NCS. Nguyễn Hoài Sơn
Học viện Hành chính và Quản trị công
(Quanlynhanuoc.vn) – Dự thảo các văn kiện trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng xác định, tiếp tục khuyến khích làm giàu chính đáng, phát triển mạnh tầng lớp trung lưu, đưa tầng lớp này trở thành lực lượng to lớn, đông đảo thúc đẩy phát triển xã hội bền vững. Đảng cũng đánh giá cơ hội lịch sử cho sự phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới đến từ cơ cấu dân số vàng và sự gia tăng của tầng lớp trung lưu. Đây được xem là sự phát triển đột phá về nhận thức lý luận của Đảng, về quản lý phát triển xã hội sau 40 năm thực hiện Đổi mới đất nước. Bài viết phân tích kinh nghiệm chính sách nhằm phát triển tầng lớp trung lưu của một số quốc gia, từ đó gợi mở một số hàm ý chính sách cho Việt Nam trong bối cảnh phát triển mới.
Từ khóa: Tầng lớp trung lưu, chính sách, quản lý phát triển xã hội.
1. Đặt vấn đề
Trong dự thảo các văn kiện trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV, Đảng đánh giá, một trong những thành tựu của quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam trong nhiều năm qua là “tỷ lệ người nghèo có xu hướng giảm, tầng lớp trung lưu tăng và chiếm đa số, tỷ lệ người giàu cũng tăng nhanh”1. Đảng cũng đánh giá cơ cấu dân số vàng và sự gia tăng của tầng lớp trung lưu là thành tố góp phần tạo nên cơ hội lịch sử cho sự phát triển mạnh mẽ của đất nước trong kỷ nguyên mới. Theo đó, Việt Nam sẽ tiếp tục khuyến khích làm giàu chính đáng, phát triển mạnh tầng lớp trung lưu2; đồng thời đưa tầng lớp này trở thành lực lượng to lớn, đông đảo thúc đẩy phát triển xã hội bền vững3. Đây là sự phát triển nhận thức lý luận quan trọng của Đảng qua 40 năm đổi mới về chính sách xã hội và quản lý phát triển xã hội bền vững.
Lịch sử phát triển, mức độ phát triển của tầng lớp trung lưu gắn liền và phụ thuộc vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở từng quốc gia. Thực tiễn ở nhiều nước trên thế giới cho thấy, mối quan hệ cơ hữu giữa tiến trình xây dựng xã hội trung lưu với các chặng của công nghiệp hóa4. Mặt khác, các nước phát triển đều thực thi những chính sách đặc thù để thúc đẩy sự gia tăng nhanh chóng của tầng lớp trung lưu cả về chất và lượng trong giai đoạn vượt bẫy thu nhập trung bình. Sau đó, khi bước vào thời kỳ hoàn thiện công nghiệp hóa và hậu công nghiệp hóa, tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể, các nước này tiếp tục có những các chính sách nhằm duy trì sự phát triển của tầng lớp trung lưu nhằm bảo đảm cho sự phát triển ổn định và bền vững của toàn xã hội.
Để thực hiện các mục tiêu như trong Dự thảo Văn kiện Đại hội Đảng XIV đề ra về tầng lớp trung lưu, việc nghiên cứu, phân tích thực tiễn và kinh nghiệm chính sách của một số quốc gia trên thế giới, từ đó gợi mở những hàm ý chính sách đối với Việt Nam trong bối cảnh mới là hết sức cần thiết.
2. Kinh nghiệm quốc tế
Ở châu Âu và bắc Mỹ, tầng lớp trung lưu lớn mạnh cùng với quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Sự phát triển của các thành thị, các công xưởng, nhà máy, văn phòng là môi trường cho sự ra đời của những nhà quản lý, các nhà chuyên môn, nhân viên văn phòng, kế toán, giáo viên, bác sỹ, kỹ sư…
Tại nước Anh, tầng lớp trung lưu bắt đầu lớn mạnh trong những năm cuối thế kỷ XVIII ở các thành phố công nghiệp. Quá trình phân hóa của tầng lớp trung lưu gắn liền với sự gia tăng số lượng của giai cấp này ở Anh. Trong thế kỷ XIX, một bộ phận không nhỏ tầng lớp trung lưu Anh bị tụt xuống tầng lớp dưới do họ không theo kịp những thay đổi của thời đại, đặc biệt là về kỹ năng làm việc. Trong khi đó, một bộ phận khác của tầng lớp trung lưu nước này đã cơ động lên tầng lớp cao hơn, quý tộc hóa hoàn toàn. Chính sự phân hóa này đã làm mất đi tinh thần, bản sắc của tầng lớp trung lưu (đặc biệt là theo đuổi lý tưởng mang lại lợi ích cho cả dân tộc) và là một trong những lý do dẫn đến sự suy giảm vị thế hàng đầu của nền kinh tế Anh trong thế kỷ XX.
