tuy nhiên, sau các lớp bồi dưỡng của Đảng ủy Khối Doanh nghiệp, năng lực tổ chức sinh hoạt, kỹ năng nắm bắt dư luận và sử dụng công nghệ của đội ngũ này đã được nâng lên rõ rệt. Theo số liệu báo cáo năm 2024, tỷ lệ chi bộ tổ chức sinh hoạt chuyên đề theo quý đạt 86%, tăng 15% so với năm 2022. Đây là minh chứng cho thấy, khi yếu tố tổ chức và nhân sự được củng cố, hiệu quả giáo dục chính trị được nâng cao rõ rệt, thể hiện đúng tinh thần của Nghị quyết số 21-NQ/TW về phát huy vai trò hạt nhân chính trị của tổ chức cơ sở đảng trong doanh nghiệp.
Yếu tố văn hóa xã hội tác động sâu đến mức độ hấp thụ nội dung tư tưởng trong doanh nghiệp. Ở những nơi văn hóa doanh nghiệp được xây dựng tốt, tinh thần đoàn kết, trách nhiệm và học hỏi được đề cao, việc giáo dục chính trị, tư tưởng diễn ra tự nhiên, dễ thuyết phục và có tính lan tỏa. Ví dụ, mô hình “Doanh nghiệp học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” do Thành ủy Hà Nội phát động năm 2024 đã được 120 doanh nghiệp hưởng ứng, trong đó có 35 doanh nghiệp tư nhân. Kết quả khảo sát cho thấy, 78% đảng viên và người lao động trong các doanh nghiệp này đánh giá công tác tuyên truyền, học tập nghị quyết trở nên gần gũi, dễ hiểu và gắn với thực tế công việc hơn. Điều này chứng tỏ khi văn hóa tổ chức được nuôi dưỡng bằng tinh thần chính trị tích cực, nội dung tư tưởng không còn xa lạ mà trở thành một phần trong bản sắc doanh nghiệp.
Yếu tố công nghệ và truyền thông số mang lại bước đột phá rõ rệt trong cách thức triển khai giáo dục chính trị. Năm 2024, Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Hà Nội đã ra mắt chuyên trang điện tử “Công tác Đảng trong doanh nghiệp Thủ đô”, thu hút hơn 60.000 lượt truy cập mỗi tháng, cung cấp video bài giảng, infographic, podcast và tài liệu hỏi đáp nhanh về nghị quyết. Gần 1.200 chi bộ doanh nghiệp đã tổ chức sinh hoạt trực tuyến hoặc kết hợp trực tiếp và trực tuyến, giúp tiết kiệm thời gian và tăng khả năng tham gia của đảng viên. Việc ứng dụng công nghệ không chỉ giúp phổ biến kiến thức chính trị nhanh hơn mà còn tạo điều kiện để đo lường hiệu quả thông qua các chỉ số tương tác, mức độ hoàn thành học tập nghị quyết, hay phản hồi tự nguyện của đảng viên sau mỗi chuyên đề. Đây là minh chứng rõ ràng cho tác động tích cực của yếu tố công nghệ trong bối cảnh công nghiệp 4.0 và chuyển đổi số toàn diện.
Khi năm yếu tố này vận hành đồng bộ, hiệu quả của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng được nâng cao rõ rệt. Số liệu tổng hợp năm 2024 cho thấy, tỷ lệ đảng viên doanh nghiệp ngoài nhà nước hoàn thành học tập nghị quyết đạt 94%, tăng 8% so với giai đoạn 2020 – 2022; tỷ lệ chi bộ tổ chức sinh hoạt chuyên đề đạt trên 85%; số sáng kiến gắn với nội dung chính trị, đạo đức và văn hóa doanh nghiệp tăng hơn 30%. Những con số này cho thấy tác động tổng hợp của chính trị, kinh tế, tổ chức, văn hóa và công nghệ không chỉ giúp ổn định tư tưởng mà còn góp phần nâng cao năng suất lao động, tăng cường tinh thần đoàn kết nội bộ và củng cố vị thế của tổ chức đảng trong khu vực kinh tế tư nhân. Đây chính là minh chứng sống động cho hiệu quả lan tỏa của các nghị quyết, kết luận và chủ trương lớn của Đảng khi được cụ thể hóa đúng hướng trong thực tiễn phát triển của Thủ đô Hà Nội hôm nay.
5. Định hướng và giải pháp
Một là, cần tiếp tục khẳng định định hướng chính trị – thể chế là trục dẫn đường. Thành ủy Hà Nội và Đảng ủy Khối Doanh nghiệp nên chuẩn hóa “bộ công cụ triển khai nghị quyết” theo kiểu cẩm nang điện tử dùng chung cho doanh nghiệp ngoài nhà nước, kết nối trực tiếp với các văn kiện nhằm thống nhất, đồng tâm thực hiện các chủ trương, định hướng của Đảng. Cẩm nang này cần cung cấp mẫu kế hoạch hóa giáo dục chính trị theo quý, mô-đun bài giảng ngắn, ngân hàng tình huống gắn với đạo đức nghề nghiệp, trách nhiệm xã hội và văn hóa doanh nghiệp, cùng với checklist tự đánh giá chi bộ theo chu kỳ. Cơ chế phối hợp sau sáp nhập nên thiết kế theo mô hình “một đầu mối – nhiều kênh”, trong đó cấp ủy cấp xã là cửa ngõ hỗ trợ nghiệp vụ và thông tin cho chi bộ doanh nghiệp, cấp tỉnh đảm trách giám sát – đánh giá và kết nối nguồn lực. Với địa bàn phức tạp, có thể giao thêm trách nhiệm điều phối theo cụm công nghiệp, khu thương mại để rút ngắn khoảng cách chỉ đạo.
Tiếp theo, cần đưa kinh tế – doanh nghiệp vào chính nội dung của công tác tư tưởng. Nội dung giáo dục nên gắn với các mục tiêu quản trị hiện đại mà doanh nghiệp quan tâm: tuân thủ pháp luật và chuẩn mực, an toàn – kỷ luật – năng suất, văn hóa chất lượng, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, ESG/CSR. Khi đảng viên nhìn thấy “điểm chạm” giữa tư tưởng Hồ Chí Minh, truyền thống thi đua yêu nước và KPI cụ thể của doanh nghiệp, nội dung chính trị sẽ bớt trừu tượng, tăng giá trị công cụ và sức thuyết phục. Với doanh nghiệp FDI, nên chuẩn hóa bộ tài liệu song ngữ, bổ sung phần giới thiệu ngắn gọn về lịch sử Đảng và văn hóa chính trị Việt Nam, đồng thời nhấn mạnh các giá trị phổ quát như liêm chính, tôn trọng, trách nhiệm xã hội, để bảo đảm hòa nhập mà không hòa tan.
Về tổ chức và nhân sự đảng, mấu chốt là năng lực của bí thư chi bộ. Cần xây dựng “khung năng lực bí thư chi bộ doanh nghiệp” gồm bốn nhóm: lý luận – đường lối; tổ chức – điều hành sinh hoạt; truyền thông – sư phạm chính trị; năng lực số và quản trị thông tin. Trên cơ sở đó tổ chức các chương trình bồi dưỡng dạng microlearning kết hợp hội thảo tình huống, huấn luyện theo vai và cố vấn “kèm cặp” giữa các bí thư giàu kinh nghiệm với bí thư mới. Nên hình thành “Câu lạc bộ Bí thư chi bộ doanh nghiệp tư nhân Hà Nội” như một cộng đồng học tập nghề nghiệp, có diễn đàn số, thư viện bài giảng, ngân hàng tình huống, lịch sinh hoạt chuyên đề liên chi bộ, tạo mạng lưới tương trợ về chuyên môn tư tưởng.
Ở bình diện văn hóa – xã hội, cần kiến tạo môi trường tiếp nhận tích cực bằng cách đưa nội dung chính trị vào các nghi thức, hoạt động có tính biểu tượng và gắn với đời sống tinh thần của người lao động. Những hoạt động như ngày hội văn hóa doanh nghiệp, hành trình về nguồn, tọa đàm nêu gương, kể chuyện “người thật, việc thật” về liêm chính, phụng sự, sáng kiến cải tiến nên được thiết kế ngắn gọn, giàu trải nghiệm, có yếu tố thi đua và công nhận. Với lực lượng lao động trẻ, nội dung nên khai thác các chủ đề gần gũi như đạo đức số, ứng xử văn minh trên mạng, tinh thần khởi nghiệp, tinh thần trách nhiệm cộng đồng, qua đó tạo cầu nối giữa giá trị cách mạng và hoài bão cá nhân.
Về công nghệ và truyền thông số, cần coi đây là hạ tầng thiết yếu của công tác tư tưởng. Đảng ủy Khối Doanh nghiệp nên xây dựng chuyên trang số “Công tác Đảng trong doanh nghiệp Hà Nội”, tích hợp kho học liệu số, lớp học trực tuyến theo yêu cầu, podcast nghị quyết, video ngắn minh họa tình huống, bản tin “điểm chạm tư tưởng” theo tuần. Mỗi chi bộ tổ chức nhóm cộng đồng nội bộ để thông tin nhanh, phản hồi kịp thời và khuyến khích thảo luận có định hướng. Đồng thời, thiết lập quy trình “phản ứng nhanh” với thông tin xấu độc: cơ chế xác minh, hướng dẫn lập luận, tài liệu hỏi, đáp ngắn gọn, mẫu thông điệp thống nhất để bí thư chủ động xử lý trên các kênh số. Cùng với đó, triển khai bộ chỉ số đánh giá định lượng theo hướng đơn giản mà thực chất: tỷ lệ hoàn thành học tập nghị quyết theo mô-đun; tần suất sinh hoạt chuyên đề gắn với công việc; chỉ số chuyển biến nhận thức qua khảo sát ngắn; số sáng kiến cải tiến liên hệ giá trị chính trị, đạo đức; mức độ lan tỏa nội dung số (lượt xem, tương tác, chất lượng bình luận).