Trong khi đó, tầng lớp trung lưu ở Mỹ chiếm khoảng 33% tổng dân số vào cuối thế kỷ XIX (Wright Mills, 1956). Đến thập niên 1980, tầng lớp này chiếm 87,1% tổng dân số, tầng lớp thượng lưu chiếm 6,7% và những người nghèo chiếm khoảng 6,2%. Cấu trúc phân tầng xã hội của Mỹ hiện nay có hình bầu dục (quả trám), trong đó, tầng lớp trung lưu giữ vai trò trung tâm, đại diện cho các giá trị dân chủ, bình đẳng, thịnh vượng, ổn định của quốc gia này. Cùng với công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chính sách kinh tế năng động, chính sách giáo dục có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển ổn định của tầng lớp trung lưu Mỹ.
Mỹ luôn duy trì các chính sách khuyến khích giáo dục bậc trung và cao cấp để đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, chính là nền tảng để duy trì tầng lớp trung lưu phát triển ổn định. Nền giáo dục bình đẳng của Mỹ khiến cho đông đảo người dân và con cái họ (dù xuất thân từ tầng lớp lao động) có cơ hội để trở thành công nhân cổ cồn trắng (tầng lớp trung lưu).
Tương tự như Mỹ, giáo dục cũng có ý nghĩa quan trọng đối với sự ổn định của tầng lớp trung lưu ở Đức. Nền giáo dục nước này được xây dựng trên cơ sở chia sẻ trách nhiệm giữa chính quyền liên bang và các tiểu bang. Chính phủ liên bang làm nhiệm vụ quy hoạch, xây dựng chiến lược giáo dục và đào tạo nghề trong khi quyền điều hành, quản lý các cấp học thuộc về tiểu bang. Chi phí giáo dục ở Đức được trợ cấp rất nhiều và chú trọng đến xây dựng, bồi dưỡng năng lực, kỹ năng làm việc thực tế cho người học. Do đó, sau khi tốt nghiệp, sinh viên (dù học đại học hay học nghề) có thể tìm được công việc với thu nhập ổn định. Ngoài ra, quốc gia này rất coi trọng giới trung lưu, đặc biệt là các triết gia, các trí thức. Ở Đức, các học giả (chủ yếu thuộc tầng lớp trung lưu) luôn đặt niềm tin vào sự tiến bộ của xã hội, có ý thức trách nhiệm trong quản lý hành chính của chính quyền, giữ mối liên hệ lành mạnh với các giai tầng xã hội khác.
Trong khi đó, quá trình phát triển và hiện đại hóa ở châu Á có những điểm khác biệt. Ở châu Âu, quá trình này diễn ra tuần tự trong vài thế kỷ trong khi ở châu Á hiện đại hóa bắt đầu muộn hơn song lại diễn ra trong khoảng thời gian ngắn hơn qua hình thức công nghiệp hóa rút gọn.
Năm 1868, triều đình Minh Trị của Nhật Bản tuyên bố “tứ dân bình đẳng” (Shimin Byodo) để xóa bỏ sự phân biệt giữa bốn tầng lớp võ sĩ, nông dân, thợ thủ công và thương nhân (Shi-No-Ko-Sho). Đây là bốn giai tầng xã hội cơ bản ở Nhật Bản tồn tại trong chế độ phong kiến trước đó. Năm 1881, chính quyền Minh Trị tiếp tục bãi bỏ danh pháp Eta và Hinin5 và thay vào đó, chính quyền định ra những tên gọi mới là Kazoku, Shizoku và Heimin. Kazoku bao gồm các lãnh chúa (daimyo) và quý tộc cao cấp cũ. Shizoku gồm các cựu võ sĩ đạo trong khi Heimin (bình dân) gồm nông-công-thương.
Chính quyền Minh Trị thực thi nhiều chính sách nhằm phát triển nền công nghiệp sản xuất tiên tiến với hàng loạt các trường đại học, nhà máy, công xưởng kéo theo sự ra đời của các tầng lớp trung lưu mới ở đô thị. Tầng lớp mới này có xuất thân rất đa dạng, từ võ sĩ đạo cho đến các nông gia, thợ thủ công và hội nhập vào đời sống bằng nhiều ngành nghề, lĩnh vực khác nhau từ buôn bán, kinh doanh, chủ doanh nghiệp nhỏ, viên chức, trí thức, nhà quản lý, chuyên môn,...
Sau thời kỳ Minh Trị, Nhật Bản tiến hành công nghiệp hóa nhanh kéo dài 39 năm (1930~1969)6. Vào khoảng 10 năm cuối thời kỳ công nghiệp hóa trong giai đoạn tăng trưởng cao ở Nhật Bản (1955~1965), tỷ lệ nông dân giảm trung bình 2%/năm7. Sự giảm đi nhanh chóng của tầng lớp nông dân ở Nhật Bản và sự gia tăng của tầng lớp trung lưu đã làm cho mô hình phân tầng xã hội dịch chuyển từ hình kim tự tháp năm 1955 sang hình quả trám năm 1965. Nói cách khác, trong thập niên 1960, tầng lớp trung lưu đã chiếm đa số trong cấu trúc phân tầng xã hội của Nhật Bản và quốc gia này trở thành một xã hội trung lưu.
Các nghiên cứu về tầng lớp trung lưu ở Trung Quốc cho thấy, họ chủ yếu tập trung ở các vùng có tốc độ đô thị hóa và công nghiệp hóa nhanh. Năm 2005, Cục Thống kê Nhà nước Trung Quốc khảo sát 263.000 hộ gia đình ở đô thị và sử dụng tiêu chí thu nhập trung bình để xác định tầng lớp trung lưu. Nghiên cứu này đã ước tính có 5% các gia đình đô thị là gia đình trung lưu, tỷ lệ này tăng lên 14% vào năm 2010 và 45% vào năm 20208.
Một số nghiên cứu khác ước tính tầng lớp trung lưu chiếm 40% dân số các thành phố lớn như Bắc Kinh, Thượng Hải vào năm 2009 còn theo phân loại của Ngân hàng phát triển châu Á với ngưỡng thu nhập bình quân đầu người 2-20 PPP USD/tháng thì vào năm 2007, Trung Quốc đã có tới 89% dân số được coi là tầng lớp trung lưu9. Song nhiều học giả và giới truyền thông Trung Quốc không ủng hộ các phân loại của ADB. Một nghiên cứu khác cũng công bố năm 2010 ước tính tầng lớp trung lưu của Trung Quốc chiếm khoảng 12% tổng dân số với tiêu chí chi tiêu hàng ngày của hộ gia đình từ 10-100 PPP USD10.
Trong khi đó, ở Hàn Quốc, tầng lớp trung lưu lớn mạnh nhanh chóng trong thời kỳ công nghiệp hóa trong thập niên 1960 và 1970. Đầu thập niên 1960, tầng lớp trung lưu ở Hàn Quốc còn rất mỏng. Giai đoạn trước thập niên 1960, Hàn Quốc là một trong những nước nghèo nhất thế giới với thu nhập trung bình thấp hơn 150 USD/năm, giới cổ cồn trắng ở Hàn Quốc còn rất ít và nông dân vẫn chiếm đa số. Chỉ trong thời gian ngắn từ năm 1960 trở đi, đội ngũ kỹ sư, lao động chuyên môn, nhà quản lý của nước này gia tăng nhanh chóng cùng với chính sách phát triển công nghiệp nặng của Tổng thống Park Chung Hee.
Thập niên 1970 chứng kiến sự phát triển vũ bão của các Chaebols ở Hàn Quốc. Park Chung Hee rất ưa thích các tập đoàn như Hyundai hay Daewoo bởi họ sẵn sàng đầu tư vào công nghiệp nặng (Clifford, 1998)11. Các Chaebols phát triển tác động mạnh đến thị trường lao động Hàn Quốc. Nhu cầu lao động có trình độ chuyên môn tăng mạnh kéo theo sự phát triển của hệ thống giáo dục và đào tạo nghề.