Một trụ cột không thể thiếu là cơ chế động viên, khen thưởng dựa trên kết quả và tác động. Nên duy trì giải thưởng thường niên “Bí thư chi bộ tiên phong chuyển đổi số”, “Chi bộ gắn kết sản xuất – tư tưởng”, “Chi bộ ESG – trách nhiệm xã hội tiêu biểu”, gắn với đánh giá độc lập theo bộ chỉ số đã nêu và hồ sơ minh chứng số. Việc công bố rộng rãi câu chuyện điển hình, bộ công cụ, bài học rút ra sẽ tạo hiệu ứng lan tỏa theo mạng lưới, biến đổi mới của một vài đơn vị thành chuẩn mực chung của toàn Khối.
6. Kết luận
Giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên trong doanh nghiệp ngoài nhà nước tại Hà Nội đang chịu tác động đan xen của năm nhóm yếu tố: chính trị – thể chế, kinh tế – doanh nghiệp, tổ chức – nhân sự đảng, văn hóa – xã hội và công nghệ – truyền thông số. Trong đó, chính trị – thể chế giữ vai trò định hướng và chính danh; kinh tế – doanh nghiệp tạo bối cảnh và động lực; tổ chức đảng và đội ngũ bí thư quyết định năng lực kiến tạo – thực thi; văn hóa – xã hội quy định sức hấp thụ giá trị; công nghệ – truyền thông số là kênh mở rộng không gian, gia tăng tốc độ và chiều sâu lan tỏa. Nhận diện đúng và quản trị được sự tương tác của các yếu tố này sẽ giúp công tác tư tưởng thoát khỏi lối mòn hình thức, chuyển sang mô thức hiện đại: dữ liệu hóa – phân nhóm đối tượng – tương tác hai chiều – gắn với kết quả sản xuất – kinh doanh – đo lường được chuyển biến tư tưởng. Bám sát các văn kiện 21-NQ/TW, 68-NQ/TW, 60-NQ/TW và 167-KL/TW, cùng với sự chỉ đạo quyết liệt của Thành ủy Hà Nội và Đảng ủy Khối Doanh nghiệp, đội ngũ bí thư chi bộ hoàn toàn có thể trở thành “kiến trúc sư tư tưởng” trong doanh nghiệp, đóng vai trò trung tâm đoàn kết, hạt nhân chính trị, đưa nghị quyết vào cuộc sống bằng những công cụ, phương pháp và ngôn ngữ của thời đại số. Khi điều đó trở thành hiện thực, công tác giáo dục chính trị, tư tưởng sẽ không chỉ củng cố niềm tin và bản lĩnh của đảng viên, mà còn trực tiếp nâng cao chất lượng văn hóa doanh nghiệp, năng suất lao động và sức cạnh tranh của khu vực kinh tế tư nhân Thủ đô trong kỷ nguyên hội nhập sâu rộng.
Tài liệu tham khảo:
1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2022), Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 16/6/2022 về tăng cường củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong giai đoạn mới.
2. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2023). Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 23/02/2023 về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
3. Bộ Chính trị (2023). Kết luận số 48-KL/TW ngày 30/01/2023 về tiếp tục thực hiện sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã giai đoạn 2023 – 2030.
4. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2025). Nghị quyết số 60-NQ/TW ngày 12/4/2025 Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) về việc sáp nhập đơn vị hành chính và tinh gọn bộ máy nhà nước.
5. Bộ Chính trị (2025). Kết luận số 167-KL/TW ngày 13/6/2025 về chủ trương sắp xếp tổ chức bộ máy và đơn vị hành chính, đưa vào hoạt động đồng thời cấp tỉnh, cấp xã từ ngày 01/7/2025.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I, II. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2025). Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 về phát triển kinh tế tư nhân.
8. Đảng ủy Khối Doanh nghiệp thành phố Hà Nội (2024). Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng trong doanh nghiệp ngoài nhà nước năm 2023 và phương hướng nhiệm vụ năm 2024.
9. Thành ủy Hà Nội (2024). Chương trình công tác năm 2024 thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW và Nghị quyết số 68-NQ/TW của Trung ương về công tác xây dựng Đảng trong khu vực doanh nghiệp tư nhân.