Giai đoạn 1963-1983, số lượng các nhà chuyên môn, quản lý, nhân viên văn phòng tăng rất nhanh từ 6,7% lên 16,6% (Koo, Hagen, 1991)12. Trong thời gian này, số lượng kỹ sư tăng gấp mười lần, số lượng nhà quản lý tăng gấp đôi và lương của họ cũng cao gấp bốn lần so với công nhân sản xuất (Amsden, 1989)13. Lương cao, công việc ổn định, phúc lợi xã hội tốt và trình độ chuyên môn cao khiến vị thế xã hội của tầng lớp trung lưu liên tục tăng. Chỉ trong giai đoạn ngắn, giai tầng này đã trở thành biểu tượng của sự phát triển. Họ đóng góp quan trọng cho quá trình tăng nhanh của tổng sản phẩm quốc nội bởi sự tận hiến và chăm chỉ lao động. Họ còn là những “chiến binh công nghiệp” mang về rất nhiều ngoại tệ từ các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng ở khu vực Trung Đông và Bắc Phi. Nói cách khác, tầng lớp này vừa mang lại kinh tế, vừa nâng cao vị thế trên trường quốc tế cho Hàn Quốc.
Có thể nói, trong thập niên 1970, chính sách chuyển đổi kinh tế công nghiệp nặng do các Chaebols làm mũi nhọn đã thúc đẩy tầng lớp trung lưu phát triển nhanh chóng và chính họ ngày càng khẳng định vị thế và vai trò của mình. Tầng lớp trung lưu ở nước này đã lớn lên nhanh chóng trong bối cảnh các dòng di cư lao động nhộn nhịp từ nông thôn ra các đô thị cùng với quá trình công nghiệp hóa rút ngắn và sự phát triển nhanh của giáo dục và đào tạo nghề. Bối cảnh này tạo ra những điểm khác biệt bởi không chỉ có sự di động, chuyển hóa từ tầng lớp trung lưu cũ thành tầng lớp trung lưu mới mà còn từ công nhân và nông dân trở thành tầng lớp trung lưu cũ. Trường hợp của Hàn Quốc cho thấy, giới trung lưu không chỉ là “sản phẩm tự nhiên” của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa mà được hình thành có chủ đích với quyết tâm chính trị rõ ràng và các chính sách cụ thể trên cả phương diện kinh tế, văn hóa và xã hội.
Khác với Nhật Bản và Hàn Quốc, sự hình thành và phát triển của tầng lớp trung lưu ở Singapore và Malaysia gắn liền với bối cảnh chính trị, nền độc lập cũng như đặc điểm của nhà nước – dân tộc hay thành phố thuộc địa cũ. Theo Keiko Tamura (2003)14, tầng lớp trung lưu ở Singapore luôn ủng hộ chính trị trong việc tăng trưởng kinh tế và bảo đảm phúc lợi xã hội. Ở Singapore, nhà nước luôn thúc đẩy các chính sách phát triển nguồn nhân lực, giáo dục và nhiều ưu đãi khác nhằm nuôi dưỡng một tầng lớp trung lưu tinh hoa. Ở Malaysia, nét nổi bật của giới trung lưu xuất phát từ những sáng kiến của chính phủ nhằm nuôi dưỡng một nhóm người Malay – nhóm sắc tộc đặc trưng. Trong các chính sách đa dạng hóa nền kinh tế, chính phủ coi tầng lớp trung lưu người Malay là những hạt nhân, cho dù các chính sách này có sự thay đổi theo thời gian. Do vậy cho đến những năm 1999, họ vẫn có xu hướng bảo thủ về chính trị (Takashi Torii, 2003)15.
Ở Thái Lan, với khu vực sản xuất nông nghiệp rộng lớn, đang dạ và di cư nông thôn – đô thị diễn ra tuần hoàn thì người di cư từ nông thôn khó định cư lâu dài ở đô thị và thường phải quay về nơi xuất cư. Giới trung lưu của Thái Lan thường có nguồn gốc từ các tầng lớp xã hội thấp ở đô thị và di động đi lên (thăng tiến) ở các thành phố có nhiều cơ hội làm ăn, giáo dục, đặc biệt là Bangkok. Đặc trưng cơ bản của tầng lớp trung lưu ở Thái Lan là tập hợp những người có học vấn dù trải qua sự kết nối các nhóm có nguồn gốc xã hội khác nhau (Funatsu and Kagoya, 2003)16.
Trong khi đó ở Philippines, quá trình hiện đại hóa diễn ra với tốc độ không cao. Tỷ lệ tăng trưởng của khu vực kinh tế công nghiệp hiện đại của nước này không đủ lớn để hút khối lao động từ khu vực nông thủy sản. Cho đến đầu thập niên 2000, giới trung lưu ở nước này có số lượng tương đối nhỏ và mức độ cố kết xã hội cũng như vai trò còn thấp. Do vậy, họ chưa gây dựng được cho mình những ảnh hưởng chính trị rõ nét đối với đời sống xã hội của đất nước. Nhìn chung, các nước ở khu vực Đông Nam Á (trừ Singapore) vẫn chưa trở thành quốc gia phát triển và xây dựng được xã hội trung lưu bởi tầng lớp trung lưu chưa đủ lớn mạnh cả về chất và lượng.
Tóm lại, tầng lớp trung lưu ở châu Á là sự hòa trộn của tập hợp những người có nguồn gốc/kết nối xã hội khác nhau. Cùng với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa rút gọn, họ gia nhập vào giới trung lưu thông qua sự cơ động xã hội đi lên trong cấu trúc phân tầng. Tuy nhiên, đặc trưng của tầng lớp trung lưu ở mỗi quốc gia châu Á cũng rất khác biệt và không có mội mẫu số chung, đồng nhất. Mặt khác, những đặc điểm xã hội của họ, đặc biệt là vị thế và vai trò chính trị của tầng lớp này được định dạng bởi nhiều nhân tố mà ở đó, chính sách phát triển của các chính phủ giữ vai trò hết sức quan trọng. Tầng lớp trung lưu ở Việt Nam cũng chia sẻ bối cảnh phát triển và những đặc điểm này giống như các quốc gia trong khu vực.
3. Một số hàm ý chính sách cho Việt Nam trong bối cảnh phát triển mới
Thứ nhất, cần xây dựng bộ chỉ số nhằm theo dõi và đánh giá sự phát triển của tầng lớp trung lưu trong từng giai đoạn phát triển của đất nước để làm cơ sở cho việc hoạch định chính sách thúc đẩy trung lưu hóa và quản lý phát triển tầng lớp trung lưu. Bộ chỉ số này được xác định dựa trên các yếu tố cơ bản, gồm: thu nhập của hộ gia đình; nghề nghiệp của người trong độ tuổi lao động; tình trạng nhà ở (sở hữu nhà ở); trình độ học vấn; tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản (y tế, giáo dục, văn hóa và thông tin); sự tham gia xã hội. Mỗi chỉ số cơ bản này được cấu thành bởi nhiều chỉ báo cụ thể, có thể đo đếm, định lượng được rõ ràng và áp dụng cho 3 nhóm gồm nhóm trung lưu thấp, trung lưu giữa và trung lưu cao. Các chỉ báo được hiệu chỉnh để phù hợp với trình độ phát triển của Việt Nam qua từng thời kỳ.
Thứ hai, phát triển tầng lớp trung lưu không chỉ chú trọng đến việc cải thiện các điều kiện về thu nhập và cơ sở hạ tầng xã hội (như nhà ở, điều kiện sống, dịch vụ giáo dục, y tế, thông tin…) mà việc xây dựng văn hóa, lối sống cũng giữ vai trò rất quan trọng. Khi tầng lớp trung lưu trở thành lực lượng to lớn, đông đảo và chiếm đa số trong cấu trúc dân số, lối sống của tầng lớp này có ảnh hưởng rất lớn đối với diện mạo của toàn xã hội.
Các kinh nghiệm chính sách như của Hàn Quốc, Nhật Bản trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa là rất đáng chú ý, đặc biệt là các giải pháp nhằm xây dựng, định hình hệ giá trị văn hóa, lối sống cho tầng lớp trung lưu. Ở khu vực nông thôn, cần đẩy mạnh đầu tư phát triển các không gian công cộng nhằm cải thiện và nâng cao đời sống văn hóa, duy trì và củng cố các liên kết xã hội, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc trong dòng chảy phát triển hiện đại. Ở các đô thị, các chính sách có thể tập trung nhằm khuyến khích tinh thần khởi nghiệp, lao động chăm chỉ và tiết kiệm, đầu tư cho giáo dục thế hệ tương lai và phát huy khả năng sáng tạo trong các hoạt động văn hóa, xã hội.
Thứ ba, nhằm tạo cơ sở phát triển bền vững cho tầng lớp trung lưu nói riêng và đất nước nói chung, các chính sách cần chú trọng để xây dựng một nền giáo dục và đào tạo nghề bài bản, chuyên sâu và hiện đại. Các kinh nghiệm trong lĩnh vực này của Mỹ và một số nước châu Âu trong suốt nhiều thập kỷ qua cung cấp những gợi ý đáng tham khảo.
Việt Nam cần phát triển nhanh các trường đại học và trường dạy nghề chất lượng cao nhằm đào tạo nguồn nhân lực có khả năng đáp ứng các nhu cầu phát triển mới, đặc biệt là công nghệ số. Bên cạnh đó, các chính sách hỗ trợ tài chính cho học viên, sinh viên (đại học, sau đại học và học nghề) cần chuyển từ hướng đáp ứng “nhu cầu sinh tồn” (ăn, ở, đi lại, đóng học phí) sang hướng đáp ứng nhu cầu phát triển (tham gia các khóa học bồi dưỡng kỹ năng, trao đổi sinh viên, đầu tư các dự phát khởi nghiệp, mua sắm các trang thiết bị phục vụ mục đích học tập…).
Chú thích:
1. Dự thảo Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn về công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong 40 năm qua ở Việt Nam, tr. 48.
2. Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban chấp hành trung ương Đảng (khóa XIII) tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng, tr. 33.
3. Dự thảo Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn về công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong 40 năm qua ở Việt Nam, tr. 27.
4. Về mối quan hệ giữa tầng lớp trung lưu và quá trình phát triển, xin xem bài viết “Một số vấn đề lý luận về chính sách phát triển tầng lớp trung lưu ở Việt Nam”. https://www.quanlynhanuoc.vn/2025/10/09/mot-so-van-de-ly-luan-ve-chinh-sach-phat-trien-tang-lop-trung-luu-o-viet-nam/
5. Trong thời kỳ Tokugawa, Eta là những người đồ tể, thợ thuộc da và người làm dịch vụ tang lễ. Hinin làm gác thành, quét đường và đao phủ.
6. Theo nhà xã hội Tadashi Fukutake, Nhật Bản tiến hành hiện đại hóa (công nghiệp hóa và đô thị hóa) kể từ thời Minh Trị duy tân (1870s) và trở thành nước công nghiệp (hơn là nông nghiệp) vào trước Chiến tranh thế giới lần thứ II (1940). Cuộc chiến tranh này đã tàn phá rất nặng nề đất nước Nhật Bản. Do vậy trong thực tiễn cuộc sống, sau 70 năm hiện đại hóa kể từ Minh Trị duy tân, Nhật Bản phải bắt đầu lại trên đống tro tàn đổ nát của chiến tranh (Tadashi Fukutake, 1989: 11, 17, 77, 85).
7. Đỗ Thiên Kính (2014). “Cản trở đối với tầng lớp nông dân trong hệ thống phân tầng xã hội ở Việt Nam hiện nay”. Tạp chí Xã hội học, số 2: 4-14.
8. Trần Thị Minh Ngọc (2018). Tầng lớp trung lưu trong phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở Việt Nam. H. NXB Khoa học xã hội.
9. ADB (2010). The rise of Asia’s middle class. Manilla: Asian Development Bank.
10. Kharas, H., & Gertz, G (2010). The new global middle class: a cross-over from West to East (1-14), Wolfensohn Center for Development at Brookings.
11. Clifford, Mark L (1998). Trouble Tiger: Businessmen, Bureaucrats, and Generals in South Korea, Armonk, NY, tr. 113.
12. Koo, Hagen (1991). “Middle Classes, Democratization, and Class Formation: The Case of South Korea”. Theory and Society (20), tr. 485.
13. Amsden, Alice (1989). Asia’s Next Giant: South Korea and Late Industrialization. NY, Oxford University Press, tr. 171.
14. Keiko T. Tamura (2003). “The Emergence And Political Consciousness Of The Middle Class In Singapore”. The Developing Economies, Institute of Developing Economies, vol. 41(2), pages 184-200.
15. Takashi Torii (2003). “The Mechanism For State-Led Creation Of Malaysia’S Middle Classes”. The Developing Economies, Institute of Developing Economies, vol. 41(2), pages 221-242.
16. Funatsu, Tsuruyo and Kazuhiro Kagoya (2003). “The middle class in Thailand: the rise of the urban intellectual elite and their social consciousness”. The Developing Economies, Institute of Developing Economies, Vol 41(2): 243-263.
Tài liệu tham khảo:
1. Lê Kim Sa (2022). Đặc trưng và vai trò của tầng lớp trung lưu ở Việt Nam. H. NXB Khoa học xã hội.
2. Fukutake Tadashi (1989). The Japanese social structure: Its Evolution in the Modern Century – second edition. University of Tokyo press, Tokyo.
3. Wright Mills (1956). White Collar. Oxford University Press.



